Trà Khan
Làng Côn Đan tên một làng miền quê tỉnh Quảng Trị giáp tuyến với
ḍng sông Bến Hải. Tất cả nơi đây đều mang những địa danh tuyệt đẹp
như Cồn Tiên, Trung Lương, Gio Linh, Ái Tử v.v… Nhưng oan nghiệt
thay những địa danh này cũng là nơi gió đạn mưa bom đêm ngày không
ngơi nghỉ. Và cũng nơi này là vùng đất cày lên sỏi đá, có người bừa
thay trâu cày.
Người em gái thuộc cư dân nơi miền đất kể trên. Em mồ côi cha mẹ từ
thuở nhỏ, bởi trái pháo oan nghiệt đă giết chết cả cha lẫn mẹ em, kể
từ lúc em ba tháng tuổi. Em được viện mồ côi nuôi dạy và đặt cho tên
Lệ Mi, cái tên định mệnh cho đến cả cuộc đời nàng, lúc nào tiếng
khóc cũng thay cho tiếng cười trên gương mặt ôm trọn nỗi buồn của
nhân thế.
Những địa danh gió tanh mưa máu, nơi đây có những gia đ́nh đều chết
hết, không c̣n một ai để nhớ để thương, hay để oán trách hận ǵ thù
nữa !
Ḍng sông Bến Hải là nơi chia hai miền Nam-Bắc. Nhưng chỉ một ḍng
chảy nhỏ, một con lạch nhỏ cũng có thể chia con người thành đôi bờ,
chẳng c̣n lệ thuộc về một ai nữa, trên cả lĩnh vực t́nh yêu cũng như
ư thức hệ.
Lệ Mi, như cây trụi mùa Đông, nàng vẫn là cây cổ thụ miệt mài dẫu
Đông có về nhưng hoa ḷng vẫn nở, nàng có biết gặp ai không để đợi
chờ ! Nàng chỉ hy vọng một chút nắng chiều dầu là hắt hiu, mong rọi
đến để nàng thắp sáng chút hy vọng, nhưng cũng thấy rất hiếm hoi.
Lệ Mi chờ và chờ măi người bạn đời của nàng là người lính mang tên
Vũ đồn trú nơi đầu giới tuyến, vừa quen nhau lúc nàng ở tuổi mười
tám, lứa tuổi đầy mộng mơ cho một ngày mai tươi sáng. Họ cưới nhau
chưa tṛn những chiếc hôn, chàng phải quay bước ra đi về đơn vị, và
cũng từ đó chồng nàng đă xa và xa măi.
T́nh yêu giữa nàng và chàng đă chết ngay giữa hoàng hôn, thế mà Lệ
Mi cứ ngỡ rằng ảo ảnh ấy vẫn c̣n nguyên vẹn.
Nàng biết yêu lính là chấp nhận cuộc sống buồn, “chinh phu tử sĩ mấy
người” và mấy người đi rồi trở lại. Thế nhưng nàng vẫn yêu lính, như
một thứ t́nh yêu thiêng liêng, nàng vẫn phải tiếp tục đi cho trọn
nghĩa t́nh thủy chung.
Nhạc buồn đời lính là những t́nh khúc thời chinh chiến làm cứu cánh
của những người ở hậu phương, và cũng là nguồn an ủi duy nhất khi
lính dừng chân trên Poncho, hay nơi tiền đồn nay rừng mai mốt núi
thẳm. Vặn nhỏ chiếc Radio qua chương tŕnh Dạ Lan người em gái hậu
phương “nếu em không là người yêu của lính” hay thăm hỏi gởi qua làn
sóng điện “giờ này anh ở đâu, Bến Hải hay Cà Mau, biên cương hay
nông trường.” Người lính cho đó là sân khấu thu nhỏ nơi chiến
trường, hạnh phúc mong manh từng phút qua từng giây trong giờ phút
đêm khuya, đôi khi lời ca tiếng nhạc ḥa lẫn những đốm mắt hỏa châu
soi sáng, người lính tưởng đang mơ một ngày về phép nơi kinh thành.
Nhưng dầu sao cũng là nguồn xúc tác to lớn cho người lính VNCH đang
xông pha ngoài trận tuyến, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Người lính ngày ấy dẫu ở tiền đồn hay biên khu xa thẳm, th́ vợ con
và người yêu anh nơi hậu phương, xem như những cánh hoa thời loạn
bên dây kẽm hầm chông, là nguồn tiếp liệu tinh thần vô giá để người
lính có thêm sức sống.
Hy vọng ngày chinh chiến tàn, Lệ Mi cũng như những người vợ lính
khác, mong đợi ngày đoàn viên cùng các anh trong khúc khải hoàn ca.
