Page 86 - dacsan-bk-2011
P. 86

Trong mục nói về Ngân quĩ của Không quân và      dược, tuy vậy con số này chỉ cung ứng được 56% nhu
           Hải quân trang 86, 87 ông Cao Văn Viên đã cho biết cụ   cầu thực sự của Lục quân . Hàng tháng ngân quĩ chỉ
           thể, xin tóm lược dưới đây như sau.                  cho phép lấy ra một số tiền là 19.9 triệu cho chi phí
               Với  số  ngân  khoản  ít  hơn,  không  quân  VNCH   đạn dược. Con số này chỉ bằng phân nửa chi phí hàng
           phải giải tán hơn 200 phi cơ gồm các loại như chiến   tháng  trong  thời  gian  từ  tháng  6-1973  đến  tháng  2-
           đấu – oanh tạc cơ A-1; phi cơ vận tải C-47, C-7,  C-  1974 là 37.3 triệu, ngoài ra vấn đề lạm phát làm  giá
           119; và thám thính cơ 0-1. Hồi hương 400 sinh viên sĩ   đạn tăng 27.7%.
           quan đang theo học bay phản lực và trực thăng ở Hoa       Trong 8 tháng từ tháng 7-1974 đến tháng 2-1975
           Kỳ. Giảm giờ bay thực tập và yểm trợ, Không quân chỉ   quân đội xử dụng 19.808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng
           cung  ứng  50%  yểm  trợ  hoả  lực  và  58%  các  phi  vụ   27% so với 73.356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian
           thám thính so với tổng số các phi vụ trong năm 1973-  trước (có nghĩa là hoả lực giảm hơn 70%), sau Hiệp
           1974.  Sự  cắt  giảm  làm  cho  chúng  ta  mất  nhiều  khả   định  Paris  trung  bình  hàng  tháng  có  2980  hoạt  động
           năng theo dõi, thám thính sự xâm nhập của CSBV hoặc   quân sự của CS so với 2072 vụ trước ngày ngưng bắn.
           hộ tống yểm trợ các cuộc hành quân vận chuyển.            Trang  92,  tác  giả  Cao  Văn  Viên  cho  thấy  thực
               Trực  thăng  vận  bị  giảm  70%  vì thiếu  nhiên liệu   trạng bi thảm của tồn kho đạn dược dự trữ.
           gây trở ngại cho việc tản thương, tăng viện hay tiếp tế   "Mặc dù một số đạn dự trữ trong kho của Quân
           nhất là tại đồng bằng sông Cửu long, sông ngòi chằng   Ðội Hoàng Gia Lào được chuyển sang cho quân đội
           chịt. Trực thăng vận là phương tiện chuyển vận quan   VNCH, số dự trữ tồn kho của chúng ta chỉ cung ứng
           trọng để tải thương, tiếp tế, nay không còn yểm trợ trực   được từ 30 đến 45 ngày – xa số lượng dự trữ căn bản
           thăng  các  đơn  vị  địa  phương  quân  phải  dùng  võng,   là 60 ngày. Vào tháng 2 – 1975, số lượng đạn tồn kho
           thuyền chèo tay để tải thương, thiếu thốn về không vận   tuột xuống con số nguy hiểm như sau.
           gây ảnh hưởng tâm lý quân đội. Sự chuyển vận của các   Ðạn    -                                 Số ngày tồn kho
           phi cơ vận tải bị cắt giảm 50% ảnh hưởng tới việc điều   Ðạn M-16 (5.56 ly)          -           31
           quân của các đơn vị tổng trừ bị, khả năng đưa các đơn   Ðạn phóng lựu 40 ly        -          29
           vị Dù, Thuỷ quân lục chiến nhanh chóng tới mặt trận bị   Ðạn súng cối 60 ly           -          27
           ảnh hưởng trầm trọng.                                Ðạn súng cối 81 ly          -            30
               Các  hoạt  động  Hải  quân  bị  cắt  giảm  50%  ,  các   Ðạn pháo 105 ly            -             34
           hoạt động ở sông ngòi chỉ còn 28%, sự cắt giảm sâu   Ðạn pháo 155 ly           -              31
           rộng khiến ta phải giải tán 600 giang thuyền trong đó   Lựu đạn                       -               25
           240 chiếc thuộc Ðịa phương quân, Hải quân không còn       Với  thời  gian  là  45  ngày  từ  lúc  đặt  hàng  và
           đủ khả năng kiểm soát sông ngòi và vùng ven biển nhất   chuyên chở tới Việt Nam bằng tầu, thời gian đó quá
           là vùng bốn, sự kiểm soát cửa khẩu dẫn vào sông Sài   lâu trong trường hợp khẩn cấp. Nhưng nếu phân phối
           Gòn , đường sông Sài Gòn Vũng Tầu , các bến tầu Qui   đạn ở 14 trung tâm dự trữ trên toàn lãnh thổ bằng phi
           Nhơn Ðà nẵng, Cam Ranh nằm trong tình trạng nguy     cơ thì lại là một vấn đề khó khăn và quá tốn kém. Theo
           hiểm.                                                dự tính, nếu tình hình chiến sự tiếp tục xẩy ra theo nhịp
               Trang 88 và 89 sách nêu trên ông Cao Văn Viên    độ  giống  như  những  tháng  cuối  năm  1974,  và  nếu
           nói về khó khăn trong việc thay thế phụ tùng và quân   chúng ta không nhận được thêm quân viện, thì số đạn
           cụ.                                                  tồn kho sẽ hết vào tháng 6-1975. Sau tháng 3-1975, với
               Trong  tài  khoá  1973-1974  với  số tiền  quân  viện   tất cả các đơn vị di tản từ vùng I và vùng II về, tình
           quá ít, quân đội VNCH chỉ thay được một số quân xa,   trạng  đạn  tồn  kho  trở  nên  tuyệt  vọng.  Tháng  4-1975
           đại bác và xe tăn.Trong tài khóa 1975 với tất cả ngân   đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột xuống mức độ thấp
           quĩ  được  trưng  dùng  vào  việc  quản  trị  và  điều  hành   nhât là chỉ đủ 14 đến 20 ngày cung ứng".
           cuộc  chiến,  từ  ngày  ngưng  bắn  không  một  tầu  chiến          Giáo sư Nguyễn Tiên Hưng có nói tới một tài
           một phi cơ nào được thay thế. Vào cuối năm 1974 tổng   liệu báo cáo do tướng Murray (tuỳ viên Quốc phòng
           số nhu cầu thay thế lên tới 400 triệu đô la, những quân   DAO)  cùng  với  Bộ  Tổng  Tham  Mưu  trình  lên  ông
           dụng cần thiết như vũ khí đạn dược thì chỉ được thay   Thiệu.
           thế khoảng 70%.                                           "Phần kết luận được tóm tắt như sau:
               Tù trang 89 tới 94 tác giả đề cập tới tiết mục quan   Nếu  mức  độ  quân  viện  là  1,4  tỷ  thì  có  thể  giữ
           trọng nhất: Nhiên Liệu và đạn dược.                  được tất cả những khu đông dân cư của cả bốn Vùng
               Tổng số ngân sách của Lục quân năm 1975 là 458   chiến thuật;
           triệu đô la,  52%  số tiền  đó  (239  triệu)  dành  cho  đạn   Nếu là 1,1 tỷ thì quân khu I phải bỏ.

                    ___________________________________________________________________________________


                         Đặc San Bất Khuất 2011 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX                                 85
   81   82   83   84   85   86   87   88   89   90   91