Page 162 - DAC SAN BK 2015
P. 162
Ngôn ngữ lính tráng Sài Gòn xưa
Ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975 mang đậm chất mũ “mũ be-rê xanh” còn Biệt động quân thì lại
“lính”. Cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó chọn màu mũ nâu.
đang trong thời kỳ “leo thang chiến tranh” với Tuy nhiên, mũ bê-rê chỉ dùng khi về phép và
lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ. Thanh các dịp đặc biệt, khi ra trận mọi quân binh chủng
niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, đều đội chiếc “mũ sắt” phía bên trong có lót lớp
chỉ trừ một số trường hợp được “hoãn dịch” vì lý “mũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc là
do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn. vậy chứ nhiều khi đạn vẫn có thể xuyên thủng
Bậc cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần.
dịch” còn thanh niên thì đứng trước một ngã rẽ Lính bộ binh thì “hiền” hơn với bộ kaki, sau
quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo này được thay thế bằng bộ quân phục “bốn túi”, áo
việc đao cung”. Mối lo của họ được thể hiện qua bỏ ngoài quần, giống như lính Mỹ. Đặc điểm của
ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai bộ binh là phải “gom ống quần” trong khi Không
câu thơ: quân và Hải quân được thả ống quần, “lè phè”,
thoải mái. Cũng vì thế lính Không quân và Hải
Rớt tú tài anh đi trung sĩ, quân sợ nhất là bị “gom ống quần lội bộ”, ám chỉ
Em ở nhà lấy Mỹ cho xong… bị thuyên chuyển sang bộ binh để đi tác chiến.
“Giày trận” được gọi là “bốt đờ sô” (botte de
Thời nào cũng vậy, một số con ông cháu cha saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có
cũng có cách luồn lách để khỏi đi lính. Người Sài loại giày kết hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong
Gòn thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa
dịch”. Một trong những cách “trốn lính” là tìm phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn
đường đi du học, hay cùng lắm, khi bị “bắt lính” với những đôi giày bằng vải bố, được gọi tắt là
lo “chạy” để được phục vụ trong các đơn vị không “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn
tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn được gọi giày thường.
là “lính kiểng”. Ngay khi bắt đầu trình diện tại các Trung tâm
Đôi khi loại “lính kiểng” còn được gọi là Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh niên dù “đăng lính”
“lính cậu”. Đây là loại “lính nhưng không phải là hay bị “bắt lính” cũng đều phải qua một trong
lính” nếu đem so sánh với những chiến binh ngày những thủ tục là làm “thẻ bài”. Tấm “thẻ bài” là
đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời
đồn heo hút hay rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn gian tại ngũ của quân nhân.
với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ Mỗi quân nhân bắt buộc có hai tấm “thẻ bài”
chi binh” không phải lúc nào cũng đúng như ý bằng kim loại không gỉ, được đeo bằng sợi dây
nghĩa vốn có của nó. cũng bằng kim loại. Trên mỗi tấm có ghi họ tên,
Hầu như cả thế hệ thanh niên miền Nam, kẻ “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp
trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người
khoác trên mình bộ quần áo lính. Đó có thể là sắc chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ bài được bỏ trong
áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như Nhảy miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm tài
dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ liệu báo cáo.
đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt cách dù (Airborne Hình trên là tấm thẻ bài của tướng Nguyễn
Ranger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong trận Văn Điềm, “số quân” 50/200.102, ông thuộc loại
chiến An Lộc đã nổi tiếng với 2 câu thơ: “An Lộc máu A. Hai số đầu của “số quân” là năm sinh sau
địa, sử ghi chiến tích. Biệt Cách Dù vị quốc vong khi trừ 20. Như vậy, tướng Điềm sinh năm 1930
thân” hay Thủy quân lục chiến đội trên đầu chiếc (50 – 20 = 30). Tôi sinh năm 1946 nên có hai số
_____________________________________________________________________________________________
Đặc San Bất Khuất 2015 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX 162