Tạ lỗi với Trường Sơn

Đỗ Trung Quân, người ta biết nhiều tới anh do bài thơ Quê Hương của anh ta được Giáp Văn Thạch phổ nhạc. Chúng tôi xin gởi đến các bạn nội dung bài thơ này với tựa là Quê Hương:
 

QUÊ HƯƠNG
 

Quê hương là ǵ hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là ǵ hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đ̣ nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.

(Thơ)
"Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi..."

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người...!

Đọc hoặc ngâm lên nghe cũng thiết tha, t́nh tự. Chẳng có tí ǵ là đấu tranh, sắt máu hay chém giết ǵ mà mang hoài băo thiết tha với quốc gia dân tộc, thưa các bạn. Một khi nhà cầm quyền cộng sản cho phép xử dụng rộng răi. Như thế th́ nhà cầm quyền hiện nay hiền lành, yêu thương ṇi giống quá chứ. Nếu có gi khuất tất.

Chẳng qua là nhà nước ta bị vu khống, phỉ báng tuyên truyền láo toét thôi. Có lẽ được sáng tác trong thời gian đảng cộng sản cầm quyền, 2 nhân vật này cũng là đảng viên nên bài thơ lẫn bản nhạc được ḷng đảng nên bài hát này được phổ biến rộng răi, khuyến khích hát đi hát lại rất nhiều ngày tháng năm trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Lại thêm nặng phần tuyên truyền với bà con người Việt đang bằng đủ mọi cách bỏ phiếu bằng chân hay bằng bất cứ phương tiện nào biến khỏi Việt Nam để xin tỵ nạn cộng sản.

Bà con ta từ trong nước đến hải ngoại lại ăn thêm một quả lừa tuy không bự tổ chảng nhưng nó lại đă sâu vào tâm khảm của nhiều người. Nhiều bà con ta ở hải ngoại lầm chết được.

Lại một thời gian sau, chẳng bao lâu bài thơ " Tạ Lỗi Trường Sơn " được ra mắt trước công chúng không chính thức ( v́ đảng cấm không cho phép ấn hành ) vẫn do Đỗ Trung Quân sáng tác lại tiếp tục được phổ biến đến công chúng qua các phương tiên truyền thông mới như internet, các trang mạng xă hội..... Bài Quê Hương dĩ nhiên không được phổ biến hay khuyến khích sử dụng rộng răi như trước nữa. Làm ǵ cũng phải hỏi ư kiến, xin phép đảng trước. Chớ không dễ bị ban cho cái nón " Phản Động ". Nên những ǵ liên quan đến tác giả sẽ bị lôi ra hạch tội ( đàn hặc ).

Mặc dù bài này đă được nhiều người bỏ lên Internet nhiều lần nhưng thiển nghĩ đọc lại cũng vẫn thấy mang nhiều ấm ức hằn học cùng là hối hận, tiếc nuối. Không kém phần chua chát. Ắt hẳn trong thâm tâm tác giả c̣n mang nhiều hoài băo nhưng quá hối hận những năm tháng không phải "hy sinh" cho đảng mà cho những tên cơ hội, hănh tiến, những quân thay lốt bần cố nông nay khoác vào lớp áo trí thức, gọng kính vàng, đi xe sang, ở biệt thự dát vàng,bệ vệ như những ông hoàn bà chúa thời phong kiến vua chúa ngày xưa, chúng ăn chơi sa đọa..... Chúng tạo nên một giai cấp mới rất là lố bịch nhưng xung quanh bọn chúng người dân vẫn lầm than chạy ăn từng bữa một. Người thất nghiệp càng ngày càng đông, ăn xin càng nhiều. Người bán vé số càng gia tăng.

Chắc chắn anh ta thất vọng quá đỗi.

