Page 55 - Dac San BK 2013
P. 55
(chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật. Tuy
nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không công nhận
chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ tiên ta luôn tìm
cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đã dựa trên chữ
Hán để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận
chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ
Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông
(1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu” (2) bằng chữ
Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ
bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn
An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi
tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim
Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những
tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể của chữ
Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.
Chữ Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú. Tuy nhiên, chữ Nôm vì được cấu tạo trên căn bản chữ
Nho, nên khi muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ
Tuy nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, Nho (chữ Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ
luôn khát vọng độc lập tự do, ông cha ta từ chữ Hán thông trong dân chúng, và ít được sử dụng rộng rãi.
tượng hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử dụng,
nhằm mục đích giữ gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kim Vân Kiều)
và bản sắc văn hóa thuần túy dân tộc Việt. của thi hào Nguyễn Du
Nhìn chung Việt Nam vào thời điểm lịch sử cổ,
trung đại, vẫn chưa chính thức có trường lớp nào dạy
nói và viết tiếng Việt. Người Việt chúng ta ngày xưa
đa số được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt lòng mẹ,
trong sinh hoạt gia đình và thông qua những giao tiếp
hàng ngày ngoài xã hội là chính. Ở giai đoạn này chữ
viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên
các câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài (1) nhờ có
vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn
chương ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi
trong nhân gian và ngày càng phong phú, súc tích.
Trong quá trình xã hội phát triển, dân tộc Việt
Nam ta đã tiếp xúc giao lưu với nhiều dân tộc khác.
Trong tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau, vấn đề học
hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần
thiết.
Vào thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đã phải nhờ
đến các cơ quan phiên dịch ở Trung Quốc như Hội
thông quán, Tứ Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ (Sách cổ viết chữ Nôm)
phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt Nam. Các cuốn
từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số thứ tiếng khác Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà
được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy
Dịch Ngữ (*) là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra
chữ Hán với chữ tiếng Việt. bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng
(*) An Nam Dịch Ngữ là bản từ vựng dùng cho cơ Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ
quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là
Việt Nam từng phải triều cống. giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết
Giai đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt
quốc, các triều đại Vua Việt Nam đã mượn chữ Hán Nam được phát triển nhanh chóng.Các giáo sĩ, tu sĩ
___________________________________________________________________________________
Đặc San Bất Khuất 2013 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX 54