Page 289 - index
P. 289
42. “Xuất khẩu”, “Cửa khẩu” Những danh từ này theo sự phổ biến rộng rãi của
Người Tầu dùng chữ “khẩu”, người Việt dùng kỹ thuật đã trở nên thông dụng trong ngôn ngữ
chữ “cảng”. Cho nên ta nói “xuất cảng”, “nhập hàng ngày. Hầu hết những chữ này có gốc từ tiếng
cảng”, chứ không phải như cộng sản nhắm mắt Anh, bởi vì Hoa Kỳ là nước đi trước các nước
theo Tầu gọi là “xuất khẩu”, “nhập khẩu”. Bởi vì khác về kỹ thuật. Các ngôn ngữ có những chữ
ta vẫn thường nói “phi trường Tân Sơn Nhất”, cùng gốc (tiếng Đức, tiếng Pháp) thì việc chuyển
“phi cảng Tân Sơn Nhất”, “hải cảng Hải Phòng”, dịch trở nên tự nhiên và rõ ràng, những ngôn ngữ
“giang cảng Saigon”, “thương cảng Saigon”. Chứ không cùng gốc, thì người ta địa phương hóa
không ai nói “phi khẩu Tân Sơn Nhất”, “hải khẩu những chữ ấy mà dùng. Riêng Việt Nam thì làm
Hải Phòng”, “thương khẩu Saigon” trong tiếng chuyện kỳ cục là dịch những chữ ấy ra tiếng Việt
Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc (hay mượn những chữ dịch của người Tầu), tạo
bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản nên một mớ chữ ngây ngô, người Việt đọc cũng
tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không thể hiểu nghĩa những chữ ấy là gì, mà nếu
không chuyển chữ (xấu) của họ sang chữ (tốt) của học cho hiểu nghĩa thì khi gặp những chữ ấy trong
mình, mà lại cứ copy y boong? tiếng Anh thì vẫn không hiểu. Ta hãy nhớ rằng,
ngay cả những người Mỹ không chuyên môn về
43. Còn hai từ nữa bị người dân miền Bắc lạm điện toán, họ cũng không hiểu đích xác nghĩa của
dụng vì lây cách dùng của cán bộ là “bản thân” những danh từ này, nhưng họ vẫn cứ chỉ biết là
và “chủ yếu”. “Bản thân” = self, oneself, và chữ ấy dùng để chỉ các vật, các kỹ thuật ấy, và họ
“chủ yếu” = main, principal. dùng một cách tự nhiên thôi. Vậy tại sao ta không
Qua những câu chuyện thường ngày, chúng ta Việt hóa các chữ ấy mà phải mất công dịch ra cho
nghe họ dùng hai từ này bừa bãi, sai lệch: “Thức kỳ cục, cho tối nghĩa. Ông cha ta đã từng Việt hóa
ăn chủ yếu của đồng bào vùng này là ngô và biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ
khoai”, “Chúng tôi lấy gạo làm chủ yếu để qui thuật phương tây cơ mà. Ví dụ như ta Việt hóa
thành giá trị trao đổi”, và: “Bản thân tôi cũng chữ “pomp” thành “bơm” (bơm xe, bơm nước),
không tránh khỏi dao động”, “Bản thân sự kiện đó chữ “soup” thành “xúp”, chữ “pharé” thành “đèn
còn nhiều tồn tại”. Người ta đã bỏ quên từ “tự” pha”, chữ “cyclo” thành “xe xích lô”, chữ
và “chính” được dùng từ xưa đến nay. Thí dụ: “manggis” (tiếng Mã Lai) thành “quả măng cụt”,
“Thức ăn chính của đồng bào”, “Chính tôi cũng chữ “durian” thành “quả sầu riêng”, chữ “bougie”
không tránh khỏi dao động”, “Tự thân sự kiện thành “bu-gi”, chữ “manchon” thành “đèn măng
đó”. Hiện nay đang có phong trào ghép chữ bừa xông”, chữ “boulon” thành “bù-long”, chữ “gare”
bãi giữa hai từ Hán-Việt + Hán-Việt hoặc Hán- thành “nhà ga”, chữ “savon” thành “xà-bông”?
Việt + Nôm. Thí dụ: “động thái”, “thể trạng”, Bây giờ đọc báo, thấy những chữ dịch mới, thì
“siêu sao”, “siêu trường”. “Động thái” là hành dù đó là tiếng Việt, người đọc cũng vẫn không
động + thái độ (action + attitude); “thể trạng” là hiểu như thường. Hãy duyệt qua một vài danh từ
tình trạng thân thể (physical form sitituation); kỹ thuật bị ép dịch qua tiếng Việt Nam, như:
“siêu sao” = super-star; “siêu trường” = super- a. “Scanner” dịch thành “máy quét”. Trời ơi!
long, nghe lạ tai. Đã đành là ngôn ngữ chẳng qua “máy quét” đây, thế còn máy lau, máy rửa đâu!
chỉ là những ước hiệu con người sử dụng để hiểu Mới nghe cứ tưởng là máy quét nhà!
nhau, thông cảm nhau. Tuy nhiên những ước hiệu b. “Data Communication” dịch là “truyền dữ
đó không được khó hiểu, bí hiểm, khó nghe, chói liệu”.
tai, kỳ lạ. c. “Digital camera” dịch là “máy ảnh kỹ thuật
số”
44. Những danh từ kỹ thuật mới d. “Database” dịch là “cơ sở dữ liệu”. Những
người Việt đã không biết “database” là gì thì càng
Thời đại của điện tử, của computer tạo ra nhiều không biết “cơ sơ dữ liệu” là gì luôn.
danh từ kỹ thuật mới, hay mang ý nghĩa mới.
289
Đặc San Bất Khuất 2017 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX