Lưu Vong Hành và Đông Hải Hành

Lưu Vong Hành

Nguyễn Kinh Bắc

​​
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng
Ta còn phiêu bạt – đã mười đông
Mười đông – vật vã vì cơm áo
Lòng vẫn chưa nguôi, nhớ chẳng cùng!

Ta nhớ một thời chinh chiến cũ
Học làm tráng sĩ luyện đao cung
Bút nghiên xếp lại, yêu đời lính
Theo gót người xưa sống vẫy vùng

Quân đội trưởng thành trong khói lửa
Dựng cờ đại nghĩa, diệt thù chung
Tình dân đã quyện theo tình nước
Thề quyết xông pha, vượt bão bùng

Bao địa danh ngời trang chiến sử
Đã làm khiếp vía giặc tàn hung
Kontum, Quảng Trị, ...cùng An Lộc
Phất phới cờ bay rợp khí hùng

Rồi đến một ngày kia, súng gãy
Ôi, trời nghiêng ngửa, đất đang rung
Tướng quân tuẫn tiết ngoài biên ải
Sĩ tốt điêu linh giữa khốn cùng

Một lũ bất tài lo tháo chạy
Những vì sao bạc rụng như sung
Bao năm chễm chệ ngồi vơ vét
Bỏ nước ra đi chẳng thẹn thùng

Ta cũng như trăm nghìn chiến hữu
Nổi trôi cùng vận nước long đong
Sa cơ mắc bẫy vòng lao cải
Rừng thẳm rào ngăn vó ngựa hồng

Ôi những ngựa hồng nay chiến bại
Cơ trời chuyển hóa, có thành không!
Đòn thù giáng xuống đâu thương tiếc
Oán hận triền miên mãi chất chồng

Lao động khổ sai, thêm đói rét
Mỗi ngày hai bữa bát ngô lưng
Thân phơi gió lộng đồi heo hút
Xác bỏ đìu hiu giữa mịt mùng

Nhớ lại những ngày đi chiến đấu
Lòng hằng giữ vững chữ kiên trung
Dù cho đã ở trong tay giặc
Đầu ngẩng lên cao, gối chẳng chùng

​​
Đất nước tuy còn, như đã mất
Người người mang một nỗi đau chung
Hỡi ơi, hăm tám năm rồi nhỉ ?
Mà vẫn không chung một chữ “đồng”

Tự buổi lên đường, xa tổ quốc
Làm người tị nạn, sống lưu vong
Những ai nếu vẫn còn tâm huyết
Thấy cảnh nhiều khi cũng nản lòng

Chiến hữu một thời, nay cấu xé
Bạn tù quên hết thuở lao lung
Cai thầu chống Cộng nhân danh hão
Chụp mũ cho nhau chẳng ngại ngùng

Một lũ túi cơm, phường giá áo
Như bầy ngan ngỗng khoác lông công
Học làm con rối lăng xăng múa
Đã nát càng thêm nát cộng đồng

Báo bổ dăm ba tờ lá cải
Tập tành chữ nghĩa viết bung xung
Bôi tro trát trấu người thiên hạ
Vẫn sống dằng dai mới lạ lùng

Văn sĩ nửa mùa khoe múa bút
Phơi bày dâm dật, cũng văn phong !
Xênh xang áo gấm về quê mẹ
Đú đởn ăn chơi cốt thỏa lòng

Chính khứa trở cờ khoe ái quốc
Ngồi chờ đón gió giữa sa lông
Nhìn quanh cũng một phường xôi thịt
Miệng lưỡi còn đang bốc rượu nồng

Đâu xót dân lành đang thống khổ
Đêm ngày rên xiết dưới xiềng gông
Những cô ca sĩ về ăn Tết
Hát “Hậu Đình Hoa” chẳng ngượng ngùng

Ôi, biết bao điều, sao nói hết
Nói càng thẹn mặt với non sông
Gươm cùn, súng gãy từ bao thuở
Bút mực này đây trải mấy giòng

Mái tóc xanh xưa giờ đã bạc
Thù nhà, nợ nước trả nào xong
Chiều nay lặng lẽ nhìn mây phủ
Đất mẹ còn xa cách vạn trùng

