Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam
Ranh dưới quyền chủ tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ
Thủ Tướng không rơ nội dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản
công chiếm lại Ban Mê Thuột
Sau khi tỉnh Phước Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban
Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, t́nh h́nh chiến sự
Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp
Ngưng Bắn đă kư tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975 là
có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính trị cũng sôi động không
kém t́nh h́nh quân sự.
Lúc bấy giờ các vị lănh đạo quốc gia và lănh đạo quân đội liên quan
đến những phản ứng sau đó, là:
- Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung Tướng).
- Thủ Tướng: Trần Thiện Khiêm (Đại Tướng).
- Tổng Tham Mưu Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên.
- Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục
Tiếp Vận: Trung Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được phép đưa thân phụ
sang Tokyo chữa bệnh ung thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút
quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó, xử lư thường vụ chức vụ
Tổng Cục Trưởng.
- Tư Lệnh Quân Đoàn II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
- Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại Tá Bửu
Khương.
- Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lư.
Lúc bấy giờ tôi là Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận.
Vào chuyện.
Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ
tọa của Tổng Thống, nhưng người bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rơ nội
dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê
Thuột. Rất tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên chưa về, nên tôi với
Đại Tá Phạm Kỳ Loan không biết ǵ hơn.
Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ buổi làm chiều, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Có ai ngồi gần anh không? -
- Dạ không, thưa Đại Tướng -
Đó là Đại Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp:
- Tuyệt đối là anh không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan
trách nhiệm thi hành -
- Vâng, tôi rơ thưa Đại Tướng -
- Tổng Cục Tiếp Vận có bao nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? -
- Thông thường th́ sử dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp tối cần
thiết có thể sử dụng được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ hỏi bên Không
Quân và sẽ tŕnh lại Đại Tướng con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng
-
- Thôi được. Điều cần thiết là anh phải sử dụng tối đa v́ đây là nhu
cầu khẩn cấp. Anh liên lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao
nhiêu chiếc th́ cho họ bấy nhiêu, c̣n sử dụng vào công tác ǵ th́
tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày mai. Anh rơ chưa? -
- Thưa Đại Tướng, tôi rơ -
- Phần anh, anh chuyển các quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn
đem về đâu th́ tùy anh-
- Vâng. Tôi thi hành, thưa Đại Tướng -
Tôi thuật lại cho Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn tôi, đều
không suy đoán được là chuyện ǵ sắp xảy ra mà chúng tôi không được
phép biết. Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng sản th́ tại sao
không để quân dụng lại mà thay thế số tổn thất? Nếu không đánh
nhau,….. mà không đánh nhau là thế nào? Thật không hiểu nỗi!
Tổ chức một quân đội, phải có hai yếu tố chính, là “con người và
quân dụng”. Quân dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những ǵ trang bị
cho mỗi quân nhân từ đỉnh đầu xuống đến gót chân, từ dinh dưỡng đến
điều trị khi bị thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và nghĩa trang,
rồi doanh trại, phương tiện di chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết
giáp, đại bác hỏa tiển,…… đều là nhiệm vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy
mà Tiếp Vận lại không được quyền biết đến kế hoạch hành quân, ít
nhất là đối với lệnh vừa rồi của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa !
Trong quân đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, là hai vị Tư Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp vận vào đúng vị
trí của ngành này mà thôi. Điển h́nh là Trung Tướng Đỗ Cao Trí, Tư
Lệnh Quân Đoàn III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành quân sang
lănh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ tiếp vận của quân cộng sản
sát biên giới Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung Tướng Trí
nêu câu hỏi với Trung Tá Trương Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh
Sát) Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận:
- Theo kế hoạch hành quân như đă tŕnh bày, Tiếp Vận có chuẩn bị kịp
không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày lại”.
Khi vị Tư Lệnh hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách mấy cũng
phải thực hiện cho xong chớ đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào cũng
phải vất vă, nhưng vất vă mà được biết đến vẫn vui ḷng hơn.