Thời gian tuy đă trải qua mấy thập niên rồi tuy không c̣n thích hợp nữa nhưng tánh thời sự, hiện sinh th́ vẫn c̣n đó chẳng thay đổi được bao nhiêu. Có khi cùng là người Việt với nhau xem ra đối xử với nhau càng ngày càng tàn nhẫn hơn, lạnh nhạt hơn, bóc lột nhau hơn, lợi dụng nhau hơn với chủ trương làm giàu dưới bất cứ h́nh thức nào. Bất chấp thủ đoạn khác nào quân ăn cướp, lũ súc vật đối xử với nhau. Cứ xem tin tức hằng ngày. Xảy ra biết bao nhiêu chuyện lừa đảo. Làm chủ sổ đỏ ( nghĩa là có người phải cầm cố nhà, đất....Bao nhiêu là tệ nạn mà hơn 50 năm trước chưa hoặc không hề nghe hay biết tới. \

Phải chăng với đà tiến triển của con người qua không gian và thời gian. Con người ta không phát triển chiều ngang ắt phải phát triển chiều dọc.
Tương lai, không biết Trường Sơn có c̣n tồn tại nữa không mà đ̣i tạ lỗi.

Sẵn đây thằng tui xin kể hầu các bạn câu truyện ngăn ngắn sau khi tù về.

Số là sau khi tù về vài ba năm, thằng tui hành nghề Thú dạo. Nhân một bữa có tên cán bộ trung cấp ( nhà ở biệt thự Làng Đại Học Thủ Đức ) cho người ở ( ô sin sau này ) tới thỉnh ông Thú y đi chữa bệnh con lợn nhà lăo ta to đùng lăn quay ra bỏ ăn. Hăi quá lăo bèn phải kiếm ông thầy tới y gọi là giải quyết căn bệnh. Thằng tui sờ sờ mó mó sắm tuồng chút đỉnh gọi là lâm sàng chẩn bệnh ( nói cho bảnh vây mà, trong bụng c̣n cười thầm ). Lấy seringue ra, sát trùng kim kiếc, ống chích, pince.....rồi lấy thuốc ra choác cho bác Trư 2 nhát. Trước đó tui nói là Heo của ông bự cả 100kgms rồi, bán đi chữa chạy ǵ nữa. Y nói là nó bệnh, bỏ ăn bàn lái nó ép trẻ giá rẻ như bèo. C̣n bán cho Hợp tác Xă họ thấy Nợn bệnh không mua.

Tui nói là heo lớn xác xài nhiều thuốc ( theo trong lượng cơ thể )tốn nhiều tiền lắm. Y nói không sao. Thế là thằng tui mở máy chém. Không đẹp không chơi. Sau 3 ngày, bác trư vui vẻ cháp lại mạnh giỏi dzui dzẻ.

Lúc bấy giờ y mới thú nhận:

- Anh ạ! ( khi cần ḿnh chúng nó nói năng tử tế lắm nghen các bạn, pha trà, cà phê, mua thuốc điếu có cán như 555, Jet, Samit....đăi ḿnh ) Ngày chúng tôi vào giải phóng thành phố. Chúng tôi dốt nắm có biết máy dzét, bếp điện, bếp dầu hôi cùng nà nhiều món khác như thế lào đâu. Thấy nạ nà chúng tôi nấy nê đâm nủng hết. Sợ chúng nó gài bẫy hay đặt chất lổ giết hại cách mạng.....

Thằng tui chỉ biết gật gù cho qua truông rồi lấy mớ bạc đút túi xong là...biến. Thế là bạn ta có ít xèng chia sẻ cho nhau qua cơn ngặt nghèo.

Nghĩ lại, với lũ ngợm này, tương lai đất nước không biết sẽ đi về đâu. Chắc chắn là không thể lạc quan nổi.

MƯA NGUỒN.