Nguyễn Kinh Bắc


ĐÔNG HẢI HÀNH

Diệu Tần

ĐÔNG HẢI HÀNH
Quê cha vạn lý sóng điệp trùng
Ngồi đây mà hận chuyện Biển Đông
Được hưởng tự do nơi đất khách
Quá khứ tràn về nhớ khôn cùng
Trải mười năm loạn lạc kiếm cung
Dao định mệnh chia hai Bến Hải
Miền Nam đất nước đẹp một vùng
Thanh bình no ấm nỗi vui chung
Núi rừng đồng ruộng vang tiếng hát
Nào ngờ chiến trận lại nổ bùng
Vì tham vọng chúng gây máu lửa
Du kích nằm vùng thật ác hung
Nga Tàu tiếp vận tăng, hỏa tiễn
Rồi cuộc đổi đời đất chuyển rung
Tháng Tư năm ấy bao uất hận
Quân dân bị đẩy bước đường cùng
"Thủ" Đồng khúm núm dâng biển đảo
Trường Sa Việt Cộng rụng như sung
Hoàng Sa chúng lập thành tỉnh nhỏ
Cộng sản như nhau rúc một thùng
Trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ
Dân nghèo sơ sác chạy long đong
'"Mười sáu chữ vàng" đành nuốt nhục
Lạy lục năm sao máu cờ hồng
Dân Hán tràn qua xây phố thị
Chủ quyền mất trắng, có như không
Phải lập nghĩa trang thờ lính "Tẫu"
Gái Việt phải lấy "chệt" làm chồng
Học sinh nghèo lội sông đi học
Đòi đất, dân oan bị gãy lưng
Công an đạp mặt người chống Hán
Cô giáo vùng cao ngủ không mùng
Cô đói, chia cơm cho trò đói
Trung ương dạy lính phải kiên trung
Trung với đảng quên trung với nước
Lòng dân phản kháng vẫn không chùng
"Sông liền sông", xây đập phá rối
Bô -xít đào lên phá nương đồng
Ngoài khơi tung mười ngàn tàu cá
Ngư dân ta mắc lưới tiêu vong
Ngang nhiên cướp bóc đòi tiền chuộc
Giam tàu, hốt cá thật đau lòng
Sân bay vắt ngang trên các đảo
Lưỡi bò thò xuống chẳng ngại ngùng
Đài truyền tin, ra-đa, cờ quạt
Chúng ngoác miệng khoe mẽ, kể công
Chiến hạm giả danh tàu ngư chính
Dựng ẩu lên bia đá bảng đồng
Cắm cờ đáy biển đòi làm chủ
Coi quốc tế như lũ bung xung
Thật ra chúng lo ăn, thiếu gạo
Nuôi tỷ ba dân, phải kiếm lùng
Vét dầu, vét cá, thu nguyên liệu
Lại thêm kích động lính xung phong
Đề cao bá quyền dân đại quốc
Đứng đầu thế giới mới thỏa lòng
Lãnh thổ gồm thâu Giao Chỉ quận
Chúng rung đùi, dê béo rượu nồng
Đâu chịu hiểu chiến tranh kinh tế
Không đánh bằng súng đạn, xiềng gông
Bất công, đói khổ dân vùng dậy
Biến loạn diễn ra máu ngập sông
Chừng đó triệt năm sao cờ đỏ
Liềm buá tan, thả cuốn theo dòng
Thời cộng sản đã lui, đã lỗi
Hận thù thanh thoả coi như xong
Ngày đó ta lại về làng cũ
Hớn hở quê cha sóng điệp trùng.

DIỆU TẦN

 

 


Thơ

Thơ cũ 2012
Thơ cũ từ 2011...


Chùm thơ 4 câu  
Tưởng niệm Chiến sĩ QLVNCH  
Thật tình  
Thằng Cu Tí mất gốc 
50 năm ngậm ngùi
Dòng nước mắt của mẹ  
Tâm vẫn chưa yên  
Nỗi buồn nhớ nhau  
Nhỏ về 
Thanh Sơn thương nhớ 
Giáng Sinh hoài niệm  
Xuân rỉ máu  
Những bài thơ về mưa  
Rứt ray tận hồn  
Tạ ơn anh  
Bản trường ca thứ 7  
Tiễn em rời K18
Vá mảnh Giang Sơn
Vui buồn
Gởi hết về cho...
Thư gửi lú
Người lính vẫn còn đây
Làm sao?
Lời tử sĩ
Tôi không biết...
Chữ rớt từ tâm
Chùm thơ "Tình đã chết"
Khen đáp trả
Nước mất, về đâu
Nỗi buồn chim sáo
Thật tươi sắc hồng
Mùi hương tím
Gậy ông đập lưng ông
Ngày mãn khóa
Đành hẹn nha em
Vườn cau quê mẹ - Phong Điền
Thơ biển
Một đêm sông  
Tâm sự một đảng viên
Bông điên điển
Tìm người đang nhớ  
Được tin bạn chết 

