Page 92 - dacsan-bk-2011
P. 92
cũng đỡ thèm, đỡ đói và “sạch sẽ “ ra. Tôi và ông bạn Cảnh, Điễn, Hùng, Triết,…Cảnh luôn luôn phải “độn”
Chánh 101 là “con mồ côi”, không ai “gởi quà”, không thêm một bi đông nước cho no cái bụng bao giờ cũng
ai “thăm nuôi”, chỉ biết lấy tre làm bàn ăn và khúc gỗ đói, sau khi lũm một cái là hết cái bánh ăn tối. Cho
làm ghế ngồi để chiều lao động về, tắm rửa xong nên, Cảnh có biệt danh là “Cảnh Vòi Rồng”. Khiếu
xuôi...anh em ngồi ăn cơm mà chửi Việt Cộng, mà Hữu Điễn ở Ngả Ba Ông Tạ thì, bao giờ cũng ăn cái
chửi mấy thằng “làm ăng ten” và kể chuyện đời lính bánh nguội cũ, cất cái bánh nóng mới. Vì “người Bắc
hồi đó của mình. Thỉnh thoảng ông bạn Thuận cũng chúng tôi quen rồi, không được yên tâm, khi không có
đem phần cơm, có khi là một “cái bánh xe lãng tử”, có gì để dành”. Anh ta thường nhăn mặt nhăn mày nói
khi là mấy khúc nhỏ “bạch sâm” mà cũng có khi nửa như vậy. Có hôm, Điễn ăn thử con trùn đất, nhưng
chén đất “sắn dui” cùng với chúng tôi, gọi là “đến ăn được gì đâu, chỉ có đất và đất đầy miệng. Nguyễn
cho vui” và “kéo” thuốc lào, say cho quên đời. Ông Thiệu Hùng Cận mà Chu Sĩ Lương thường đùa: “Một
Thuận nầy giỏi làm “nỏ”, mỗi lần “rít” dài một hơi thì nhà thơ Mai Trung Chỉnh, một Lâu Ðài Tình Ái, một
y như rằng, những anh em tù ở xa tít xa cũng biết là Cái Bụng Trống Trơn” bị tụi cán bộ gán danh “trây
“Thần Kim Qui” ra trận. Người ta đặt cho ổng cái tên lười lao động”, thường khai bệnh liên miên ở nhà
“Thần Kim Qui” liên hệ đến cái nỏ thần xa lăc xa lơ “câu”, “móc ruột” những cái bánh của anh em ăn cho
đời xửa đời xưa của lịch sử nước mình. Không để yên, qua cơn đói hành hạ. Có người thông cảm mà thương
vài tháng sau, chúng tôi lại bị “biên chế” và chuyển lên như thương cho chính bản thân của họ. Có người ghét
Trại Trung Ương Số 1 Lào Cai. Từ đây, chúng tôi bị cay ghét đắng kết án như Biện Lý phán tôi phạm nhân.