Trước khi lên Pleiku nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú điện thoại tôi:
- Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy
Thiêm một tuần để nó lên đó chọn hướng đặt bàn giấy giùm tôi nghe
anh-
- Vâng. Tôi sẽ nói với anh Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực
tiếp với anh ấy về những chi tiết cần thiết -
Lúc bấy giờ tôi là Cục Trưởng Cục Măi Dịch (đồn trú ở Sài G̣n), và
trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm được nhiều người cho
là giỏi tướng số tử vi và chữ kư. Và sau 5 ngày công tác riêng cho
Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở về, Trung úy Thiêm nói với tôi:
- Thưa Đại Tá, tôi thấy vận số của Thiếu Tướng Phú hết rồi, nhiều
lắm cũng chỉ tính bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu -
- Anh có nói ǵ với Thiếu Tướng Phú không?-
- Dạ không. V́ sợ ổng mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có
cách ǵ giải được, thà không nói vẫn hơn -
- Nghî như anh cũng phải -
(Năm 1990, tôi được biết Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm định cư tại
Australia )
Tôi nhớ, có một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói với tôi rằng,
“Thiếu Tướng Phú tuổi con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II v́
rắn thích hợp với núi rừng”.
Trở lại lệnh của Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku
liên lạc với Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II:
- Tôi Hoa đây anh Lư. Tôi được lệnh cấp C.130 cho anh nhưng không
được biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác ǵ. Vậy anh có thể cho
tôi biết để tôi tiện sắp xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không
? V́ chắc anh cũng biết là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới hạn
lắm -
- Anh cứ đưa lên đây cho tôi, c̣n sử dụng vào công tác ǵ th́ không
thể nói được đâu- Lời của Đại Tá Lư.
- Đành vậy. Nhưng anh cần bao nhiêu chiếc? Cần vào lúc nào? Và
chuyển vận từ đâu tới đâu?
- Anh có bao nhiêu chiếc th́ đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng
mai (16/3/1975). Không tŕnh có thể là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc
Sàig̣n -
- Vậy th́ như thế này. Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2
chiếc kế tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn Nhất và anh cần là cất
cánh ngay, v́ một lúc anh đâu sử dụng được 4 chiếc. Được không? -
- Được. 8 giờ sáng mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe -
- Xong. Ḿnh thỏa thuận như vậy nhé -
Tôi tŕnh Đại Tá Loan là vẫn không biết được ǵ thêm ở Quân Đoàn II.
Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng
Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ điều ǵ. Bên Không Quân
xác nhận là có thể sử dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử
dụng như vậy th́ các nhu cầu tiếp theo không thể thực hiện được ít
nhất là một tuần v́ phải tu bổ lại. Bộ Chỉ Huy Không Chiến, cơ quan
điều động phi cơ, đồng ư về thỏa thuận giữa tôi với Đại Tá Lư, nghĩa
là 2 chiếc C130 cất cánh lên Pleiku th́ 2 chiếc kế tiếp túc trực tại
căn cứ Tân Sơn Nhất.
Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không Chiến điện thoại tôi:
- Tŕnh Đại Tá, trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi trường
Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào đáp xuống phi trường
được, v́ người ta đông không thể tưởng tượng nỗi. Chẳng biết là
chuyện ǵ xảy ra v́ không liên lạc được dưới đất. Và hai chiếc C.130
đang chờ lệnh Đại Tá đó -
- Anh chuyển đến Trưởng phi cơ, hăy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc
với Quân Đoàn xem t́nh h́nh ra sao đă -
Gọi Quân Đoàn II và tôi nói chuyện với Đại Tá Lư:
- Phi cơ tôi đang trên không phận của anh đó, nhưng không thể đáp
được. Nếu anh muốn họ đáp xuống th́ anh phải giải toả sân bay giùm
đi v́ nếu chậm quá th́ họ sẽ về lại Sài G̣n đó. Mà chuyện ǵ xảy ra
vậy Anh? -
- Tại v́ người ta tranh nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập
đường băng như vậy. Để tôi cho Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ
đáp xuống cho tôi đi -
- Th́ phi hành đoàn đang chờ đường băng trống là đáp xuống, trừ khi
anh không giải toả nỗi. Anh nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn
Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan
trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe -
Tôi lại nhờ Bộ Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành đoàn C.130.
Và sau đó, phi cơ đáp xuống được tuy rất khó khăn v́ đông nghẹt
người là người hai bên đường băng. Để rồi một h́nh ảnh hỗn loạn chưa
từng thấy -theo lời thuật của Trưởng phi cơ- là cả một rừng người
chen lấn xô đẩy, thậm chí đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết
sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh
được.
