Page 18 - Ban tin sinh hoat Cu An Tu Nguy So 3
P. 18
18
hình trong thiên nhiên, nhưng lại phải mô tả chúng thì cũng sẽ không có không-thời-gian trong cuộc đời
như các “hạt” hữu hình gọi chung là lọại Bosons. Kể chung quanh ta, y như hệt chuyện không có nhện sẽ
đầu tiên nhất là lọai lực điện từ (electromagnetism) không có mạng nhện. Vì thế muốn xác nhận rõ ràng
đối với các hạt “nhiễm” có mang hoặc không mang là cuộc đời này cùng cảnh vật chung quanh (mang ý
điện (đã bị triệt tiêu) mà thuật ngữ chuyên môn gọi nghĩa) là “mộng” hay là “thực” thật khó (difficult)
là “color” (“mầu” ở đây có nghĩa khác hẳn không lắm thay.
phải như nghĩa thường dùng chung của mầu sắc Cách nay hơn 200 năm vật lý gia người Mỹ
xanh đỏ tím vàng). Điển hình của những “sóng lực George Berkeley với luận lý rất phương pháp và rất
điện từ” vô hình (invisible) lại thường được mô tả khoa học của phương Tây cũng đã lại rơi vào nhận
giống như các “hạt hữu hình” (visible): thí dụ như thức: với câu hỏi hay có sự nghi ngờ, không biết có
trong trường hợp sóng ánh sáng (nhìn thấy) là sóng phải chính mình là “nhện” không? Nghĩa là lòai
điện từ, mà khoa học gia đã giả sử là cấu tạo của nó người đã tự dệt ra không-thời-gian cho các quan sát
lại bao gồm từ các “hạt” gọi là quang tử (photon). khoa học (giống y hệt Lão Trang đặt câu hỏi không
Tất cả các lọai “hạt” trong nhóm bosons này như biết có phải mình là “bướm” không?) để biến ông từ
ánh sáng đều không có trọng lực (mass). một “vật lý gia” xuất sắc đồng thời lại trở thành một
“triết gia”.
Lọai thứ hai gọi là lọai “lực yếu” (weak) tác dụng Sự thực là chuyện này rất cổ xưa vì suốt từ
làm cho hạt neutron (không có điện) có thể biến nhiều thế kỷ biết bao bậc uyên bác cũng đã vẫn tự
thành hạt proton (có điện) cùng lúc thải ra leptons. hỏi không biết sự vật quanh ta “có thực” (existence)
Lọai lực yếu (sóng vô hình) này được mô tả như là hay không? Cho tới ngày nay cũng vẩn rơi vào
những “hạt” hữu hình mang các tên là hạt Z-bosons trường hợp “luẩn quẩn” là khoa gọc gia tuy rất muốn
(không có điện) hoặc là hạt W-bosons (có điện). chứng minh rành mạch, nhưng cuối cùng vẫn phải
Lọai lực thứ ba gọi là lọai “lực mạnh” (strong) cũng chịu nhận buớc đầu theo một “định đề” (giống y như
là sóng vô hình: chính lực này coi như chất keo dính định đề Euclide căn bản của hình học: không chứng
kết các siêu hạt quarks lại với nhau (để cho proton minh được) tiên khởi là có sự hiện diện không-thời-
hoặc neutron), nhưng lại được mô tả như là các “hạt gian “nằm ngòai” độc lập với chúng ta. Rồi câu
hữu hình” mang tên gluons không mang điện và chuyện sau mới được nối tiếp theo. Kể từ năm 1920
không có khối lượng (mass). khi môn vật lý lượng tử (quantum physics) ra đời,
Toàn thể các lọai “hạt hữu hình” hay “sóng lúc đó cho thấy khi qua những thí nghiệm khoa học
lực vô hình” của vật chất kể trên đều chịu ảnh hưởng (thực hiện trong “thế giới của nguyên tử”: world
của một lực khác gọi “lực hấp dẫn vạn vật” hay coi atomic) thì đã lại có các kết quả rất lạ lùng.
như đặt trong một môi trường (field) mà các khoa Khi coi vật chất là “hạt” nó phải mang
học gia đặt tên là “trường Higgs” (Higgs’s field). tính giống như một viên đạn, chỉ xuyên qua đúng
Trường này cũng được biểu tượng bằng các “hạt “một lỗ” trong màn hình thôi, thế mà lúc quan sát thí
Higgs” (hữu hình) mang khối lượng (mass) rất lớn, nghiệm vật lý nó lại chui qua được tới “hai lỗ” trong
gấp nhiều lần hơn tất cả các lọai “hạt” vật chất khác cùng thời gian (đổng thời), tức là mang đặc tính của
như đã kể ở trên (nhưng những hạt Higgs không “sóng”. Theo lý thuyết lượng tử, vật quá nhỏ không
mang điện). quan sát được (thí dụ như điện tử, quang tử) hiện ra
Như vậy thực sự vật chất trong cuộc đời rất “mù mờ” “hư ảo” luôn chuyển động như ma
chúng ta là “hữu hình” với các nguyên tử được mô (phantom) hay nói cách khác là theo đúng “nguyên
tả một cách khoa học như tưởng tượng của triết gia lý bất định” của Werner Hensenberg.
Aristotle hay “vô hình” tức cũng chỉ là ảo giác theo Các nhà vật lý đã dùng phương trình tóan học (tóan
như các triết gia Lão Trang? Lại như khoa học ngày xác suất) để mô tả chuyển động của hạt, nhưng khi
nay thường mô tả “không-thời-gian” là hữu hình đối muốn xác định tốc độ hay vị trí của hạt (tức ngay lúc
với cuộc sống của ta, mà thực ra điều mô tả này chỉ nó đứng lại, hạt mới hiện ra để quan sát được), thì
tùy thuộc vào cảm giác hay “nhận thức” rịêng biệt từ “khổ nỗi” ngay thời điểm đó phương trình lại bị
giác quan thôi (tức hoặc khi thì như là “sóng ảo” rồi “sụp đổ”, “đổ vỡ” (collapse) hay phương trỉnh trở
lại hoặc khi thì như là “hạt thật”). Tình huống thành vô nghiệm. Còn khi tạo hai “hạt cặp đôi” thí
chuyện khoa học mô tả ra “không-thời-gian” giống dụ như hai hạt electrons trong cùng một nguyên tử,
hệt hay cũng chẳng khác nào trường hợp của một cả hai chạy quanh nhau với cùng một (lọai) phương
con nhện đã tự dệt ra “mạng nhện” (nghĩa là không- trình chuyển động, người ta coi như hai hạt “liên
thời-gian quanh ta cũng giống mạng nhện của con kết” hay “nối kết” (entangled) nhau. Thí nghiệm sau
nhện tự dệt). Nói cách khác nếu không có chúng ta được thực hiện
Bản Tin Sinh Hoạt Cư An Tư Nguy Số 3