nhốt trong những “láng trại” được bao bọc bởi rào cao, Và tôi, tôi biết tôi đói, gặp trường hợp thuận lợi chưa
hố sâu và những “cán bộ” áo vàng công an canh giữ, chắc còn “lương thiện nho nhỏ” mà không dám làm
có hệ thống hơn, khắc nghiệt hơn trước đây, do “bộ những việc đáng phiền hà như vậy! Con người sắp chết
đội” điều hành. đói, chịu không nổi những miếng ăn lồ lộ ra trước mắt
Tôi với Chánh, bị “biên chế” vào đội gạch. Chúng thúc giục bản năng hành động mà lý trí không ngăn cản
tôi đi đâu, rồi cũng trong những đội nặng nhất, khổ được. Triết, Ðơn Vị 101 như ông bạn Chánh, ngồi cắt
nhất, không bao giờ được nằm trong những đội tương phần bánh ăn của mình ra thành trăm “hột lựu”, đong
đối dễ thở như đội rau xanh, đôi nấu ăn, đội mộc, đội đưa võng buồn, mắt lờ đờ nhâm nhi từng hột một cho
rèn, đội chăn nuôi…Hằng ngày bất kể Xuân, Hạ, Thu, đến khuya. Ăn mau sợ hết, sợ đói. Hùng, Ðại Úy Lực
Ðông, chúng tôi cứ hai người một cặp, lấy đất sét, đạp Lượng Đặc Biệt, ốm yếu, lờ đờ, thà chịu đói, nhịn ăn,
nhuyễn, làm thành ụ đất đóng gạch cao 1,5 mét, rộng đổi lấy áo quần để “làm vốn” khi về. Tội nghiệp. Ảnh
1,2 mét. Mệt đừ. Chiều về, những “Thằng Tù Z” lê thê đã không “làm vốn” được khi về, mà ảnh đã ôm nó vào
lếch thếch, đi không muốn nổi. Ông bạn Nhã đẹp trai, lòng đất, không một nắm mồ ở đây Trại Trung Ương
Trưởng Phòng 2 Tiểu Khu Phú Bổn, người làng Kim Số I Lào Cai. Chánh cũng “cải thiện” dữ lắm và tôi
Ngọc, cách Phan Thiết của tôi chừng 6 cây số, ngày cũng không chậm chạp gì. Có gì cũng chia hai. Một
nào cũng như ngày nào, than trời không thấu: “làm con nhái bầu chút xíu, một con rít ngoằn ngoèo, tong
ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ nghỉ, teo…cũng cùng nhau nhét kẻ răng cho đỡ thèm cái
làm kỷ giờ ngủ, làm đủ hai mươi bốn giờ”. Nó được miệng. Một hôm Chánh đưa cho tôi một khúc rễ cây
thả về sớm hơn tôi, lấy vợ khác, làm nghề lái heo con tươi, bảo: “mầy ăn đi, không sao đâu. Tao và thằng
đường Long Khánh- Phan Thiết. Sơn đã ăn rồi, sống nhăn răng đây nè”.Tôi dè dặt ăn
Ðó, những Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa ở “tủ học thử. Ngày qua ngày, rễ cây hết, cây ngả chết. Trong tù
tập cải tạo” của một chế độ mới tàn bạo, về thì mất vợ, nầy, bất cứ thứ gì có thể ăn được, các “cải tạo viên”
xa con, nghèo khổ, làm đủ nghề tay chân tìm ra mìếng không chừa, đều tuồng tuốt luốt vào bao tử hết. Chúng
ăn cũng khó. Bị moi hết sức lực trong trại tù, khi về lại tôi có cùng một ý thức đói và một khái niệm không có
lam lũ cơ cầu, thiếu ăn, ưu sầu, bị lao, chết. Nay, nó đã cái gì đẹp trên đời. ngoại trừ miếng ăn. “Miếng ăn là
ra người thiên cổ. Tiếng than oán của mầy bây giờ ở miếng tồi tàn...” không đúng chút nào đối với chúng tôi
đâu Nhã!? Gì thì gì, tao cũng không bao giờ quên được những người triền miên đói,. Một con mèo tam thể ưỡn
mầy “ngày nào cũng phải chữi ông bà ông vải tụi Việt ẹo đi qua. Một con chó con lông xù kêu cẳng cẳng đi
Cộng mới ăn cơm được”, nó thường nói như vậy. qua… Bọn tù chết tiệt này kháu nhau là, làm thịt nấu
Thuận chịu khó hơn, tình nguyện “đóng gạch” và “đốt món nầy ngon lắm, nấu món kia ngon lắm, có bao giờ
lò”. Cả hai công đoạn nầy phải nói, vừa nặng vừa cực khen con mèo nầy đẹp, con chó kia dễ thương đâu!?
vô cùng. Nó lúc nào cũng “học tập tốt”, “lao động tốt”. Bản chất con người đã biến thể rồi mà bản năng động
Tôi cũng không quên những khuôn mặt tiêu biểu: vật lại cứ trổi dậy rần rần. Đến mùa thu hoạch các thứ
___________________________________________________________________________________
Đặc San Bất Khuất 2011 – Khóa 8 B+C/72 TB/TX 91