Hóa ra là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi tŕnh
ngay cho Đại Tá Loan v́ ước tính là sắp đánh nhau với quân cộng sản
rồi. Ước tính này không phải là vô căn cứ, bởi v́ cộng sản đă chiếm
thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn
II cũng là điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm …
V́ sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2 chiếc C.130 trên không phận Plei
Ku th́ điện thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm
muộn:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Bộ Chỉ Huy Không Chiến đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là toàn
thị xă Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào cả, và bây giờ
phi hành đoàn xin phép về lại căn cứ -
- Anh hỏi lại phi hành đoàn giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như
vậy th́ tôi đồng ư phi cơ quay về. Xin nhớ, đây là trách nhiệm rất
quan trọng nghe anh -
Tôi điện thoại qua nhà Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó Đại Tá
Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ (Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng Tham
Mưu) nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ được một giọt thông tin nào
về t́nh h́nh đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm, nhưng chúng tôi
không có cách nào khác v́ Trung Tướng Khuyên đi Tokyo chưa về. Có vẻ
như chúng tôi bị coi như là những sî quan không đáng tin cậy th́
phải, ít nhất cũng là không được tin cậy trong cuộc hành quân này,
dù rằng Đại Tá Loan đang là cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận
với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và quản trị một
khối lượng dụng cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim!
Tất cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng vô tuyến lẫn hữu tuyến
của quân đội, cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh, đều không
liên lạc được với bất cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả. Đại Tá Bửu
Khương (ở Qui nhơn) cũng không có tin tức ǵ khá hơn trong khi đoàn
quân xa hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải vẫn c̣n kẹt trên Plei
Ku v́ quốc lộ 19 nối liền Qui Nhơn – Plei Ku bị quân cộng sản chiếm
giữ nhiều chặng. Một t́nh h́nh không thể hiểu nỗi ít nhất là đối với
ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc ấy chúng tôi không
nghĩ đến giả thuyết nào khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân
ra ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho q6an cộng sản tiến vào, và bất
th́nh ĺnh quật lại tấn công chúng ngay trong thành phố. C̣n về giả
thuyết rút bỏ Cao Nguyên th́ nhất thiết không thể có trong tư tưởng
của bất cứ sĩ quan nào chớ chẳng riêng ǵ chúng tôi. Cho dù một giả
thuyết như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp dưới, nhưng
nó lại là một kế hoạch thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng lănh đạo
đất nước 20.000.000 dân, trong đó có một quân đội hơn 1.000.000
người!
Cả hai chúng tôi -Đại Tá Loan và tôi- không thông báo t́nh h́nh tệ
hại đó cho bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi
hết sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và số phận của anh em
trong ngành Tiếp Vận ở Plei Ku và Kon Tum nói riêng, v́ chúng tôi
không có bất cứ một thông tin nào về t́nh h́nh đó, kể cả nguồn cung
cấp chính xác nhất là vị Tướng Trưởng Pḥng 3 ngang hàng với cơ quan
chúng tôi, và vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của chúng tôi cũng
vậy.
Chiều 18/3/1975, điện thoại reo:
- Đại Tá Hoa tôi nghe -
- Khương đây anh Hoa- Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ
Huy 2 Tiếp Vận, đồn trú tại Qui Nhơn.
- Anh có tin ǵ về anh em ḿnh trên Plei Ku chưa? -
- Liên Đoàn 2 Vận Tải mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị kẹt trên
Plei Ku rồi anh. Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân
xa rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên đường liên tỉnh số
7 để xuống Tuy Ḥa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều đơn vị chiến đấu,
cùng với Pháo Binh, Thiết Giáp, bị sa lầy sau khi vượt qua Cheo Reo.