==============================

Tác giả Đỗ Trung Quân, một người thanh niên trẻ bị nhồi sọ suốt cuộc đời niên thiếu, vào Nam, với cái nh́n khác với đảng đă viết nên bài thơ “Tạ lỗi Trường Sơn” nói lên cái nh́n về dân miền Nam, đặc biệt dân Saigon qua những tuyên truyền và những cán bộ đảng bị “Saigon hoá” thế nào. Trong sâu thẳm của tâm hồn, anh viết bài thơ này một cách chân thật sâu sắc. Mời xem:

Lời tác giả khi công bố bài thơ năm 2009:

Đă 34 năm trôi qua. Hoà b́nh cũng dài ngang bằng cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử. Chưa có cuộc chiến nào ám ảnh một dân tộc cho bằng cuộc chiến tranh này, nó thay đổi h́nh thái xă hội. Thay đổi số phận con người. Công bố bài thơ viết năm 27 tuổi, bảy năm sau hoà b́nh (1982). Nay nh́n lại, tôi cũng không hiểu điều ǵ đă dẫn dắt cho những ḍng chữ này. Khi làm xong nghĩa vụ một thanh niên thời hậu chiến, người có lư lịch may mắn không vướng phải chuyện lính tráng dù thế hệ tôi sau “mùa hè đỏ lửa 1972” hầu hết cũng đă “yên vị” khói hương trên bàn thờ gia đ́nh. C̣n nhớ những năm của thập niên 80, giáo sư Nguyễn Khắc Viện viết một bài đanh thép trên báo Sài G̣n giải phóng Sen hay bùn về danh xưng khi nào th́ gọi là Thành phố Hồ Chí Minh, khi nào th́ gọi là Sài G̣n? Và ông khẳng định cái tốt th́ gọi TP Hồ Chí Minh, cái tệ nạn, cái xấu, cái “tồn đọng” th́ gọi là Sài G̣n. Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan đă đối thoại bằng một bài báo khác (tất nhiên ông không thể đăng bài phản biện ấy trên báo Sài G̣n giải phóng như trong một xă hội b́nh thường), ông nhắc rằng hiện tại sau 10 năm giải phóng, thành phố vẫn c̣n một tờ báo lớn tiếng nói chính thức của “Đảng bộ và nhân dân thành phố” tờ Sài G̣n giải phóng ( nó vẫn c̣n đến tận hôm nay), c̣n một nhà máy thuốc lá Sài G̣n, c̣n một đội bóng danh tiếng mang tên Cảng Sài G̣n (nay đă không c̣n)… Bài thơ này, có lẽ là cái nh́n đau đớn đầu tiên của một người trẻ tuổi vừa từ chiến trường K trở về với bao nhiêu hoài băo sau khi chứng kiến những hy sinh cao đẹp của một thế hệ thanh niên Sài G̣n, những con người thành phố tuổi chỉ mới đôi mươi…

Hai mươi bảy tuổi và một bài thơ dài nhất của đời ḿnh

Tạ lỗi Trường Sơn
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Đỗ Trung Quân1.

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc
Các anh đến
Và nh́n Sài G̣n như thủ đô của rác
Của x́ ke, gái điếm, cao bồi
Của t́nh dục,ăn chơi
“Hiện sinh – buồn nôn – phi lư!!!”
Các anh bảo con trai Sài G̣n không lưu manh cũng lính nguỵ
Con gái Sài G̣n không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài G̣n là trang sách “hư vô”
Văn hoá lai căng không cội nguồn dân tộc
Ng̣i bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang nhăn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài G̣n là “thú hoang” nổi loạn
Là thiêu thân uỷ mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập toà án bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài G̣n ra trước vành móng ngựa!!!

2.
Tội nghiệp Sài G̣n quá thể
Tội nghiệp chiếc cầu Công Lư
Có anh thợ điện ra đi không về
Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ
Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me
Tội nghiệp những người Sài G̣n đi xa
Đi từ tuổi hai mươi
Nhận hoang đảo tù đày để nói về ḷng ái quốc
Có ai hỏi những hàng dương xanh
Xem đă bao nhiêu người Sài G̣n hoá thân vào sóng nước
Tội nghiệp những đêm Sài G̣n đốt đuốc
Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không
Tội nghiệp những ông cha rời khỏi nhà ḍng
Áo chùng đen đẫm máu
Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo
Những vị giáo sư trên bục giảng đường
Ưu tư nh́n học tṛ ḿnh nhiễm độc
Sài G̣n của tôi – của chúng ta.
Có tiếng cười
Và tiếng khóc.

