Page 194 - Dac San BK 2013
P. 194

(chin), lượng (liang), phân (fen). Nhưng ngay bây giờ,   được  kiểm  nghiệm  như  thuốc  tây  hiện  đại  trước  khi
           ở  Trung  quốc,  người  ta  dùng  những  hệ  thống  khác   bán ở thị trường.
           nhau về cân lượng như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng;
           thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ   d- Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của
           thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng.               những ngự tửu.

           Những  ấn  định  về  đo  lường  trong  nhiều  triều  đại  đã   Trường  hợp  của  Minh  Mạng  thang  với  những  tên
           làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền   “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”
           Hoa  lục  đă  chuyển  theo  hệ  thống  thập  phân  (metric   có tính cách khoa trương huyền thoại chăng?
           system)  thay  vì  hệ  thống  cân  lượng,  nên  trong  nhiều   Ta  hãy  thử  duyệt  lại  số  con  cái  của  vua  chúa  nhà
           sách thuốc in tại Hoa Lục, hệ thống trọng lượng được   Nguyễn chín đời chúa là:
           thống nhất như sau, để dễ bề tính toán:
                                                                - Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) có 12 con: 10
           1 lượng = 30 g (hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)   trai và 2 gái
           1 tiền = 3g                                          -  Chúa  Săi  Nguyễn  Phúc  Nguyên  (1563-1635)  có  15
           1 phân = 0.3g                                        con: 11 trai và 4 gái
                                                                -  Chúa  Thượng  Nguyễn  Phúc  Lan  (1601-1648)  có  4
           Vậy về phân lượng trong 2 toa thuốc Minh Mạng trên,   con: 3 trai và 1 gái
           ta không rõ lương y Việt Nam đã dựa vào toa nguyên   - Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) có 9 con:
           gốc mà đổi ra gờ-ram hay phỏng chừng đổi theo cách   6 trai và 3 gái.
           thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc.       -  Chúa  Ngăi  Nguyễn  Phúc  Thái  (1650-1691)  có  10
                                                                con: 5 trai và 5 gái
           b-  Trong  toa  Nhất  dạ  ngũ  giao,  những  vị  thuốc  bắt   - Chúa Minh vương (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu*
           buộc phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên   (1675-1725) có 42 con: 38 trai và 4 gái
           thuốc  có  kèm  tên  vùng  thổ  sản  như Tứ Xuyên,  Cam   - Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ (1697-1738) có
           túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đ  i   9 con: 3 trai và 6 gái
           hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục   - Chúa Vơ vương Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765) có
           đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung.                         30 con: 18 trai và 12 gái
                                                                - Chúa Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1753-1777)
           Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân   có một gái
           Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên,
           còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói   [* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách
           rõ từ ở đâu?                                         có đến 146 con!]

           c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành   Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des
           phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình   Nguyễn(1914) và Nguyễn Phúc tộc thế phả (1995) th ì
           trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe,   ghi là 42 con.
           bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu.
                                                                Mười ba đời vua là:
           Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one
           size fits all”. Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư   - Gia long (1762-1819) có 31 con: 13 trai và 18 gái
           nhưng rất thận trọng về tư thức trách nhiệm, tôi khuyến   - Minh Mạng (1791-1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái
           cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng   - Thiệu trị (1807-1847) có 64 con: 29 trai và 35 gái
           sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo   - Tự Đức (1829-1883) không có con tuy nhiều vợ
           những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất   - Dục Đức (1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái
           là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có   chết v    bị giam đói
           chứng huyết áp cao hay những rối loạn bện hiểm nghèo   - Hiệp  a (1847-1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết
           khác.                                                vì bị ép uống thuốc độc
                                                                - Kiến Phúc (1869-1884) chưa có vợ con , chết bí mật
           Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có   - Hàm Nghi (1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2
           những  phó  tác-dụng  bất  ngờ  nhất  là  thuốc  Bắc  chưa   gái

                    ___________________________________________________________________________________


                         Đặc San Bất Khuất 2013 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX                                193
   189   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199