Nhưng thời gian trôi qua, năm tháng trôi theo không như ư, và những
ai đă từng yêu lính mang một niềm thương tiếc vô bờ, khi nghe tin
anh gục ngă trước đạn thù.
Và chính nơi này là cái bến cuối cùng của cuộc sống. Người lính đă
về đây lạnh ngắt, máu đông khô cứng từng cục, hay c̣n rịn máu tươi
nguyên. Ḍng máu ấy, máu nào là của mẹ và t́nh thương nào là của em
! Người thân anh, vợ con anh và bạn bè anh, “nào ai gọi mặt nào ai
gọi hồn” !
Nhưng đau thương hơn hết, khi h́nh hài anh không c̣n nguyên vẹn trở
về, thân xác anh đă gói tṛn trong tấm Poncho, mà trước đây chính
anh đă dùng nó để che mưa tránh nắng. Ngoài bút nào dẫu có điêu
luyện sâu sắc đến đâu, cũng không diễn tả hết cảnh thực, người thực,
đớn đau tột cùng trên hiện trường giờ phút cuối ấy, khi anh đă trở
về thực thụ bằng một thể xác lụn vụn thịt xương, giữa những vật vă
đau thương gào thét của vợ con anh và người thân anh, bên cạnh những
khăn sô và hai hàng nến trắng.
Giờ đây anh phủ màu cờ, và chỉ c̣n một “tấm thể bài mang tên anh.”
Anh chỉ có ngần ấy để lại em và cho người thân anh. Anh đă chết cho
em, và cho dân tộc anh, qua hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa.
Hỡi người Chiến sĩ đă yên giấc ngh́n thu! Và những người lính hiện
sống c̣n đang phiêu bạt trên khắp năm châu bốn bể, có phải các anh
là hiện thân của “kiếp dă tràng xe cát biển đông” thời đại? Của giấc
Nam Kha bất b́nh.
Sau khi phủi sạch tay, một đau thương ê chề đổ nát, cho những cô nhi
quả phụ, những anh em thiếu hụt, người hao ṃn, đang tiếp diễn trên
quê hương người lính hôm nay.
Người dân miền Nam chân chính, hay những ai c̣n mang nặng vết thương
ḷng với người lính VNCH ắt phải c̣n thiếu món nợ tinh thần, mặc dầu
các anh không đ̣i hỏi. Nhưng dân tộc anh cần phải có nhiệm vụ ơn đền
nghĩa đáp, thiết thực bằng hành động không bằng lời. Các anh là
những những bậc thánh đă có công với Tổ quốc, v́ nước quên ḿnh, v́
đồng bào anh hy sinh.
Cuộc sống của gia đ́nh người lính nói riêng và của đồng bào miền Nam
Việt Nam nói chung, là t́nh ruột thịt của những người cùng hội cùng
thuyền, khi thấy máu chảy ắt ruột phải mềm, và lúc nào cũng mang
theo sau một trang sử ḷng, đang dày ṿ măi đến hôm nay và đến tận
mai sau, khi con đường đi không có đến.
Anh! 41 năm sau ngày Quốc biến! Có c̣n chi không anh, hay chỉ c̣n là
tấm thẻ bài mang tên anh, và hàng hàng lớp lớp nấm mồ người lính
VNCH nơi nghĩa trang bị kẻ thắng đào bới sang bằng, c̣n đâu “nghĩa
tử là nghĩa tận” anh ơi!
Người lính có thấy ǵ không anh! Tượng tiếc thương rơi xuống ngoài
đường phố, để hồn thiêng anh phẫn uất những việc làm bất nhân của kẻ
thắng, để từ đó anh đứng dậy đ̣i hỏi câu trả lời. Và anh sẽ tha thứ
cho họ, để họ có dịp được làm người một lần nữa.
Và c̣n nhiều nữa nữa! Những nấm mộ nơi góc núi b́a rừng không tên
tuổi, người thân của anh cũng chẳng biết đâu đi t́m.
Lệ Mi, người thiếu phụ phụ son trẻ góa chồng lúc tuổi 18. Nàng giữ
lời sắt son, dầu không ai bắt buộc nàng phải ở vậy thờ chồng! Đến
nay Lệ Mi 56 tuổi đời, nàng không bước thêm bước nữa.
Hằng năm, đến ngày 30 tháng 4 và dịp Tết Nguyên Đán về trước đó một
tháng. Nàng âm thầm mua bông hoa nhang khói, và cầm bên tay nhiều
tấm thiệp nàng tự làm, và viết sẵn trên trang giấy b́a cứng cỡ trang
giấy học tṛ. Lệ Mi mượn mấy vần thơ “Anh hùng vô danh” của Đằng
Phương để cắm trên mộ người quá cố. Nàng t́m đến những ngôi mộ nơi
nghĩa trang bị đào bới, và những ngôi mộ người lính VNCH vô chủ.