3.
Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi
Những con điếm xưa có kẻ đă trở lại làm người giă từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện
Những gă du đăng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển
T́m lại hồn nhiên cho cuộc sống của ḿnh
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hi sinh...

4.
Và khi ấy
Th́ chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài G̣n bắt đầu chửi bới
Chửi đă đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê ghi trong lí lịch của chính ḿnh
Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm c̣ng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần ḿnh tối tăm
Để những đứa con lớn lên có cái nh́n và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận ḿnh “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của ḿnh như kẻ ngoại nhân
Các anh
Đang ngồi giữa Sài G̣n nhịp chân
Đă bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo,cũng xỏ dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio...
Bia ôm và gái
Các anh ngông nghênh tuyên ngôn ”khôn và dại”
Các anh bắt đầu triết lư “sống ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài G̣n thời quá khứ
Sài G̣n 1982 lẽ nào...
Lại bắt đầu ghẻ lở?

5.
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ của ḿnh
Những ai đang cố tẩy rửa “lí lịch đen”
Để t́m chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

6.
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ b́nh thản ăn chơi
B́nh thản đổi thay lốt cũ
Hăy để yên cho hàng me Sài G̣n
Hồn nhiên xanh muôn thưở
Để yên cho xương rồng, gai góc
Chân thật nở hoa.
Này đây!
Xin đổi chỗ không ḱ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc thôi)
Sài G̣n bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ...
Tin chắc rằng trong các ngài đă vô số kẻ tin vào”thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?


 

 

 


Thơ

Tạ lỗi với Trường Sơn  
Bài thơ cho chị  
Sinh bắc tử nam  
Tôi là người bán hàng  
Cũng đành chịu lỗi
Buổi trưa quê
Trăng tàn độc ẩm
Thiếu úy Quí thư không gửi  
Tệ!  
Nhé em! 
May mà thua anh vài tuổi 
Nếu ai có hỏi 
Cho anh t́nh đầu
Tôi và anh
Muôn thuở ân t́nh
Đà Lạt phố núi
T́nh sử
Mẹ đưa con vào lớp vở ḷng

Đà Lạt phố núi
Cho em t́nh cuối
Cạn ḷng
Đời chan ḥa những t́nh yêu
Hạ buồn
Lệ t́nh
Trả lại em
Đọc Nửa hồn Xuân Lộc
Tự nhiên già!
Qua sông
Nếu ai có hỏi
Bà mẹ đất Thừa Thiên
Gánh dừa
Tượng tiếc thương  
Khúc bi hùng giữa rừng lá thấp  
Đà Lạt phố núi
30 tháng Tư, nhớ cơn mưa dầm  
Tháng Tư, những câu ngắn
Tháng Tư và những câu hỏi
Tháng Tư này lật trang sử sang chương
Nụ cười trong mắt anh
Lời nguyện cầu của người ngoại đạo
Tháng Ba về  
Về lại Charlie  
Nhớ  
Em đi  
Sắc màu nỗi nhớ
Ngày tàn cuộc chiến
T́nh chiến hữu
Thuyền nhân lại nhớ thuyền nhân
Anh hùng không tên
Tâm sự người lính trẻ Pháo Binh
Thập loại cô hồn hiễn hách chi mộ kính...
Hoài cảm
Huynh đệ chi binh
Thương Ca 1 - Tưởng như c̣n người yêu
Đường về Hậu Giang
Ướp hồng tuổi ngọc
Duyên nghiệp
Chị và em
Nụ cười sao thánh thiện
Một bài thơ hay của TT Nguyễn Văn Thiệu
Bóng Xuân xưa
Xuân nơi đây
Xuân chưa về
Khu vườn t́nh ái
Lời nguyện cầu của người ngoại đạo
Anh ơi chỉ c̣n thơ
Chỉ một lần thôi