Đợi  
Chuyện ở VN 
Nhớ Tây Đô  
Oan hồn báo  mộng 
Những điều sỉ nhục và căm giận  
Bước lạ tìm về  
Nguyễn Phương Uyên  
Thuận giòng cứ sang...  
Giả "Ái Quốc" "Tất Thành" Bại Hoại
Chén cơm chan máu
Nỗi khổ quê hương
Nhắc lại lời nguyền
Vần thơ lục bát
Tiếc anh, tổ quốc ngậm ngùi
Thông điệp của thế kỷ 21
Nhớ trường xưa
Em ngồi em nhớ
Thơ - Nguyễn Tấn Danh
Lời trước nghĩa trang Quân Đội
Tháng 9 nhớ mùa nước nổi  
Nắng úa bước đời
Việt ơi!
Bản trường ca 17
Bản trường ca 24
Hình ành một Anh Thư
Trực diện vụ xử Uyên & Kha
Tính sổ
Tình đã bay xa
Nhớ thương U-Minh
Thư gửi những người bạn trẻ
Độc ẩm  
Thơ Á Nghi - Bùa yêu
Nhớ và thương
Tình nước tình người
Viết cho em thơ
Đảng cướp
Giá trị gì?
Ý Nga - Ai sẽ cứ dân ta?
Đoá sen Phương Uyên
Đâu phải là mơ
Say khói thuốc
Chân dung chiến hữu
Chùm thơ "Hồn theo bóng trăng trôi"
Niềm vui vẫn còn
Buồn xưa mơ ước
Nỗi lòng người ly xứ
Tiếng gọi núi sông
Khóc sớm bạn hiền
Bài ca cho Bạt Mạng
Nhìn bè bạn
Cờ xưa vẫn đẹp
Tôi yêu nước Mỹ
Tình xưa... em bé
Tăng sâm giết người
Nỗi buồn chim sáo
Nhìn Bằng Lăng mà nhớ...  
Bài thơ cho những búp măng xanh 
Một lời cầu cho quê hương  
Sàigòn em yêu ơi!  
Một thoáng ngậm ngùi  
Hòa nhịp  
Ngày Quân Lực 19/6  
Chiêu niệm Anh Hùng!  
Con có còn thương Ba?  
Thương  
Em vững lòng tin  
Vinh danh ngày Quân Lực  
Đảng đểu  
Gửi người tuyệt thực trong tù
Tưởng nhớ ngày QL 19/6
Mưa hạ nhục
Chẳng thể nào
Chữ rớt tình vương
Hè viễn xứ
Tâm sự người Thương Binh
Hãy góp tay làm lịch sử
Xin hỏi em là ai?
Má ửng hồng
Phù Đổng đã vươn mình
Người "may áo quan"
Ơi đồng bào Việt Quốc !!!
Phương Uyên ơi ! Em là bồ câu trắng
Hai bản án
Hình ảnh khó phai
Chợt nhớ Pleiku
Viết cho em
Hỏi người có phải yêu tôi?
Đồi cả thiên thu tiếng mẹ cười
Ý tình thương nhớ
Có ai về Việt Nam
Đôi nạng gỗ
Bờ sông vẫn gió
Lời cho thằng bạn đã chết
Nhắc nhớ mà chi
Nhớ ngày tháng cũ
Mẹ tôi  
Sài Gòn trong mắt biếc  
Nhớ ngày Quân Lực  
Bài thơ còn dang dở  
Sao anh không về thăm Giá Rai  
Tưởng nhớ  
Chuyện tình buồn  
Có những ước mơ  
Tấm ảnh ngày xưa  
Đời mãi điêu linh  
Với người một thuở….Cư-An  
Mày bảo tao quên sao?

30 tháng 4: Ngày Quốc Hận
Tạm biệt Việt Nam...
Bi trường ca thế kỷ
Khi về ngang đồn cũ
Em ơi! Thành phố lại mưa
Mơ ước tình quê
Chiếc xuồng quê hương
Lưu Vong Hành và Đông Hải Hành
Lệ đá
Ta lính miền Nam
Chuyện buồn tháng 4
Thiên thần mũ Đỏ
Một quãng đời
Những vần thơ tháng 4...
Không quên lời hẹn
Góa phụ buồn
Hãy trả ta
Trả lại
Đi vòng qua biển nhớ tháng Tư
Nỗi buồn tháng Tư
Đạo đức khó tìm
Chiếc áo bà ba
Tháng 4, năm 1975
Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ
Tự do lên tiếng
Ngọt ngào tương ngộ
Ngủ đi con
Ngẫm thế sự
Khó tròn ý thơ
Nhớ nhung nhau!
Khóc đồng môn Phan Dương
Rối xanh màu cỏ
Thành phố thủy tinh anh tan vỡ
Thơ Nguyễn Đắc Kiên
Bởi vì tôi khao khát Tự do
Tình Huế trong tôi
Xa quê hương nhớ Mẹ hiền
Bạn tôi đó !   
Vết của thời gian
Thơ viết ngày hăm chín
Đảng phải chết  
Nhìn mưa thấy nhớ  
Mời em thăm lại quê xưa
Ngày đó  
Xuân nào tôi đưa em về 
Măm cơm Tết cung kính mời  
Sao là tống biệt  
Trường Sơn Xuân quạnh đồn biên trấn  
Xuân... Viết cho chàng
Nỗi đau tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!
Viết trong ngày giỗ mẹ
Thơ Xuân của Dương Thượng Trúc
Viết ngày đầu năm
Còn đâu nữa quê hương ơi!
Chùm thơ xuân Quý Tỵ
Bài thơ cuối năm
Xuân Qy Tỵ
Từ bãi tập về
Ý gửi bạn xưa
Ngụy ơi, em sợ một bóng ma
Hải chiến Hoàng Sa

Lời thương từ bà quả phụ Ngụy Văn Thà
Nhớ chuyện đổi dời