Lệ Mi cắm thiệp, hoa, và thắp nhang trên ngôi mộ. Nàng mím chặt môi
để khỏi bật lên tiếng khóc, nhưng đau thương uất nghẹn vẫn dâng
trào.
“Họ là những anh hùng không tên tuổi.
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên.
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên.
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật.
Nhưng máu họ đă len vào mạch đất.
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm t́nh chung.
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.”
Nàng có linh cảm hồn thiêng của người chiến sĩ đâu đây, ḥa trong
cơn gió chiều buông xuống, mang từng loạt tiếng thở dài vọng lên từ
ḷng đất lạnh, như muốn chia sẻ nỗi xót xa của người cô phụ bằng dư
âm đáp lễ.
Rồi những ngày tháng quen thuộc ấy. Lệ Mi thường gặp những tiếng ca
bên ngoài hè phố, bên góc chợ cuối đường. Anh em ấy đến ngày tàn
cuộc chiến, mất tay thiếu chân, nay chỉ c̣n là thân xác ră rời, đă
mượn lời ca bất đắc với cây đàn tự tạo một dây, qua bài hát tự tạo
“không ai ngăn nổi lời tôi ca” làm lay động ḷng người, khi nghĩ đến
t́nh cố cựu, và những ai c̣n giữ chút nghĩa xưa, bằng liên khúc t́nh
ca rướm “sau cuộc chiến này có c̣n chi không anh”!
Tiếng ca ngoài đường phố, tiếng ca của lứa tuổi thanh xuân đầy nhựa
sống, giờ đây đă mất hẳn. Những người anh em ấy ngày nay, họ bị xă
hội thống trị bạc đăi và người đời lăng quên họ.
Ai quên ai nhớ đến người lính hiện đang sống c̣n trên quê mẹ. Họ là
những người một thời đang ôm kín nỗi cô sầu, nhưng lương thiện trên
đôi môi, sống nơi đây và chết cũng nơi đây ! Để cho ai và cho những
ai “Nhất tướng danh thành vạn cốt khô.”
Người lính đi không ai tiễn, người lính về không ai đón, chỉ có vợ
con người lính hiểu và biết được giá trị đều đó, và cũng không ai
thương lính bằng vợ con người lính, một trái hỏa châu lập ḷe về
phía trời xa, nơi người lính đóng quân, cũng làm vợ con họ mất ngủ
âu lo. Để cho những ai không mấy mẩy may, không một chút ǵ liên hệ
đến người lính, cứ ngủ ngáy thẳng giấc trong chăn êm nệm ấm, và cho
một ai đó chưa thức khuya làm sao biết đêm dài.
Ngày nay, anh đă mượn sân khấu cuộc đời c̣n lại, bên chiếc nạng gỗ
làm đôi chân đứng, với chiếc mũ sắt phai màu thuở trước. Sau cuộc
chiến anh chỉ c̣n có ngần ấy thôi.
Anh đă từng vào sinh ra tử nhờ nó che chở, để tránh những viên đạn
thù bắn thẳng vào đầu anh. Anh đă dùng nó như người bạn đời ngoài
trận tuyến. Chính nó đă giúp anh trong mọi lănh vực của sự sống lúc
quân hành, nấu nướng, xách múc, tắm rửa. Giờ này anh không xem nó là
vật kỷ niêm, mà chính nó đă trở thành một thứ t́nh yêu thiêng liêng
mầu nhiệm đối với đời anh.
Rồi hôm nay đây, nó theo sát anh bên cạnh. Anh xem nó như một “người
t́nh không chân dung” “anh đâu em đó.” Anh đă đem sinh mạng đời
ḿnh, đặt trên đường bay của tầm đạn, và đặt niềm tin vào sự sống
c̣n nơi anh trên ṇng súng thân quen. Anh đă quen trong gian khổ, và
làm bạn với hiểm nguy.
Xin ai đó, đừng hiểu lầm là anh đă bán nó một cách dễ dàng, hay
những ai lợi dụng sự nghèo đói của anh, mua về làm mũ bảo hiểm che
chở cho người thân quen họ! Không! Tất cả đều không! Dầu anh là lính
quê mùa dốt nát. Nhưng anh vẫn c̣n một chút liêm sỉ, anh không bán
rẻ lương tâm, nhất là “bán” với ‘buôn.” Anh nhắn lời đến những ai.
Nếu có bán buôn ǵ th́ buôn bán, xin đừng “bán nước” và “buôn dân.”
Giờ phút này, anh đặt nó bên cạnh chân anh, để anh “mua ḷng từ tâm”
những ai c̣n có chút t́nh người qua lại nơi đây. Tiếng hát của anh
chỉ là tiếng ca ngoài đường phố, chỗ đứng của anh chỉ c̣n vỏn vẹn
trên nạng gỗ. Anh đă về từ bốn vùng Chiến thuật, từ những Quân binh
chủng kiêu hùng, đă từng một thời làm bạt vía kinh hồn quân giặc.
Thế nhưng, có kẻ nào đó không một chút ǵ thương xót đến người bạc
phận hôm nay, đă liệng vào nón sắt anh những trái chanh chua hơn
giấm, thay v́ cho anh một vài tờ “bạc cụ” để anh mua được dĩa xôi
cho ngày.
Hành vi đó, không làm anh tổn thương chút nào. Anh sẵn sàng đưa tay
đón nhận kẻ đă cho anh trái chanh chua, nếu có cả quả cam sành hay
quít hôi anh cũng nhận tất cả.
Anh nghĩ rằng “chanh chua khế chín cũng chua”. Anh không chê chua và
cũng không trách đắng. Anh sẽ biến những quả chanh, hay quả cam sành
thành những ly chanh đá có đường uống rất hữu ích, vừa giải nhiệt
vừa đỡ khô cổ. Anh chẳng biết nói ǵ hơn, bằng hai chữ cảm ơn người
cho chanh! Dầu anh hôm nay thân tàn ma dại, nhưng lương tâm anh
không ma dại.
Ḷng khoan dung của người lính vừa thua trận hôm qua, luôn luôn là
tấm ḷng vị tha đáng giá nhất trên đời, cho những ai thật tâm kể cả
những kẻ manh tâm.
Chế độ VNCH trước đây, đă giáo dục người lính qua bài Công dân giáo
dục, “hăy trọng người để được người trọng lại”.
Và giờ đây anh không c̣n là những ngày xưa thân ái thuở trước. Tiếng
hát của kẻ đă bị tước đoạt mọi quyền sống. Tiếng hát của anh thăng
trầm không theo phách nhịp, có lúc gào thét vùng vẫy như con mănh
thú bị đạn, thoát ra từ con tim se thắt, đôi mắt anh mở to rồi từ từ
nhắm nghiền lại, giọng hát trầm lắng mang nhiều đau thương rồi tắt
lịm, đă làm những ai c̣n chút t́nh người, dừng chân đứng nghe chắc
chắn sẽ làm năo ḷng không ít.
Ai đă yêu lính bằng lời, qua sách vở, trên màn ảnh tivi, và những
hoạt cảnh mang nặng phần tŕnh diễn, bên Quân phục mũ xanh mũ đỏ, mũ
nâu, với bộ Trelli “cáu cạnh” ủi hồ thẳng nếp, và dưới chân với đôi
Boot bóng loáng, để cho người xem thấy rằng người lính “Nh́n quân
phục biết tư cách.” Và nhịp nhàng lâm ly hơn, bên những vần thơ ngậm
ngùi “Sông Dịch tiễn anh đi” rồi dũng cảm trong tiếng vó ngựa “thét
roi Cầu Vị ào ào gió thu.”
Thế th́, nước mắt nào là của Lưu Bị, và nước mắt nào là của Tào
Tháo, xin người “ngoài ṿng cương tỏa” trả lời giúp.
Nh́n lại hôm nay, người lính VNCH đang đi những bước cuối đời trên
Quê hương không c̣n chỗ đứng cho anh. Lịch sử giờ đă sang trang. Dân
tộc Việt nói chung và gia đ́nh bạn bè anh nói riêng, đă ghi chiến
công anh vào trang sử xanh. Và chỉ c̣n biết nói “tôi nhớ tên anh”
trong mọi trái tim của người Quốc Gia chân chính. Và người viết bài
này, xin mượn hai câu thơ Nguyễn Du làm lời kết “áo xiêm ràng buộc
lấy nhau, vào luồn ra cúi công hầu mà chi.”
Trà Khan
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Giấc mộng kinh hoàng
Hồi Kư của
vợ người tù “cải tạo”
Viễn thám
Trong bóng hoàng
hôn
Tâm sự cùng
Nữ Sĩ Dư Thị Diễm Buồn
Phản bội Đồng Minh
hay thay đổi chiến lược chống CS
Cái áo Jacket Không Quân
Ánh sáng cuối
đường hầm
Sức mạnh của đồng
tiền
Di chúc tuyệt mệnh
Rồi tôi sẽ hạnh phúc
Anh không chết đâu anh
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?
Nồi chè của Ông Tướng
Người cha trăm tuổi
Hai ngày gác ở Nghĩa Trang Quân Đội
Dự
lễ Phật Đản
Từ mặt đường dậy sóng ...
Viết cho một người lính
Mặt trận Tân Cảnh, Kontum 1972
Nghĩa Quân
Chia sẻ với các em
của chị