Phần th́ đường hư cầu sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175 cơ
động lật xuống hố, phần th́ các đơn vị cộng sản tấn công nhiều mặt,
đă gây tổn thất nặng cho cả quân đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy phản
ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh thần lắm anh ơi! -
- Được rồi. Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy Hoà, chắc chắn
là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều
toán do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận chỉ huy và đặt tại Tuy
Hoà, mỗi toán phụ trách một công tác, để khi đoàn quân xuống đến Tuy
Ḥa th́ cấp phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ
tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần viết tay và kư nhận là đủ. Hàng
mang theo cấp phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ quần áo trận, đổ
đầy xăng dầu cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y th́ cấp
thuốc cho các bệnh thông thường và cấp cứu đầu tiên. Anh thấy được
không? -
- Được anh. Để tôi lo -
- Anh nói Liên Đoàn 2 Vận Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin
tức ǵ về đoàn quân này th́ anh cho tôi biết ngay nghe anh Khương-
Sở dĩ có đoàn xe hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là v́ sau khi
Phước Long mất, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực
hiện kế hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương thực thực phẩm), loại 3
(nhiên liệu), loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei Ku dự trữ cho
20.000 quân pḥng thủ trong 30 ngày mới bổ sung. Do vậy mà hằng ngày
đoàn xe cả trăm chiếc đi đi về về giữa Qui Nhơn với Plei Ku để vận
chuyển tiếp liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku.
Tôi sang văn pḥng Đại Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng:
- Tôi Hoa đây anh Nguyện (Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn pḥng),
anh cho tôi tŕnh vấn đề gấp với Đại Tướng -
- Anh chờ tôi một chút -
- Tôi đây. Anh có chuyện ǵ vậy? -
- Thưa Đại Tướng, tôi Hoa đây -
- Có việc ǵ vậy? -
- Vài phút cách đây, Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 2
Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei Ku và Kon Tum đang
bị sa lầy … (tôi thuật lại chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đă nói
với nhau).
- Anh có chắc là đúng như vậy không? -
- Từ chổ đoàn xe bị kẹt đến Đại Tá Khương như thế nào th́ tôi không
dám chắc, nhưng từ Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác,
thưa Đại Tướng -
- Thôi được. Anh đừng nói với ai nữa nghe -
- Vâng -
Đại Tá Loan và tôi đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng. Chúng tôi ngẩn ngơ v́ không hiểu tại sao t́nh h́nh
đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín chúng tôi nữa! Vài phút sau đó,
Chuẩn Tướng Trần Đ́nh Thọ điện thoại tôi:
- Cưng ơi (Chuẩn Tướng Thọ thường gọi tôi như vậy), cưng có liên lạc
với đoàn xe trên đường số 7 hả? -
- Tôi không trực tiếp liên lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng
tôi đă liên lạc được với đoàn xe chở tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt
trên đó, nay th́ cùng trong đoàn quân sa lầy mà vừa rồi tôi đă tŕnh
Đại Tướng -
- Có. Đại Tướng mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy thôi nghe -
Tôi có biết chút ít về đường liên tỉnh số 7 này, từ đoạn Plei Ku vào
đến Cheo Reo và xuống đến Cung Sơn. V́ cuối năm 1955 -lúc bấy giờ
tôi đang là Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc Tiểu Đoàn Khinh Quân 510-
toàn bộ Tiểu Đoàn chúng tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và
527, di chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú tại Cheo Reo,
để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn
Khinh Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn trú tại Plei Ku. Các Tiểu
Đoàn được cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành Tiểu Đoàn
1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527
thành Tiểu Đoàn 3/35.
V́ các đơn vị yểm trợ tiếp liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở
Plei Ku, nên chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với Plei Ku
bằng đường liên tỉnh số 7 và một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ đoạn đường
từ ngă ba quốc lộ 14 với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là Mỹ Thạch-
vào đến Cheo Reo c̣n sử dụng được, là v́ trong chiến tranh giữa thực
dân Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng sản núp dưới tên Việt
Minh), Cheo Reo là cứ điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu
bổ v́ nó là “con đường huyết mạch” của cứ điểm. C̣n đoạn từ Cheo Reo
xuống Cung Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên không tu
bổ ǵ cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến Cheo Reo, th́ xác những chiếc
thiết giáp của Pháp c̣n ngổn ngang tại đó, c̣n chiếc cầu bắc ngang
Sông Ba th́ tồi tệ hơn bất cứ chiếc cầu tồi tệ nào. Thuở ấy “rất là
hoà b́nh”, nên chúng tôi thường đi săn trên đường từ Cheo Reo xuống
đến Cung Sơn, chỉ cần thận trọng một chút th́ xe jeep vẫn ḅ qua
chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên đoạn đường này, chiếc xe jeep của
chúng tôi chỉ gọi là “ḅ” chớ không thể gọi là chạy được v́ mặt
đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu như không c̣n ǵ để gọi là
con đường nữa.
Giữa năm 1969, lúc ấy tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn
Văn Là, đến thăm các đơn vị tại Cheo Reo và các quận lân cận, con
đường bên kia Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu đoạn đường tiếp
nối xuống Cung Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không được tu bổ
thường xuyên, mà Quân Đoàn II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn
10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa, dân xa, và chiến xa
hạng nặng triệt thoái, quả là tạo được bất ngờ đối với địch, nhưng
phải nói là quá liều lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có sử dụng được
hay không, lại là vấn đề trước mặt của Quân Đoàn II nói chung, và
của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui binh này nói riêng.
Chiều tối hôm sau th́ Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật
Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi tŕnh bày về t́nh h́nh từ ngày
ông vắng mặt đến nay, ông nói sáng mai sẽ tŕnh diện Tổng Thống với
Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng), chắc là sẽ có tin tức rơ ràng hơn.
Và đây là những tin tức đó:
“Sau khi mất Ban Mê Thuột, áp lực của quân cộng sản rất mạnh. Tổng
Thống nhận định là không đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên trong
khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku với Kon Tum, v́ vậy mà Tổng
Thống trong buổi họp tại Cam Ranh, đă quyết định rút bỏ Plei Ku, Kon
Tum, Phú Bổn, để đem lực lượng về phản công lấy lại Ban Mê Thuột.
Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II,
nhiệm vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái khỏi 3 tỉnh đó, nhưng
phải giữ bí mật tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực lượng (có lẽ v́ bảo
mật tối đa mà Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không được cho biết ǵ
cả). Thiếu Tướng Phú tŕnh kế hoạch là rút theo đường liên tỉnh số
7, dù rằng con đường này không sử dụng từ lâu nhưng đạt được yếu tố
bất ngờ đối với lực lượng cộng sản. Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng
Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng
Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân lui binh này. Lời đề nghị
được Tổng Thống chấp thuận tại chổ”.
Lúc bấy giờ, Đại Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng Biệt Động
Quân/Quân Đoàn II.
Hết giờ buổi chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp Vận chỉ c̣n
nhân viên trực hoạt động. Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn pḥng
(ông ngồi ở văn pḥng Tham Mưu Trưởng/Bộ Tổng Tham Mưu, trên ṭa nhà
chánh), và ông đưa tôi xem một xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi
cơ) đă được giải đoán đầy đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy đoàn xe
không phải theo một h́nh dài mà là một h́nh gần như tṛn, v́ khi
phần đi đầu bị kẹt th́ những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay bên
phải với hy vọng t́m được lối đi, nhưng càng lấn vào rừng th́ càng
không lối thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đă tạo nên
dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tṛn bằng ng̣i bút của
chuyên viên giải đoán không ảnh, có gần 800 xe đă bị thiêu hủy. Nếu
như giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng gần như vậy,
th́ chỉ mới 4 ngày dấn thân vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị tổn
thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe các loại, quả là rất nặng. Trong
số tổn thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ động và Trung Đoàn
Chiến Xa hạng nặng M48″. Đây là hai loại vũ khí mới được Hoa Kỳ viện
trợ năm 1973 bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng của họ chỉ
rút người về nước và để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân đội chúng
ta.
Những bài học chiến thuật trong trường Vơ Bị cũng như trường Đại Học
Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương của Pháp và
là tiền thân của trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận
rằng, trong các cuộc hành quân th́ hành quân rút lui (hay triệt
thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các cuộc hành quân khác,
v́ đơn vị “đưa lưng” về phía địch. Khi tấn công th́ trước mặt là
địch và sau lưng là hậu tuyến, c̣n trong rút lui th́ trước mặt lại
là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là vậy.
Nguyên tắc căn bản của bài học “lui binh” là phải có một lực lượng
hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến),
c̣n lực lượng lui binh th́ tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến),
ngoài ra phải được Không Quân quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa.
Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Ḥa lên, đoàn quân
triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn
v́ bị quân Việt cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy
Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả năng thực hiện kế hoạch phản
công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc
đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết v́ súng đạn,
chết v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa băi, chết v́
tranh nhau miếng ăn nước uống, chết v́ cướp giật, ..v..v..
Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những
tưởng bảo toàn được lực lượng gồm một phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh,
các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh,
Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công chiếm lại thủ phủ Ban Mê
Thuột, nhưng rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng rơi vào tay
quân cộng sản một cách nhẹ nhàng. Tôi nói “bỗng dưng”, v́ rút bỏ
Plei Ku từ đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà đến 3 giờ 15
phút chiều thứ tư 20/3/75 tín hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động. Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin
nói với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc đó quân cộng sản mới
tiến đến và phá hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân cộng
sản chưa chiếm nhưng v́ máy phát điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống
đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào trường hợp nào đi nữa, th́ rơ ràng
là quân cộng sản mà ḿnh tưởng nó bao vây hay sắp sửa bao vây Plei
Ku, nhưng thật ra chúng c̣n ở tận đâu đâu nên măi 4 ngày sau -đó là
thời gian sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, trong
khi những Sư Đoàn của chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông
Nam th́ khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt thoái hơn, do dó mà
thiệt hại của đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm
chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau đớn cho những người cầm súng,
nhất là những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư Lệnh đă
từng xông pha trận mạc. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, khi c̣n là sĩ quan
cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa, đă có tiếng là cấp chỉ huy can đăm, không lùi
bước bất kể chiến trận gay go nghiêng ngă như thế nào. Nay, với chức
vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá tầm lănh đạo chỉ
huy của ông không? Hay là quyền lực hoặc khả năng của ông bị điều ǵ
đó giới hạn? Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă tự tử ngay sau
ngày30/4/1975. Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài G̣n) vào ngày 2/5/1975
và chào tiễn biệt ông vào cơi vĩnh hằng giữa hoàn cảnh đau thương
của đất nước, dân tộc!
Năm 1960, trong thời gian tôi học tại Trường Đại Học Quân Sự (hậu
thân của Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi
đọc được một tập tài liệu, có nhận định rằng: “Trong chiến tranh
Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên miền Trung th́ người dó sẽ
nắm phần chiến thắng”. Chắc chắn rằng, những vị Tướng của chúng ta
đang nắm quyền lănh đạo quốc gia và lănh đạo quân đội đều biết tài
liệu đó, nhưng có thể các vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi tầm
tay chăng?
Ngược ḍng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954, Điện Biên Phủ do
13.000 quân của Pháp trấn giữ, đă thất thủ làm rúng động toàn bộ
quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và rúng động cả nước Pháp. Và
hiển nhiên là sự thất trận này đă đưa nước Pháp đến t́nh trạng mất
toàn bộ Đông Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20 năm sau
-tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản,
làm rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa. Và liệu sự
thất bại này có phải là nguyên nhân dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng
Ḥa vào tay quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù ǵ đi
nữa th́ sự thể đă là như vậy rồi!
T́nh trạng hỗn loạn bi đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường
liên tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính, cũng là khởi đầu
cho sự hỗn loạn trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1,
2, 3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân,
Hải Quân, Không Quân, dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị , Huế, Đà
Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên,
Khánh Ḥa, Cam Ranh.
Trước ngày cuối tháng 3/1975, th́ từ Quảng Trị đến Cam Ranh đều bỏ
ngỏ. Tôi nói “bỏ ngỏ” v́ không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư
Đoàn, Quân Đoàn nào, pḥng thủ chống lại quân cộng sản, hoặc nếu có
chống trả như Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng cũng chỉ trong
thời gian ngắn ngủi là rút lui, c̣n lại là rút đi trước khi quân
cộng sản đến!
