Page 83 - dacsan-bk-2011
P. 83
Ðạn tên lửa (quả): Liên Xô 10,169. tăng lên gấp 6 lần, cùng năm 1965 Mỹ bắt đầu cho đổ
Máy bay chiến đấu (chiếc) Liên Xô 316; Trung quân leo thang chiến tranh .
Quốc 142. Giai đoạn 4 (1969-1972) về vũ khí chỉ tăng 66%,
giai đoạn chót (1973-1975) hàng vũ khí vẫn như cũ,
hàng hậu cần giảm 4 lần. Sau ngày 30-4-1975, tại miền
Phân tích bài viết về khối hàng viện trợ quân sự. Nam VN , trên báo Sài Gòn Giải Phóng Cộng Sản Bắc
Việt tiết lộ: vũ khí, đạn dược của họ trong năm 1975
Giai đoạn 2 (1961-1964) so với giai đoạn 1 (1955- coi như gấp 3 lần năm 1972. Như trên chúng ta thấy
1960) hàng hậu cần giảm 17 lần nhưng hàng vũ khí viện trợ vũ khí trong hai giai đoạn 1969-72 và 1973-75
tăng lên 55%. tương đương nhưng giai đoạn 1975 họ mang vào Nam
Giai đoạn 3 (1965-1968) so với giai đoạn 2 (1961- được nhiều hơn. Trong giai đoạn 1969-1972 đường
1964) hàng hậu cần tăng 459 lần, hàng vũ khí tăng gần Trường Sơn bị máy bay chiến lược, chiến thuật của
6 lần. Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà oanh kích nên cuộc
Giai đoạn 4 (1969-1972) so với giai đoạn 3 (1965- vận chuyển tiếp liệu gặp nhiều khó khăn, số lượng
1968) hàng hậu cần tăng gấp 3, hàng vũ khí tăng 66%. hàng vũ khí mang vào bị giới hạn. Trái lại giai đoạn
Giai đoạn 5 (1973-1975) so với giai đoạn 4 (1969- 1973-75 họ mang vào được nhiều hơn vì sau ngày ký
1972) hàng hậu cần giảm 4 lần nhưng hàng vũ khí Hiệp Ðịnh Ba Lê, các tuyến đường xâm nhập gần như
không thay đổi mấy. bỏ ngỏ, BV đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải chuyên chở
Trong Giai đoạn 1 (1955-1960) số lượng hàng của vũ khí đạn dược vào Nam thoải mái.
Liên Xô chiếm 60%, Trung Quốc chiếm 40%. Sau khi ký Hiệp định Paris, Hà Nội cho khởi công
Trong giai đoạn 2 (1961-1964) Liên Xô chiếm xây tuyến đường xa lộ Ðông Trường Sơn hay hành
67%, Trung Quốc chiếm gần 33%, các nước khác lang 613, song song với đường mòn Hồ Chí Minh
không đáng kể. nhưng nằm trong địa phận Việt Nam Cộng Hoà từ
Trong giai đoạn 3 (1965-1968) Liên Xô chiếm Ðồng Hới cho tới Lộc Ninh, đến đầu 1975 thì công
44%, Trung Quốc chiếm 33%, các nước khác 23%. trình hoàn thành dài 1,200 km. Dọc theo Ðông Trường
Trong giai đoạn 4 (1969-1972) Liên Xô chiếm Sơn là hệ thống dẫn dầu từ Quảng Trị qua Tây Nguyên
14%, Trung Quốc 76%, các nước khác khoảng 10%. tới Lộc Ninh. Bắc Việt huy động hàng nghìn xe máy
Trong giai đoạn 5 (1973-1975) Liên Xô chiếm ủi, hàng vạn bộ đội, công nhân, thanh niên xung
9%, Trung Quốc 86%, các nước khác 5% phong, dân công .. ngày đêm phá núi san đèo, xây
Như thế trong hai giai đọan cuối của cuộc chiến cống, lắp đường, dựng cầu.. đường rộng 8 m.. xe vận
tranh Trung Cộng đóng vai trò chủ chốt trong quân tải cỡ lớn chạy hai chiều được, ngày đêm chở hàng
viện cho CSVN, khối hàng viện trợ của họ chiếm đa số trăm nghìn tấn đạn dược quân nhu cho chiến trường.
so với Nga và các nước khác. Họ đã xử dụng 16 ngàn xe vận tải để chuyên chở binh
Về súng bộ binh tổng số là 3,609,863 khẩu, trong khí, kỹ thuật, đạn dược, lương thực… chuẩn bị cho
đó Liên Xô chiếm 12%, Trung Quốc 62%, các nước chiến trường miền Nam trong hai năm 1973 và 1974.
khác 26%. Chiều dài toàn bộ hệ thống chiến lược Trường Sơn tới
Về súng chống tăng tổng cộng 65,590 khẩu, Liên 1975 là 16 ngàn km gồm 5 hệ thống đường trục dài
Xô chiếm gần 9%, Trung Quốc 66%, các nước khác 5,500 km, 21 đường trục ngang dài 1,020 km, một
25% đường hệ thống dẫn dầu dài 5,000 km.
Về súng cối tổng cộng có 27,969 khẩu, Liên Xô Theo một cựu trung tá không quân Việt Nam
chiếm 4%, Trung Quốc 86%, các nước khác chiếm Cộng Hoà cho biết đường xâm nhập của CSBV hiện rõ
10%. trên bản đồ nhưng miền Nam không đủ lực lượng để
Máy bay chiến đấu tổng cộng 458 chiếc, Liên Xô ngăn chặn, cũng có tin cho biết Hoa Kỳ ngăn cản
chiếm 69%, Trung Quốc 31%. không cho không quân VNCH đánh phá, họ đe doạ cắt
Trong bài trên không thấy nói tới đại bác, hoặc có viện trợ nếu không nghe theo. Một số nhà nghiên cứu,
lẽ nằm trong mục nói về súng cối, cũng không thấy nói giới chức quân sự cho rằng viện trợ quân sự của Nga,
về xe tăng. Trung Cộng cho miền Bắc năm 1975 gấp 3 hoặc 4 lần
Giai đoạn 2 (1961-1964) so với giai đoạn 1 (1955- năm 1972. Sự thực thì không phải như vậy, số lượng
1960) hàng viện trợ không tăng nhiều nhưng giai đoạn vũ khí năm 1975 của CSBV nhiều gấp bội lần năm
3 (1965-1968) hàng viện trợ tăng vọt lên, về vũ khí 1972 vì họ mang vào Nam được nhiều hơn, khối lượng
hàng viện trợ vũ khí như ta đã thấy trong hai giai đoạn
___________________________________________________________________________________
Đặc San Bất Khuất 2011 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX 82