Trong số những vị Tướng Tư Lệnh đại đơn vị thuộc Quân Đoàn I và Quân
Đoàn II rút khỏi khu trách nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi về
thái độ của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân
khu I. Tôi được tiếp xúc với ông qua những công tác “chống đảo
chánh” từ năm 1965 khi ông là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính v́
hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong cuộc tấn công của quân
cộng sản hồi Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và nhất là trong khuôn
viên thành nội, nơi có bản doanh cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1 Bộ
Binh đồn trú, đă bị chúng chiếm giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ,
Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn
này. Cuộc phản công chiếm lại từng khu vực trong thành nội Huế rất
cam go với tổn thất đáng kể, Chuẩn Tướng Trưởng đă chứng tỏ quyết
tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất cũng phải đánh bật chúng ra
khỏi Huế trong thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm chỉnh ở chân
cột cờ với lễ phục và huy chương biểu tượng cho các chiến công của
ông, Chuẩn Tướng Trưởng đă kêu gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền
ông hăy v́ danh dự và trách nhiệm đối với tổ quốc dân tộc. Qua lời
kêu gọi đầy trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là quyết
tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ chiến đấu, đă thúc đẩy cuộc phản
công của Sư Đoàn đến chiến thắng vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành
quân phản công này, có sự chiến đấu yểm trợ của quân lực Hoa Kỳ,
nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là lực lượng chính.
‘Mùa Hè Đỏ Lửa’ năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đă thăng
cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân khu IV vùng đồng bằng Cửu
Long, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn
I/Quân Khu I và tức tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức. Một vị
Tướng như thế, tôi nghĩ, ông không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng
sản gần như êm thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh chủng này là một trong những binh
chủng rất ĺ với chiến trận. Nhưng sự thể đă diễn ra như vậy, ắt
phải có điều ǵ đằng sau quyết định rút bỏ thành phố cảng quan trọng
của miền Trung. Và chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể
hiểu đến tận cùng điều ấy mà thôi.
Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở
Houston, bạn tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân
Lục Chiến, và Sư Đoàn này đặt dưới quyền sử dụng dài hạn của Quân
Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời
thuật của cựu Đại Tá Trí về những ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc
anh và bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu vực
Non Nước, Đà Nẳng:
‘’Khoảng 5 giờ chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn
công vào Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà Nẳng, và chỉ vài giờ chống
trả là Sư Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn của Thủy Quân Lục
Chiến, và các đơn vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân Lục Chiến).
Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đă rời
khỏi Sư Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt Nam) từ lúc chiều.
Nhưng trước khi đi ông có đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin
quyết định v́ t́nh h́nh rất nghiêm trọng, nhưng Trung Tướng Trưởng
không nói ǵ cả. Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông
Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có mang theo máy vô tuyến
cầm tay loại nhỏ và chốc chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở đâu
đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rơ. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói
với tôi rằng: Ông Tổng Lănh Sự khuyên ổng (tức Thiếu Tướng Lân) nên
bảo toàn lực lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói điều này với
Trung Tướng Trưởng.
‘’Khoảng nửa đêm 28 rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực thăng
xuống băi đáp bên cạnh, sĩ quan trực chạy ra đón và hướng dẫn phái
đoàn vào bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, gồm các
vị: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết
họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước
(cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không
Quân, Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa Thiên/Huế, và Đại
Úy sĩ quan tùy viên của Trung Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi
Trung Tướng Trưởng liên lạc với các đơn vị và được biết đă rút lui
an toàn (tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng nói với các sĩ quan
cùng đi theo ông:
- Bây giờ th́ các anh hăy tự thoát, c̣n tôi, tôi đi theo Thủy Quân
Lục Chiến-
‘’Trung Tướng Trưởng vừa nói xong th́ gần như cùng một lúc, Chuẩn
Tướng Khánh, Đại Tá Phước, Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng Trưởng
và lên trực thăng cất cánh ngay. Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975,
sĩ quan vào tŕnh tôi là chiến hạm đang tiến vào để đón các đơn vị
Thủy Quân Lục Chiến. Tôi đến tŕnh Trung Tướng Trưởng:
- Thưa Trung Tướng, tôi không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm đang
chờ đón tôi và các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên
đi với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng-
‘’Sau một lúc chần chừ như có ư không muốn rời Đà Nẳng, ông đứng dậy
cùng đi với tôi. Nhưng v́ chiến hạm không vào sát bờ được, cũng
không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến hạm, nên tất cả đều lội nước, và
khi mực nước lên đến ngực cũng là lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi
người lên chiến hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá Hường (Nguyễn Xuân
Hường), Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đă có mặt trên tàu. Chiến hạm lui
ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ như chờ lệnh hay chờ ai đó.
‘’Vài tiếng đồng hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan rời khỏi
bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đă
quay trở lại, không rơ là do thời tiết xấu hay v́ lư do ǵ đó, và cả
ba vị là Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá Duệ, cùng lội
nước ra chiến hạm. Vẫn là chiến hạm đang có Trung Tướng Trưởng trên
đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua sao mà thản nhiên quá, thản nhiên
đến mức không có vẻ ǵ có chút t́nh cảm đọng lại trong giây phút
chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời của Phạm Bá Hoa: thuật
chuyện đến đây đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rơ ràng là
anh đang xúc động!)
Sau phút im lặng v́ xúc động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí thuật
tiếp:
‘’Tôi nhờ ông Hạm Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía trước hầu tránh cho
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng trông thấy e không đẹp ḷng nhau. Măi
đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam
Ranh. Giữa chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân giữ liên lạc vô tuyến
chặt chẻ, nên khi chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh th́ nhận được công
điện của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó th́ Tổng Thống ra lệnh
cho tất cả lên bờ, chỉ riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên chiến hạm
và về Sài G̣n ngay. Tôi thắc mắc nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài
G̣n ngay th́ tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu không cho phi
cơ ra Cam Ranh đón mà lại bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng Trưởng
nói là ông đi theo Thủy Quân Lục Chiến chớ không về Sài G̣n. Đến khi
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II một đại đơn vị hầu
như đă tan ră sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ Nha Trang
vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên về Sài G̣n theo lệnh Tổng
Thống. Và Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I đă theo
chiến hạm về Sài G̣n’’.
Đến đây là hết lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí, Tư Lệnh
Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Với lời thuật trên đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng: rất có thể
là các vị Tư Lệnh tại Quân Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù,
Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng Hải Quân, Không Quân, và cũng có
thể ngay cả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I, đă
nhận được lời khuyên ‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu Tướng Bùi Thế
Lân đă nhận của ông Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng nên? Không
chừng chiến hạm vào gần bờ để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng từ ‘lời
khuyên’ của ông Tổng Lănh Sự nữa chăng! V́ rơ ràng là cựu Đại Tá Trí
không hề biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải chăng với ‘lời
khuyên’ đó đă dẫn đến các vị có quân có quyền trong tay lần lượt rời
khỏi đơn vị hoặc chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này tôi không rơ,
nhưng có điều quí vị đều rơ là Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào
tay quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ở Plei
Ku vậy!
Tối ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc cưới tại Washington DC,
chúng tôi ngồi chung bàn với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và cựu
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tôi có ư định hỏi Trung Tướng Trưởng về
điều thắc mắc của tôi, nhưng v́ cựu Phó Đề Đốc Thoại lại đưa vấn đề
cuộc đảo chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi măi nóí chuyện với
ông, để rồi cuối cùng không c̣n th́ giờ xin lời tâm sự từ cựu Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng.
Bây giờ xin mời quí vị quay nh́n vào số lượng đồng bào chạy loạn
được các loại tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và đưa ra đảo Phú
Quốc tạm trú. Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá,
nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số đồng bào chạy loạn này do Bộ
Xă Hội phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải quyết chung.
Bộ Xă Hội yêu cầu Tổng Cục Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000
phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung cấp cho đồng bào. Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xă Hội. Tôi điện thoại lên
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng
Trần Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này:
- Hoa đây Anh. Có việc này xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được-
Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với Thiếu Tướng Trần Bá Di, v́
chúng tôi thân nhau từ lâu.
- Việc ǵ mà coi bộ quan trọng vậy anh?
- Tại Phú Quốc hiện có khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền
Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xă Hội nhờ quân đội nấu cơm , vắt lại
từng vắt, và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào.
Chuyện này là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo th́ Bộ Xă Hội cung cấp.
Anh liệu Trung Tâm có thể giúp được không?
- Được chớ. Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào th́ tụi tôi nấu?
- Ngay hôm nay. để mai là chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội nhận
giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và mai chúng tôi chở gạo
đến Anh đủ một tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay.
- Xin cám ơn Anh -
- Cái ǵ mà anh cám ơn. Mỗi người mỗi đơn vị phải góp phần trách
nhiệm của ḿnh chớ anh -
Thế là từ hôm ấy, cơm vắt được đưa ra Phú Quốc bằng phi cơ phi cơ
tiếp tế cho đồng bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi t́nh h́nh ngày càng
xấu thêm ./.
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh