Viết cho những ai xem nhẹ lá cờ vàng, hăy
đọc và suy ngẫm:
Sau năm 1975, đồng bào Việt Nam ở hải ngoại đă nhiều lần nghe những
ư kiến phát biểu bằng lời nói hay bằng những bài báo về quốc kỳ và
quốc ca Việt Nam. Trong những dữ kiện và ư kiến được tŕnh bày, có
cái không đúng sự thật, có cái đúng sự thật nhưng gây ra một số thắc
mắc và hoang mang. Viết bài này, tác giả chỉ có mục đích tŕnh bày
một số dữ kiện lịch sử xác thật về quốc kỳ và quốc ca Việt Nam và
đánh tan những luận điệu có thể làm cho người quốc gia Việt Nam thắc
mắc và hoang mang về lá quốc kỳ và bài quốc ca của chúng ta.
I. QUỐC KỲ VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC KỲ TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Việc dùng một mảnh hàng hay vải có màu sắc và
h́nh thức nhứt định để biểu tượng cho một nhơn vật, một gia tộc lănh
đạo hay một cộng đồng chánh trị đă có từ ngàn xưa. Trong các cuộc
giao tranh dữ dội trên các băi chiến trường cổ kim, binh sĩ hai bên
đối đầu nhau đều lấy cờ của bên ḿnh làm điểm hội tập và đều tận lực
tranh đấu, thường khi phải hy sinh cả tánh mạng để bảo vệ nó. Trong
lịch sử quân sự của mọi cộng đồng chánh trị, việc cắm được cờ của
ḿnh trên đất địch hay cướp đoạt được cờ của quân lực địch đều được
xem là một chiến công rạng rỡ. Tuy nhiên, trước cuộc Cách Mạng Pháp
năm 1789, phần lớn các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ,
hoặc là quân chủ chuyên chế trong đó chỉ có một nhà vua nắm trọn
quyền lănh đạo và được xem là sở hữu chủ duy nhứt của quốc gia, hoặc
là quân chủ phong kiến trong đó bên dưới nhà vua c̣n có những nhà
quí tộc làm chủ các lănh địa, và có khi có những thị xă tự trị trong
đó quyền điều khiển thuộc một nhóm người hào phú địa phương. Một số
cộng đồng chánh trị nhỏ thời đó đă theo chế độ cộng ḥa hay dân
quốc. Với chế độ này, quyền lănh đạo cộng đồng thuộc về một vài thế
gia cự tộc. Các cộng đồng chánh trị kể trên đây đều độc lập hoàn
toàn hay phải tùy thuộc một cộng đồng chánh trị lớn hơn đều có lá cờ
làm biểu hiệu cho ḿnh. Nhưng v́ cộng đồng được xem là vật sở hữu
của một gia tộc hay một thiểu số gia tộc lănh đạo nên lá cờ của cộng
đồng cũng được xem như là lá cờ của gia tộc hay các gia tộc đó. Ư
niệm quốc kỳ biểu tượng cho toàn thể quốc dân chỉ mới xuất hiện với
cuộc Cách Mạng Pháp năm 1789. Với cuộc cách mạng này, quốc gia không
c̣n được xem là vật sở hữu của một gia tộc, mà là vật sở hữu chung
của toàn thể mọi ngưoi sống trong cộng đồng. Hệ luận của quan niệm
mới này là lá cờ một nước không c̣n là biểu tượng của gia tộc lănh
đạo, mà là biểu tượng của toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ
ngữ drapeau national để chỉ loại cờ này. Quan niệm của người Pháp
lần lần được người các nước khác chấp nhận và người thuộc các dân
tộc nói tiếng Anh đă dùng từ ngữ national flag khi nói đến lá cờ của
ḿnh. Drapeau national của Pháp và national flag theo tiếng Anh đă
được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc kỳ. Về mặt thực hiện cụ
thể th́ lá quốc kỳ đầu tiên trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp gồm
ba màu xanh, trắng, đỏ, xếp ngang nhau theo thứ tự kể trên đây. Sự
h́nh thành của lá cờ này là kết quả của một sự thương lượng giữa
hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xă Paris. Lá cờ tiêu biểu cho hoàng
gia Pháp từ nhiều đời vốn nền trắng trên có thêu một hoa huệ màu
vàng. Thời quân chủ Pháp, Paris là một thị xă được hưởng quyền tự
trị và có lá cờ riêng gồm hai màu xanh và đỏ xếp ngang nhau. Khi
người dân Paris nổi lên làm cách mạng đ̣i hỏi chánh quyền cải tổ chế
độ, họ vẫn c̣n chấp nhận nền quân chủ. Nhà vua Pháp lúc đó là Louis
XVI một mặt v́ nhu nhược, một mặt v́ thiếu phương tiện nên không
dùng vơ lực đối phó một cách quyết liệt với phong trào cách mạng và
chịu chấp nhận các yêu sách của nhơn dân Paris. Do đó, hai bên đă
đồng ư nhau lấy cờ của hoàng gia và cờ của thị xă Paris trộn lại làm
huy hiệu cho nước Pháp. Nhà vua là quốc trưởng nắm quyền Hành Pháp
nên màu trắng của cờ hoàng gia được đặt ở giữa, hai màu xanh đỏ của
cờ thị xă Paris được ghép hai bên thành một huy hiệu tam sắc. Huy
hiệu này lần lần được phổ biến khắp nơi trong nước, và đến năm 1793,
Quốc Ước Hội Nghị đă chánh thức biểu quyết lấy cờ tam sắc làm quốc
kỳ cho nước Pháp. Phải nói rằng về mặt thẩm mỹ, cờ tam sắc này rất
đẹp. Mặt khác, Cách Mạng Pháp thời đó lấy làm tiêu ngữ ba khẩu hiệu
Liberté – Égalité – Fraternité là Tự Do – B́nh Đẳng – Bác Ái. Ba màu
của quốc kỳ Pháp được xem là tiêu biểu cho ba tiêu ngữ trên đây: màu
xanh tiêu biểu cho Tự Do, màu trắng tiêu biểu cho B́nh Đẳng và màu
đỏ tiêu biểu cho Bác Ái. Cờ tam sắc của Pháp đă đẹp mà c̣n được giải
thích một cách đầy đủ ư nghĩa tượng trưng rất phù hợp với lư tưởng
chung của nhơn loại nên quốc dân Pháp đă nhiệt liệt hoan nghinh nó
và chấp nhận nó làm biểu tượng cho ḿnh. Về sau, nhiều nước Tây
Phương khác chịu ảnh hưởng của Cách Mạng Pháp đă chọn ba màu xanh,
trắng, đỏ, làm quốc kỳ với những giải thích hơi khác nhau, nhưng vẫn
dùng ba màu này làm tiêu biểu cho các lư tưởng tự do, b́nh đẳng và
bác ái là nền tảng chung của các xă hội dân chủ tự do.
B. CÁC LÁ CỜ ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC KỲ
1. Quốc kỳ xuất hiện đầu tiên: cờ long tinh của Hoàng Đế Bảo
Đại Ở Việt Nam trước đây cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác,
các lá cờ được dùng để biểu tượng cho một nhà lănh đạo. Hiệu kỳ của
một vị tướng cầm đầu một đạo quân thường có màu phù hợp với mạng của
vị tướng đó: người mạng kim th́ cờ màu trắng, người mạng mộc th́ cở
màu xanh, người mạng thủy th́ cờ màu đen, người mạng hỏa th́ cờ màu
đỏ, người mạng thổ th́ cờ màu vàng. Màu cờ của các triều đại th́
được các nhà sáng lập chọn lựa theo sự tính toán dựa vào thuyết của
học phái Âm Dương Gia nghiên cứu về sự thạnh suy của ngũ hành lưu
chuyển trong vũ trụ sao cho triều đại ḿnh hợp với một hành đang
hưng vượng. Ngoài cờ chung của triều đại, mỗi nhà vua đều có thể có
lá cờ riêng của ḿnh. Nhưng các lá cờ này chỉ để biểu tượng cho
hoàng gia. Về ư niệm quốc kỳ biểu tượng cho cả dân tộc Việt Nam, nó
chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân Pháp.
Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn chưa
có quốc kỳ. Lúc ấy, Nam Việt (được gọi là Nam Kỳ) là thuộc địa Pháp
và phải dùng cờ tam sắc của Pháp, Bắc Việt và Trung Việt (được gọi
là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) trên lư thuyết là lănh thổ của nhà Nguyễn.
Các nhà vua Việt Nam thời đó đều có lá cờ biểu tượng cho ḿnh như
thời c̣n độc lập, nhưng cờ này chỉ được treo nơi nào có nhà vua ngự
đến chớ không phải ở mọi nơi trong nước và dĩ nhiên không có tánh
cách một quốc kỳ. Măi đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn
định quốc kỳ đầu tiên. Nguyên lúc đó, người Pháp đă thua Đức và rất
suy kém. Họ không c̣n đủ quân lực để bảo vệ các thuộc địa xa xôi.
Riêng ở Đông Dương th́ người Nhựt lợi dụng sự suy kém của Pháp đ̣i
quyền đem binh vào chiếm đóng đất này để lấy nó làm bàn đạp phong
tỏa phía nam Trung Quốc và tiến đánh Đông Nam Á Châu với dụng ư
chinh phục cả Á Châu. Chánh phủ Pháp không thể từ chối lời đ̣i hỏi
của Nhựt và viên Toàn Quyền thời đó là Đề Đốc Decoux có nhiệm vụ
phải chịu hợp tác với quân chiếm đóng Nhựt, đồng thời cố gắng đến
tối đa để bảo vệ quyền lợi Pháp ở Đông Dương. Ư thức rằng chánh sách
thực dân Pháp trước Thế Chiến II làm bất măn người Việt Nam mọi
giới, Toàn Quyền Decoux đă áp dụng một chánh sách hai mặt: một mặt
triệt để đàn áp các phần tử cách mạng chống Pháp, một mặt xoa dịu
người Việt Nam nói chung. Trong khuôn khổ của mặt thứ nh́ trong
chánh sách này, ông đă có những biện pháp nâng cao uy tín của các
nhà vua Đông Dương. Hoàng Đế Bảo Đại nhơn cơ hội này đă đưa ra một
vài cải cách và ban chiếu ấn định quốc kỳ của nước Đại Nam. Quốc kỳ
này tên là cờ long tinh, nền vàng với một sọc đỏ nằm vắt ngang ở
giữa, bề ngang của sọc đỏ này bằng 1/3 bề ngang của cả lá cờ. Cờ
long tinh được dùng trên lănh thổ Đại Nam, nghĩa là ở Bắc Kỳ và
Trung Kỳ, v́ Nam Kỳ lúc đó vẫn là thuộc địa Pháp và vẫn phải dùng lá
cờ tam sắc của Pháp.
2. Quốc kỳ thứ nh́: cờ quẻ Ly của chánh phủ Trần Trọng Kim
Chánh quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương đă bị quân đội Nhựt lật đổ
ngày 9 tháng 3 năm 1945. Hai ngày sau, Hoàng Đế Bảo Đại tuyên bố độc
lập. Chánh phủ độc lập đầu tiên được thành lập ngày 17 tháng 4 năm
1945 do nhà học giả Trần Trọng Kim cầm đầu. Quốc hiệu được đổi là Đế
Quốc Việt Nam và theo chương tŕnh hưng quốc được chánh phủ Trần
Trọng Kim ban bố ngày 8 tháng 5 năm 1945 th́ quốc kỳ được chọn gọi
là cờ quẻ Ly. Cờ này cũng nền vàng, ở chính giữa có một quẻ Ly màu
đỏ. Ly là một trong 8 quẻ của bát quái và gồm một vạch liền, một
vạch đứt và một vạch liền, bề rộng của các vạch này chỉ bằng một
phần bề rộng chung của lá cờ. Cờ quẻ Ly trên nguyên tắc là cờ của cả
nước Việt Nam gồm có ba kỳ. Nhưng trong thực tế, nhà cầm quyền quân
sự Nhựt đă không trao trả Nam Kỳ ngay cho triều đ́nh Huế. Việc trao
trả này chỉ thực hiện ngày 14 tháng 8 năm 1945, nghĩa là 4 ngày sau
khi chánh phủ Nhựt quyết định đầu hàng Đồng Minh và 10 ngày trước
khi Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị. Do đó, đại diện của triều đ́nh Huế
chưa bao giờ được thật sự cầm quyền ở Nam Việt và cờ quẻ Ly đă không
được dùng ở đó. Trong thời gian từ ngày Nhựt đảo chánh Pháp cho đến
khi Việt Minh củng cố được chánh quyền cộng sản ở Nam Việt th́ cả
lănh thổ này không có quốc kỳ. Lá cờ là điểm hội tập các phần tử
quốc gia Nam Việt quyết tâm tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam
thời đó là cờ của Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức được thành lập
ngày 21 tháng 4 năm 1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, để giúp vào
việc cứu trợ những nạn nhơn của các cuộc oanh tạc của Đồng Minh và
sau đó, tiếp tay vào việc giúp đỡ đồng bào miền Bắc bị nạn đói. Cờ
của Thanh Niên Tiền Phong nền vàng, chính giữa có ngôi sao đỏ. Nó
không hề được xem là quốc kỳ, nhưng v́ nó là cờ huy động các thanh
niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn đứng lên tranh đấu với
Quân Đội Viễn Chinh Pháp đến xâm chiếm Nam Việt trở lại nên tôi thấy
có nhiệm vụ phải nhắc đến nó trong bài khảo cứu này về các lá cờ đă
được dùng ở Việt Nam.
3. Cờ đỏ sao vàng của tập đoàn Cộng Sản Việt Nam (CSVN) Khi cướp
chánh quyền ở Bắc Việt hồi tháng 8 năm 1945, tập đoàn CSVN dưới tên
Việt Minh đă dùng cờ đỏ sao vàng. Cờ này sau đó được họ dùng ở những
nơi họ chiếm đoạt được và cho đến nay, vẫn được họ tiếp tục xem là
quốc kỳ.
4. Cờ của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc Khi chiếm lại được các thành phố lớn
ở Nam Việt, chánh quyền Pháp đă khuyến khích phong trào Nam Kỳ tự
trị. Ngày 26 tháng 3 năm 1946, họ đă cho thành lập Nam Kỳ Cộng Ḥa
Quốc, tên Pháp là République de Cochinchine và Cộng Ḥa Quốc này đă
có một quốc kỳ nền vàng, với 5 sọc vắt ngang ở giữa gần như quốc kỳ
của ta hiện tại, nhưng thay v́ ba sọc đỏ và hai hai sọc vàng như
quốc kỳ của ta, nó gồm ba sọc xanh và hai sọc trắng chen nhau. Xét
về mặt thẩm mỹ, cờ này rất khó coi. Bởi đó, trong những bài trào
phúng trong báo Đuốc Việt là cơ quan ngôn luận bán chánh thức của Xứ
Bộ Nam Việt Đại Việt Quốc Dân Đảng lúc ấy, tôi đă đặt cho nó cái
biệt danh là lá cờ sốt rét.
5. Quốc kỳ của chúng ta hiện nay Quốc kỳ của chúng ta hiện nay do
một họa sĩ nổi tiếng thời Thế Chiến II là Lê Văn Đệ vẽ và đă được
Cựu Hoàng Bảo Đại chọn trong nhiều mẫu cờ khác nhau được tŕnh cho
ông trong một phiên họp ở Hongkong năm 1948, gồm có ông và đại diện
các đoàn thể chánh trị và tôn giáo cùng một số thân hào nhơn sĩ về
phía người quốc gia Việt Nam. Như mọi người đều biết, nó có nền vàng
với ba sọc đỏ và hai sọc vàng chen nhau nằm vắt ngang ở giữa, bề
ngang của mỗi sọc đỏ và vàng này bằng nhau và bề ngang chung của năm
sọc bằng 1/3 bề ngang chung của lá cờ. Cờ vàng ba sọc đỏ đă được
dùng làm quốc kỳ cho quốc gia Việt Nam khi chánh phủ lâm thời Việt
Nam được thành lập ngày 2 tháng 6 năm 1948 dưới sự chủ tọa của Tướng
Nguyễn Văn Xuân. Nó đă tiếp tục được dùng suốt thời Đệ Nhứt và Đệ
Nhị Cộng Ḥa Việt Nam, cho đến ngày nay.
C. Ư NGHĨA CỦA LÁ CỜ ĐĂ ĐƯỢC DÙNG LÀM QUỐC KỲ
Trong các lá cờ mô tả trên đây, cờ vàng sao đỏ
không hề được xem là quốc kỳ, cờ sốt rét của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc
chỉ là cờ của một chánh phủ bù nh́n dùng trên bộ phận của nước Việt
Nam. Vậy, đúng danh nghĩa quốc kỳ chỉ có bốn lá cờ: cờ long tinh, cờ
quẻ Ly, cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN và cờ vàng ba sọc đỏ của
người quốc gia Việt Nam. Lúc cờ vàng ba sọc đỏ ra đời, một số người
đă gọi chung bốn lá cờ trên đây là cờ tứ linh: cờ long tinh dĩ nhiên
là cờ long, chữ ly trong cờ quẻ Ly đồng âm với ly là con lân, cờ của
tập đoàn CSVN được xem là qui v́ nó có ngôi sao 5 nhánh y như con
rùa ló đầu và bốn chơn ra và quốc kỳ của chúng ta là phụng v́ nó có
ba sọc đỏ nằm song song nhau như đuôi chim phụng.
1. Ư nghĩa và màu sắc của bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Điều đáng
để ư là cả bốn lá cờ được dùng làm quốc kỳ Việt Nam đều gồm hai màu
vàng và đỏ. Tuy nhiên, màu sắc của lá cờ CS nền đỏ sao vàng có ư
nghĩa hoàn toàn khác ba lá cờ về phía người quốc gia Việt Nam.
a. Ư nghĩa lá cờ đỏ sao vàng của tập đoàn CSVN Đảng kỳ của Cộng Sản
Đệ Tam Quốc nền đỏ trên có búa và liềm màu vàng. Quân Đội Cộng Sản
Nga lúc nổi lên cướp chánh quyền th́ lấy ngôi sao đỏ làm biểu hiệu.
Quốc kỳ của Liên Sô gồm huy hiệu của Đảng và Quân Đội nên cũng nền
đỏ trên có búa liềm vàng và ngôi sao đỏ. Nhưng muốn cho ngôi sao đỏ
hiện được trên nền đỏ của lá cờ, Cộng Sản Liên Sô đă phải dùng một
viền màu vàng bao quanh nó. CSVN đă phỏng theo cờ Liên Sô để làm
quốc kỳ. Nhưng năm 1945, họ c̣n phải giấu tánh chất cộng sản của họ
nên không dám để búa liềm trên quốc kỳ này và chỉ dùng ngôi sao
tượng trưng cho quân lực cộng sản. Điểm khác với Liên Sô là ngôi sao
tượng trưng cho quân lực CSVN màu vàng chớ không phải màu đỏ viền
vàng. Chúng ta không nên quên rằng hai điều căn bản trong điều lệ
của Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế do Lenin thành lập là người tuyên
thệ vào đảng này phải xem Liên Sô là tổ quốc số một của ḿnh và phải
triệt để tuân lịnh cơ quan lănh đạo của Đảng đặt tại Liên Sô. Lấy cờ
đỏ sao vàng làm quốc kỳ, Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN đă biểu lộ ư
muốn xem lực lượng quân sự Việt Nam là một lực lượng phụ dịch cho
Quân Đội Liên Sô, và như vậy th́ dĩ nhiên nước Việt Nam Cộng Sản
phải là một nước chư hầu của Liên Sô. Ư muốn này đă được thực hiện
hoàn toàn sau năm 1975. Lúc CSVN chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hoa
Kỳ đă rút lực lượng quân sự khỏi Đông Nam Á Châu và sẵn sàng bắt tay
với họ. Trung Cộng tuy không c̣n là thân hữu và có những hành động
chống đối họ, nhưng không có sự uy hiếp quân sự đáng kể. Nếu CSVN
giữ thái độ trung lập giữa Trung Cộng và Liên Sô, đồng thời tỏ ra
ḥa hoăn với Hoa Kỳ, họ đă có thể nhờ sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để phát
triển kinh tế và dựa vào cả Hoa Kỳ lẫn Liên Sô để hóa giải áp lực
Trung Cộng. Nhưng tập đoàn CSVN đă công khai đứng về phía Liên Sô để
gây hấn với Trung Cộng và cho Liên Sô dùng Việt Nam làm một căn cứ
quân sự chống lại Trung Cộng, đồng thời uy hiếp lực lượng Hoa Kỳ ở
Thái B́nh Dương. Hiện nay, mọi người đều thấy rơ nước Việt Nam Cộng
Sản là một chư hầu của Liên Sô và lực lượng quân sự của CSVN chỉ là
lực lượng phụ dịch của Hồng Quân Liên Sô. Tuy những điều kể trên đây
chỉ mới thể hiện sau này, nhưng ư đồ của tập đoàn CSVN đă biểu lộ
ngay từ lúc họ lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Vậy, cờ đỏ sao vàng
là biểu tượng của tinh thần vọng ngoại chấp nhận làm thuộc hạ của
Liên Sô. Nó hàm ư để cho Liên Sô có quyền can thiệp vào nội bộ Việt
Nam. Đối với những ai cho rằng Đảng Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế đă bị
giải tán năm 1943 nên Liên Sô không có quyền can thiệp vào việc nội
bộ các nước cộng sản chư hầu, chúng tôi xin nhắc lại rằng Ông
Brezhnev, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Liên Sô khi biện minh cho việc
Liên Sô can thiệp vào việc nội bộ của các nước cộng sản Đông Âu
trong thập niên 1960 đă công khai nêu trước cộng đồng thế giới
thuyết chủ quyền hạn chế theo đó một nước xă hội chủ nghĩa đàn anh
(tức là Liên Sô) có quyền can thiệp vào việc nội bộ của các nước xă
hội chủ nghĩa đàn em (trong đó dĩ nhiên là có Việt Nam) để bảo vệ
các nguyên lư của xă hội chủ nghĩa.
b. Ư nghĩa của màu vàng và màu đỏ của những quốc kỳ về phía người
quốc gia Màu vàng và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia th́
có một ư nghĩa hoàn toàn khác. Theo một số người Việt Nam, hai màu
của các quốc kỳ về phía người quốc gia biểu tượng cho dân Việt Nam
da vàng máu đỏ. Tư tưởng này có lẽ đă bị ảnh hưởng ít nhiều lối giải
thích về ư nghĩa lá cờ nửa vàng nửa đỏ mà Việt Nam Quốc Dân Đảng đă
dùng trong cuộc khởi nghĩa Yên Báy năm 1930. Nhưng lối giải thích
trên đây không đúng đối với các quốc kỳ Việt Nam về phía người quốc
gia. Các quốc kỳ này thật sự có một ư nghĩa sâu sắc hơn, liên hệ đến
cả vũ trụ quan của dân tộc Việt Nam. Trong vũ trụ quan này, có sự
liên hệ mật thiết giữa các màu sắc, phương hướng và ngũ hành. Màu
vàng thuộc hành thổ và ở vị trí trung ương. V́ thế, nó vừa tượng
trưng lănh thổ, vừa tượng trưng cho uy quyền của nhà lănh đạo tối
cao được xem là sở hữu chủ của lănh thổ này. Các nhà vua Trung Hoa
xưa kia cho ḿnh là kẻ làm chủ cả thiên hạ. Bởi đó, họ tự xưng là
hoàng đế đứng trên các vị quốc vương làm vua một nuớc, và nắm giữ
độc quyền dùng màu vàng làm y phục. Các nhà vua Việt Nam xưa kia v́
thế yếu hơn các nhà vua Trung Hoa và không muốn có những cuộc chiến
tranh liên miên với họ chỉ v́ vấn đề danh phận nên đă phải chấp nhận
làm chư hầu của hoàng đế Trung Hoa với tước hiệu quốc vương. Nhưng
trái với các nhà vua Triều Tiên dùng tước hiệu quốc vương trong mọi
trường hợp và không bao giờ dám mặc y phục màu vàng, các nhà vua
Việt Nam chỉ dùng tước hiệu quốc vương trong sự giao thiệp với Trung
Quốc, c̣n đối với thần dân trong nước và đối với các nước láng giềng
khác, họ đă tự xưng là hoàng đế. Mặt khác, họ đă mặc y phục màu vàng
y như nhà vua Trung Hoa. Như thế, trong tâm thức tự ngàn đời của dân
tộc Việt Nam, việc dùng màu vàng là biểu tượng cho một chủ quyền
nguyên vẹn của quốc gia, một nền độc lập hoàn toàn đối với Trung
Quốc. Cũng trong vũ trụ quan Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu
đỏ thuộc hành hỏa và chỉ phương nam. Do đó, dùng màu đỏ làm biểu
tượng là nhấn mạnh trên chỗ dân tộc ta là một dân tộc ở phương nam,
đối chiếu với dân tộc Trung Hoa ở phương bắc. Cùng với việc dùng màu
vàng, nó nói lên quan điểm của người Việt Nam tự xem ḿnh là một dân
tộc nắm trọn chủ quyền của nước ḿnh và ngang hàng với dân tộc Trung
Hoa. Quan điểm trên đây đă được Nguyễn Trăi nêu ra rất rơ trong đoạn
đầu của bài B́nh Ngô Đại Cáo: “Như ngă Đại Việt chi quốc, thực vi
văn hiến chi bang. Sơn xuyên chi cương vực kư thù, Nam Bắc chi phong
tục diệc dị. Tự Triệu Đinh Lư Trần chi triệu tạo ngă quốc, dữ Hán
Đường Tống Nguyên nhi các đế nhứt phương”. Ư nghĩa chánh xác của
đoạn văn trên này là: “Như nước Đại Việt ta quả là một nước văn
hiến. Bờ cơi núi sông (của nước ta và Trung Quốc) đă phân biệt nhau
mà phong tục (của chúng ta là) dân phương nam cũng khác với phong
tục (của người Trung Hoa là) dân phương bắc. Từ nhà Triệu, nhà Đinh,
nhà Lư, nhà Trần xây dựng nước ta, (các vua ta đă cùng các vua Trung
Quốc của) nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên mỗi bên đều làm
hoàng đế một phương.” Trong bài này, chúng ta có thể nhận thấy rằng
Nguyễn Trăi đă xem nhà Triệu là một triều đại Việt Nam, mặc dầu theo
phần lớn các sử gia hiện tại, đó là một triều đại do người Trung Hoa
thành lập. Như thế là v́ Triệu Đà là người đầu tiên áp dụng nguyên
tắc nhận làm chư hầu của Trung Hoa để tránh việc tranh chiến, nhưng
bên trong nước, vẫn tự xưng là hoàng đế, nghĩa là tự xem ḿnh ngang
hàng với nhà vua Trung Hoa. Dầu quan điểm của chúng ta đối với nhà
Triệu như thế nào th́ lập trường chung của dân tộc Việt Nam về sự
độc lập hoàn toàn và chủ quyền nguyên vẹn của quốc gia cũng đă được
nêu rơ trong bài B́nh Ngô Đại Cáo và được thể hiện rơ rệt với hai
màu vàng và đỏ dùng trong các quốc kỳ được phía người quốc gia chọn
lựa. Vậy, hai màu vàng và đỏ của các quốc kỳ này khác hẳn ư nghĩa
của cờ đỏ sao vàng được tập đoàn CSVN dùng làm quốc kỳ. Hai màu vàng
và đỏ của các quốc kỳ về phía người quốc gia đặt nền tảng trên bài
B́nh Ngô Đại Cáo, một bản văn được một nhà ái quốc Việt Nam viết lên
sau khi nước ta được giải phóng khỏi ách đô hộ của người Trung Hoa
và biểu lộ tinh thần độc lập của dân tộc. Trong khi đó, cờ đỏ sao
vàng của tập đoàn CSVN biểu lộ tinh thần nô lệ, thần thuộc nước
ngoài v́ đặt nền tảng trên nguyên tắc tổ chức của Cộng Sản quốc tế
ngày nay được nêu rơ trong thuyết chủ quyền hạn chế của nhà lănh tụ
Liên Sô Brezhnev, theo đó, Liên Sô có quyền can thiệp vào việc nội
bộ của các nước theo xă hội chủ nghĩa để bảo vệ chế độ xă hội chủ
nghĩa.
2. Ư nghĩa đặc biệt của cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ Ngoài ư nghĩa
chung về màu sắc nói trên đây, cờ quẻ Ly và cờ vàng ba sọc đỏ c̣n có
những ư nghĩa riêng cũng rất sâu sắc.
a. Ư nghĩa cờ quẻ Ly Như chúng tôi đă nói trên đây, Ly là một quẻ
của bát quái. Cũng như màu đỏ, nó tượng trưng cho phương nam. Trong
vũ trụ quan của Việt Nam và Trung Hoa thời trước, màu đỏ thuộc hành
hỏa, tượng trưng cho mặt trời hay lửa; quẻ Ly cũng tượng trưng cho
mặt trời, cho lửa, cho ánh sáng, cho nhiệt lực và về mặt xă hội th́
tượng trưng cho sự văn minh. Về h́nh dạng th́ quẻ Ly trên cờ của
chánh phủ Trần Trọng Kim gồm một vạch đỏ liền, một vạch đỏ đứt và
một vạch đỏ liền. Do đó, bên trong quẻ Ly, hiện lên một nền vàng gồm
hai vạch liền và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Trong Hán văn,
đó là chữ Công. Chữ công này được dùng trong các từ ngữ công nhơn,
công nghệ để chỉ người thợ và nghề biến chế các tài nguyên để phục
vụ đời sống con người. Vậy, ngoài ư nghĩa văn minh rạng rỡ, quẻ Ly
c̣n hàm ư ca ngợi sự siêng năng cần mẫn và sự khéo léo của dân tộc
Việt Nam trong các ngành hoạt động sản xuất kỹ nghệ.
b. Ư nghĩa cờ vàng ba sọc đỏ
1/ Ư nghĩa chánh trị Trong lá quốc kỳ, nền vàng tượng trưng cho quốc
gia và dân tộc Việt Nam nói chung và ba sọc đỏ tượng trưng cho ba
kỳ. Vậy, ba sọc đỏ name trên nền vàng hàm ư là nước Việt Nam gồm cả
ba kỳ và dân tộc Việt Nam gồm người của cả ba kỳ. Ngày nay, sự thống
nhứt của quốc gia và dân tộc Việt Nam là một điều không ai phủ nhận
được nên người Việt Nam hiện tại không ư thức được sự gay go của
cuộc tranh đấu đ̣i thống nhứt trong thập niên 1940, nhứt là ở Nam
Việt. Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ kỳ có nghĩa là một phần đất của
một quốc gia chớ không hàm ư một lănh thổ biệt lập. Các từ ngữ Bắc
Kỳ, Nam Kỳ thật sự đă được triều đ́nh Huế dùng lúc nước Việt Nam
chưa bị người Pháp xâm lăng để chỉ hai địa phương của một quốc gia
thống nhứt. Sau khi xâm chiếm Việt Nam, người Pháp mới tách Nam Kỳ
ra khỏi lănh thổ Việt Nam, rồi dùng từ ngữ Trung Kỳ để chỉ phần đất
ở hai phía bắc và nam của kinh đô Huế. Nam Kỳ được Pháp trực tiếp
cai trị như một phần đất của Pháp. Bắc Kỳ và Trung Kỳ được xem là
lănh thổ của nhà Nguyễn chịu sự bảo hộ của Pháp, nhưng từ năm 1897,
Pháp lại ép nhà vua Việt Nam phải giao quyền đại diện ḿnh cho một
Thống Sứ Pháp thành ra Pháp đă can thiệp vào sự cai trị đất này một
cách trực tiếp hơn ở Trung Kỳ. Trong hệ thống tổ chức của Pháp trước
Thế Chiến II, ba kỳ của Việt Nam đă được xem như là ba lănh thổ biệt
lập. Sau Thế Chiến II, kế hoạch của Pháp là thành lập một Liên Bang
Đông Dương gồm 5 nước là ba kỳ của Việt Nam, Cam Bu Chia và Lào.
Trong 5 nước này, Nam Kỳ là đất mà Pháp tha thiết muốn nắm giữ dưới
quyền thống trị của ḿnh hơn hết v́ nó đă được họ trực tiếp cai trị
từ năm 1867, lại là phần đat thạnh vượng trù phú nhứt. Bởi đó, họ đă
nhứt định không chấp nhận một nước Việt Nam thống nhứt gồm cả ba kỳ.
Tháng 3 năm 1946, họ đă cho thành lập Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc. Thiểu số
người Việt Nam theo họ lúc đó đă chống lại quan niệm Việt Nam thống
nhứt một cách mạnh mẽ. Các phần tử quá khích trong nhóm này đă xem
đồng bào gốc Bắc Việt cư trú ở Nam Việt trong thời kỳ đó là người
của một nước địch và thường hành hung đối với các đồng bào ấy. Trong
các cuộc bố ráp hay chận đường xét giấy căn cước, họ thường bắt
người dân nói ba tiếng “Tân Sơn Nhứt”, người nào không nói đúng
giọng Miền Nam th́ bị họ đánh đập một cách tàn nhẫn. Sau mấy năm tác
chiến ở Đông Dương, người Pháp ư thức rằng họ không thể áp đặt ở
Việt Nam một chế độ thống trị theo khuôn khổ họ đặt ra. V́ cần dùng
sự giúp đỡ của Hoa Kỳ để có phương tiện tài chánh đối phó với CSVN,
họ phải chấp nhận điều kiện của Hoa Kỳ là nh́n nhận nền độc lập của
Việt Nam. Bởi đó, họ đă tiếp xúc và thương thuyết với Cựu Hoàng Bảo
Đại. Tuy nhiên, họ chỉ muốn cho Việt Nam hưởng một nền độc lập h́nh
thức, và thực quyền vẫn c̣n nằm trong tay họ. Mặt khác họ không chấp
nhận sự thống nhứt của Việt Nam và t́m mọi cách giữ riêng Nam Kỳ
dưới quyền cai trị trực tiếp của họ. Nhờ được Anh Nguyễn Tôn Hoàn từ
Trung Hoa về cho biết về t́nh thế và nhận chân rằng chỉ có Cựu Hoàng
Bảo Đại mới có thể đại diện cho người quốc gia Việt Nam trong cuộc
thương thuyết với Pháp nên Xứ Bộ Nam Việt của Đại Việt Quốc Dân Đảng
đă phát động phong trào đ̣i thi hành giải pháp Bảo Đại với một nước
Việt Nam độc lập và thống nhứt. Lúc ấy, người Pháp đă đàn áp phong
trào này ở Nam Việt một cách mạnh mẽ. Một số đồng chí của tôi trong
đó có Anh Dương Quang Tiếp (sau này phục vụ trong Quân Đội và trong
ngành cảnh sát với cấp bực đại tá và đă từ trần trong trại tù cộng
sản) đă bị Pháp bắt và đánh đập tàn nhẫn khi rải truyền đơn đ̣i thi
hành giải pháp Bảo Đại. Tuy được sự yểm trợ của Hoa Kỳ trong cuộc
thương thuyết, Cựu Hoàng Bảo Đại không nắm được ưu thế hoàn toàn đối
với Pháp v́ lúc đó, Trung Cộng đă thắng thế hơn Trung Hoa Dân Quốc
và CSVN có triển vọng được Trung Cộng giúp đỡ trong tương lai. Người
Pháp đă cho Cựu Hoàng Bảo Đại biết rằng nếu không thỏa thuận được
với ông, họ sẽ thương thuyết với Hồ Chí Minh. Nhận thấy thời gian
không thuận lợi cho ḿnh, Cựu Hoàng Bảo Đại đă phải nhượng bộ cho
Pháp về mặt độc lập, nghĩa là chấp nhận để cho Việt Nam ở trong Liên
Hiệp Pháp với những mối liên hệ chặt chẻ với Pháp, nhưng cương quyết
đ̣i Pháp phải nhận cho Việt Nam thống nhứt. Người Pháp đă phải
nhượng bộ ông về vấn đề này. Nhưng ngay đến lúc chánh phủ Pháp chấp
nhận cho Nam Kỳ được sáp nhập vào lănh thổ Việt Nam, đám thực dân ở
Nam Việt vẫn chưa chịu thua và nhiệt liệt chống lại việc ay. V́ Nam
Kỳ được xem là một lănh thổ của Pháp mà theo nền pháp lư của Pháp
th́ mọi quyết định liên hệ đến qui chế của đất này phải có sự chấp
thuận của một hội nghị địa phương tên là Hội Đồng Lănh Thổ Nam Kỳ
(Assemblée Territoriale de Cochinchine), thực dân Pháp đă dự liệu bỏ
ra một số tiền lớn để mua chuộc những người Pháp và người Nam Kỳ có
quốc tịch Pháp được bầu vào Hội Đồng đó biểu quyết chống lại việc
sáp nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam. Chúng tôi đă biết được kế
hoạch này và đă nhiệt liệt chỉ trích nó trên hai tờ báo Đuốc Việt
(cơ quan ngôn luận bán chánh thức của Xứ Bộ Nam Việt Đại Việt Quốc
Dân Đảng) và Thanh Niên (cơ quan ngôn luận chánh thức của một tổ
chức do Xứ Bộ này thành lập là Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn). Sự tố cáo
của chúng tôi làm cho người Pháp rất căm tức. Tướng Boyer de la Tour
du Moulin, Ủy Viên Cộng Ḥa Pháp ở Nam Kỳ lúc đó đă mời một đồng chí
của tôi là Anh Đỗ Văn Năng, Thủ Lănh Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn, đến
gặp ông và bảo rằng: “Xin ông nhớ cho rằng tôi là người Pháp có
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nước Pháp. Các hoạt động của đoàn thể
ông có hại cho quyền lợi này. Các ông phải chấm dứt nó hay ít nhứt
cũng giảm thiểu nó, nếu không, tôi buộc ḷng phải đối phó một cách
quyết liệt. Tôi sẽ rất tiếc nếu phải làm như vậy, v́ tôi lúc nào
cũng tôn trọng ông là người mà tôi nh́n nhận là rất đứng đắn”. Anh
Đỗ Văn Năng đă điềm tĩnh trả lời: “Tôi rất cám ơn ông đă tỏ ra thành
thật với tôi, và tôi thấy có nhiệm vụ cũng phải thành thật đối với
ông. Xin ông hiểu giùm cho rằng ông yêu nước Pháp như thế nào th́
tôi yêu nước Việt Nam như thế ấy và ông có quyết tâm bảo vệ quyền
lợi Pháp như thế nào th́ tôi cũng có quyết tâm bảo vệ quyền lợi nước
Việt Nam như thế ấy”. Sau đó, chúng tôi vẫn tiếp tục chiến dịch tố
cáo các âm mưu của thực dân Pháp ở Nam Việt t́m cách phá hoại các
giao ước giữa chánh phủ Pháp với Cựu Hoàng Bảo Đại về vấn đề thống
nhứt Việt Nam. Mặt khác, Cựu Hoàng Bảo Đại lúc ấy c̣n ở Âu Châu đă
cho biết rằng ông chỉ chịu về nước lănh đạo chánh phủ nếu việc tái
nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam được xác định một cách rơ rệt.
Cuối cùng, các hội viên của Hội Đồng Lănh Thổ Nam Kỳ đă không dám
chống hẳn lại việc thống nhứt Việt Nam. Họ chỉ ghi thêm trong quyết
nghị biểu quyết ngày 23 tháng 4 năm 1949 chấp nhận để Nam Kỳ được
sáp nhập vào lănh thổ Việt Nam một điều kiện là nếu có sự thay đổi
trong mối liên hệ giữa Việt Nam với Liên Hiệp Pháp th́ Nam Kỳ sẽ lại
được quyền tự quyết định về số phận ḿnh. Đám thực dân Pháp ở Nam Kỳ
rất thù hận chúng tôi về việc đă chống lại họ một cách mănh liệt về
vấn đề thống nhứt Việt Nam. Do đó, họ ngầm thông đồng với bọn công
tác thành của CSVN và để cho một cán bộ trong bọn công tác này là La
Văn Liếm hạ sát Anh Đỗ Văn Năng ở Sài G̣n vào những tháng đầu năm
1950. Ngoài anh ra, chắc hẳn c̣n có nhiều người Việt Nam khác thuộc
các tổ chức ái quốc đă bị Pháp sát hại v́ cuộc tranh đấu cho Việt
Nam thống nhứt. Vậy, đồng bào gốc Bắc Việt vào cư trú Nam Việt trước
1945 và người Nam Việt chủ trương thống nhứt đă phải tranh đấu rất
gay go, có người phải thiệt mạng v́ chủ trương này. Bởi đó, sọc đỏ
thứ ba trên quốc kỳ tượng trưng cho Nam Việt thật sự đă được tô bằng
máu của nhiều nhà ái quốc và điều này làm cho cờ vàng ba sọc đỏ có
một ư nghĩa chánh trị sâu xa mà nhiều người Việt Nam hiện nay không
thấy được. Một quyết định khác của Quốc Trưởng Bảo Đại khi ông mới
về nước năm 1949 cũng có một ư nghĩa chánh trị ít ai được biết là
việc chọn Sài G̣n làm thủ đô. V́ là người kế thừa nhà Nguyễn nên
Quốc Trưởng Bảo Đại rất muốn đặt chánh phủ thống nhứt của Việt Nam ở
Huế là kinh đô cổ truyền của triều đại ḿnh. Nhưng lúc ấy, nhà cách
mạng lăo thành Trần Văn Ân đă bàn với ông là nếu ông lấy Huế làm thủ
đô, việc sáp nhập Nam Kỳ vào lănh thổ Việt Nam không được thể hiện
rơ rệt đối với người Việt Nam và người ngoại quốc và nền thống nhứt
thâu hoạch được một cách gay go sẽ không vững chắc. Đặt thủ đô ở Sài
G̣n để cho mọi chánh lịnh ban hành trong toàn quốc Việt Nam phát
xuất từ Nam Việt th́ tánh cách thống nhứt của nước Việt Nam từ mũi
Cà Mau đến ải Nam Quan hiển hiện trước mắt và trong tâm thức mọi
người thành ra không ai c̣n hoài nghi hay phủ nhận sự thống nhứt đó
được nữa. Quốc Trưởng Bảo Đại tán thành ư kiến trên đây của Ông Trần
Văn Ân và quyết định lập chánh phủ thống nhứt ở Sài G̣n, mặc dầu ông
không thích ở Sài G̣n v́ chánh quyền Pháp lúc đó chịu giao Phủ Cao
Ủy ở Hà Nội cho ông mà lại giữ Phủ Cao Ủy ở Sài G̣n là Dinh Norodom
(sau này gọi lại là Dinh Độc Lập) thành ra tại Sài G̣n, Phủ Thủ
Tướng của Việt Nam kém bề thế hơn Phủ Cao Ủy của Pháp.
2/ Ư nghĩa triết lư Về mặt triết lư, trong bát quái, ba vạch liền là
quẻ Càn, tượng trưng cho trời, cho vua, cho cha và cho quyền lực.
Ngày nay, chúng ta sống trong chế độ dân chủ và quẻ Càn trên quốc kỳ
có thể dùng để tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam và sức
mạnh của toàn dân ta.
3. Cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng
a. So sánh cờ vàng ba sọc đỏ và cờ đỏ sao vàng về mặt thẩm mỹ Nói
chung th́ trên một lá cờ gồm hai màu, một đậm, một lợt th́ nếu màu
đậm quá nhiều và làm nền c̣n màu lợt quá ít và làm dấu hiệu phụ
thuộc th́ màu lợt bị màu đậm tràn ngập và lá cờ trở thành tối. Trái
lại, nếu màu lợt nhiều hơn và làm nền c̣n màu đậm ít hơn và làm dấu
hiệu phụ thuộc th́ màu đậm in rơ lên nền màu lợt và cả hai màu đều
sáng chói. Quốc kỳ của tập đoàn CSVN gồm một ngôi sao vàng nhỏ trên
nền đỏ, màu vàng của ngôi sao bị nền đỏ sậm hơn tràn ngập nên chỉ
hiện lean như một tia sáng yếu ớt và cả lá cờ xem rất tối. Quốc kỳ
của người quốc gia chúng ta trái lại, dùng màu vàng làm nền và ba
sọc đỏ sậm hơn đă hiện rơ lên nền vàng này thành ra cả hai màu đều
tươi sáng. Vậy, chỉ xét riêng về mặt thẩm mỹ, quốc kỳ của chúng ta
tươi đẹp hơn quốc kỳ của tập đoàn CSVN rất nhiều. Điều đó cũng không
có chi lạ. Quốc kỳ của chúng ta do một họa sĩ nổi tiếng vẽ ra, c̣n
cờ của tập đoàn CSVN chỉ là sự mô phỏng nô lệ cờ một đế quốc có chủ
trương sắt máu và không có ư thức ǵ về cái đẹp.
b. So sánh cờ vàng ba sọc đỏ với cờ đỏ sao vàng về mặt triết lư Nếu
lấy nền triết lư cổ truyền của dân tộc Việt Nam làm căn bản để phán
đoán th́ cờ vàng ba sọc đỏ của chúng ta cũng có một ư nghĩa tốt đẹp
hơn cờ đỏ sao vàng nhiều. Theo quan niệm cổ của dân tộc Việt Nam,
màu vàng thuộc hành thổ và màu đỏ thuộc hành hỏa và v́ hỏa sanh thổ
nên hai màu này rất hợp với nhau. Nhưng trên cờ đỏ sao vàng, màu đỏ
quá nhiều, màu vàng quá ít, cũng như khối lửa lớn hay một ánh nắng
gay gắt nung đốt một ḥn đất nhỏ thành ra ḥn đất bị khô cằn đi.
Trong khi đó, trên cờ vàng ba sọc đỏ, ba sọc đỏ nhỏ như những tia
nắng rọi xuống một mặt đất rộng răi làm cho mặt đất này ấm áp và có
điều kiện thuận lợi cho cây cỏ mọc lên được. Ư nghĩa về triết lư
trên đây thật ra cũng phù hợp với bản chất của chế độ chánh trị hai
bên. Chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn diện đè ép nhơn dân,
phủ nhận các quyền lợi căn bản của con người, làm thui chột các sáng
kiến nên không thể phát triển được. Dưới quyền của tập đoàn CSVN,
nước Việt Nam đă trở thành một mảnh đất cằn cỗi không sinh khí và xă
hội Việt Nam lọt vào sự đói khổ cùng cực. Chế độ quốc gia dung nạp
sự tự do, tôn trọng các quyền lợi căn bản của con người và khuyến
khích sáng kiến nên mặc dầu các nhà lănh đạo về phía quốc gia đă
phạm nhiều lỗi lầm trầm trọng, mặc dầu CSVN đă gây nhiều tàn sát và
phá hoại, phần lănh thổ Việt Nam do người quốc gia điều khiển đă là
một mảnh đất đầy sinh khí và nhơn dân Việt Nam trên lănh thổ này đă
hưởng một nếp sống tương đối tự do và trù phú hơn.
D. VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC KỲ
1. Các lập luận đưa ra để phủ nhận cờ vàng ba sọc đỏ Sau năm 1975,
trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại có một số người chủ trương phủ
nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ. Trong số những người này, có kẻ bảo rằng
đó là cờ thua trận, có kẻ bảo rằng đó là một lá cờ của một chế độ
tham nhũng thúi nát, có kẻ cho rằng đó là cờ của Bảo Đại, cờ của Ông
Ngô Đ́nh Diệm hay cờ của Ông Nguyễn Văn Thiệu là những người lănh
đạo mà họ cho là không xứng đáng.
2. Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc kỳ Thật
sự th́ quốc kỳ một nước thường có ư nghĩa sâu xa liên hệ đến văn hóa
và lịch sử dân tộc. Dầu cho nó do ai chọn lựa và chọn lựa như thế
nào th́ một khi đă được dùng làm quốc kỳ, nó cũng không c̣n có thể
được xem là của cá nhơn nào mà phải được xem là của toàn thể nhơn
dân trong nước. Bởi đó, số phận quốc kỳ không thể cột buộc vào số
phận một nhà lănh đạo, vào những ưu khuyết điểm của một chế độ hay
vào sự thắng bại trong một cuộc tranh đấu. Trong lịch sử thế giới,
không ai chủ trương phủ nhận quốc kỳ của ḿnh hay thay đổi nó v́ các
lư do trên. Việc thay đổi quốc kỳ chỉ được đặt ra khi trong nước có
những quan niệm chánh trị mới hoàn toàn khác quan niệm làm căn bản
cho chế độ quốc gia. Như chúng tôi đă nói trên đây, lá quốc kỳ đầu
tiên được dùng trên thế giới là cờ tam sắc của Pháp. Nó là kết quả
một sự tương nhượng giữa hoàng gia Pháp và nhơn dân thị xă Paris.
Sau đó, nhà vua Louis thứ XVI của Pháp đă chống lại Cách Mạng và bị
xử tử, nhưng chánh phủ cách mạng Pháp vẫn chánh thức lấy lá cờ tam
sắc làm quốc kỳ. Lúc ḍng vua chánh thống của Pháp được đưa lên ngôi
báu trở lại, họ đă dùng lá cờ trắng có hoa huệ vàng của hoàng gia
làm quốc kỳ, nhưng cờ này chỉ được dùng từ năm 1816 đến năm 1830.
Với cuộc Cách Mạng 1830, ḍng Orléans được đưa lên thay ḍng vua
chánh thống và cờ tam sắc đă được dùng làm quốc kỳ trở lại. Năm
1848, ḍng Orléans lại bị lật đổ. Một số nhà cách mạng tả khuynh
thời đó đă chủ trương dùng cờ đỏ thay cờ tam sắc làm quốc kỳ, nhưng
sau một bài diễn văn cảm động của thi hào Lamartine, người Pháp đă
quyết định giữ cờ tam sắc. Lúc ấy, người Pháp lập Đệ Nhị Cộng Ḥa.
Nhưng người đầu tiên được bầu làm Tổng Thống của nền cộng ḥa này
lại là cháu của Hoàng Đế Napoléon thứ I. Năm 1850, ông đảo chánh để
lên ngôi hoàng đế với danh hiệu Napoléon thứ III. Đến năm 1870, v́
gây chiến với Đức và bị thảm bại nên ông phải thoái vị. Quốc Hội
Pháp được bầu vào lúc đó gồm nhiều người bảo hoàng muốn tái lập chế
độ quân chủ và tôn làm quốc vương Bá Tước Chambord, người lănh đạo
ḍng vua chánh thống từ năm 1836. Nhưng Bá Tước Chambord đ̣i hỏi
phải bỏ cờ tam sắc để lấy cờ trắng thêu hoa huệ vàng làm quốc kỳ.
Những người bảo hoàng nhiệt tâm nhứt đều biết rằng quốc dân Pháp lúc
đó không chấp nhận cờ trắng thêu hoa huệ vàng thay cờ tam sắc nên cố
thuyết phục Bá Tước Chambord bỏ ư định của ông. Thống Chế Mac Mahon
là một lănh tụ bảo hoàng đă bảo rằng: “Nếu dùng lá cờ trắng thay lá
cờ tam sắc th́ không cần ai bấm c̣, súng cũng tự nổ”. V́ Bá Tước
Chambord vẫn khăng khăng phủ nhận lá cờ tam sắc nên cuối cùng phe
bảo hoàng phải từ bỏ chủ trương tái lập chế độ quân chủ. Thời Thế
Chiến II, Thống Chế Pétain đă chịu đầu hàng người Đức trong khi
Tướng De Gaulle chạy sang Anh kêu gọi người Pháp kháng chiến. Lúc
ấy, có hai lực lượng Pháp đối đầu nhau và cả hai đều dùng lá cờ tam
sắc. Để phân biệt hai bên, Tướng De Gaulle chỉ dùng một cây thánh
giá Lorraine gồm hai nhánh ngang và một nhánh dọc đặt trên cờ để làm
hiệu kỳ cho Lực Lượng Pháp Quốc Tự Do (LLPQTD) của ông. Đến khi giải
phóng được nước Pháp, ông đă không v́ cớ cờ tam sắc đă bị Thống Chế
Pétain dùng trong khi đầu hàng Đức để xin thay đổi nó. Do đó, cờ tam
sắc vẫn là quốc kỳ của Pháp và lá cờ có dấu thập tự Lorraine chỉ
được xem là hiệu kỳ của LLPQTD. Nói chung lại th́ từ năm 1789, ở
Pháp có ba quan niệm chánh trị căn bản thể hiện bằng ba lá cờ: quan
niệm quân chủ chánh thống với cờ trắng thêu hoa huệ vàng, quan niệm
cách mạng tả phái với cờ đỏ và quan niệm dân chủ tự do với cờ tam
sắc. Cờ tam sắc biểu tượng được lư tưởng chung của đa số dân Pháp
nên đă được chọn làm quốc kỳ và các mưu toan thay đổi nó đều không
thành tựu được.
3. Nhiệm vụ người quốc gia Việt Nam đối với quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ Người quốc gia Việt Nam ta may mắn có một lá quốc kỳ rất đẹp và
oai hùng. Phải thấy cờ này bay phấp phới trên một nền trời trong
xanh mới thấy hết cái đẹp oai hùng đó. Mặt khác, cờ vàng ba sọc đỏ
mang nhiều ư nghĩa triết lư và chánh trị tuyệt hảo, hơn hẳn lá cờ đỏ
sao vàng chống đối lại nó. Từ khi Quốc Gia Việt Nam được công nhận
là một nước độc lập, cờ vàng ba sọc đỏ đă được nhiều quốc gia trên
thế giới biết. Tại Việt Nam, nó đă là biểu tượng hội tập nhiều triệu
chiến sĩ quân nhơn cũng như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân
tộc Việt Nam. Nó đă được dùng để phủ lên áo quan của nhiều trăm ngàn
người đă chết v́ Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó là một bảo vật thiêng
liêng đối với mọi người chúng ta. Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc
đỏ không c̣n được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi
người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho
nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác,
phi nhơn và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người
ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại Cộng
Sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về
các mặt này. Vậy, việc tỏ ḷng tôn trọng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ
và dùng nó một cách rộng răi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là
một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách
Cộng Sản. Việc một hội đoàn Việt Nam dùng làm hiệu kỳ một lá cờ nền
vàng ba sọc đỏ trên có biểu tượng riêng cho ḿnh là một điều hữu ích
cho công cuộc tranh đấu chống lại Cộng Sản. Khi Liên Minh Dân Chủ
Việt Nam (LMDCVN) áp dụng nguyên tắc trên đây và thêm 5 ngôi sao 5
nhánh màu xanh trên cờ vàng ba sọc đỏ để làm đoàn kỳ của ḿnh, một
số người đă chỉ trích v́ cho rằng như vậy là bất kính đối với quốc
kỳ. Nhưng sự thật không phải như vậy. Việc dùng một biểu hiệu thêm
vào quốc kỳ để làm hiệu kỳ cho một tổ chức tranh đấu cho Tổ Quốc là
một điều mà người các nước đă từng làm. Như trên đây đă nói, khi
thành lập LLPQTD để chống lại chánh phủ Pétain, Tướng De Gaulle đă
dùng một cây thập tự Lorraine thêm vào quốc kỳ Pháp. Vậy, việc đoàn
kỳ của LMDCVN là một quốc kỳ trên có 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ
hàm ư rằng LMDCVN là một tổ chức của VNCH tranh đấu dưới lá quốc kỳ
Việt Nam, và 5 ngôi sao 5 nhánh màu xanh chỉ để phân biệt nó với
những tổ chức tranh đấu khác nhưng cùng một mục tiêu chung. Trong
khi chưa giải phóng được Việt Nam và chưa làm cho nó được chánh thức
dùng trở lại trên toàn cơi Việt Nam, nhiệm vụ người Việt Nam ở hải
ngoại là làm cho cờ này vẫn được sử dụng ở mọi nơi có người quốc gia
Việt Nam, đặc biệt là trong những hoạt động có liên hệ đến người
ngoại quốc. Về mặt này, chúng ta phải ghi công cố Đại Tá Đỗ Đăng
Công, nguyên Tổng Thư Kư của Phân Bộ Việt Nam trong Liên Minh Thế
Giới Chống Cộng (LMTGCC). Sau năm 1975, lúc CSVN vừa chiếm được Miền
Nam Việt Nam, ban tổ chức của liên minh này đă không c̣n dùng cờ
vàng ba sọc đỏ trong các phiên họp của họ. Nhưng bằng những lời lẽ
hợp lư, cương quyết và cảm động, cố Đại Tá Đỗ Đăng Công đă làm cho
họ thay đổi ư kiến và từ đó, quốc kỳ của chúng ta đă được long trọng
dùng chung với cờ của các nước hội viên khác của LMTGCC ở mọi nơi.
Ngoài ra, c̣n có những người khác cũng có những công tác tương tự.
Khi đến thuyết tŕnh về vấn đề Việt Nam ở Viện Đại Học OSU (Oregon
State University) tại Cornvallis ngày 30 tháng 11 năm 1987, tôi được
biết rằng các anh chị em sinh viên Việt Nam ở Viện Đại Học này đă
hai lần tranh đấu với ban giám đốc để cho cờ vàng ba sọc đỏ vẫn được
treo với tư cách là quốc kỳ Việt Nam ở một hội trường trưng bày cờ
các nước. Phía Canada th́ Cộng Đồng Việt Nam đă tranh đấu để cho thị
xă Toronto chấp nhận để cho quốc kỳ Việt Nam được treo lên một tuần
lễ mỗi năm tại kỳ đài của thị xă vào dịp 30 tháng 4. Tại Los Angelès
(California) th́ Cộng Đồng Việt Nam đă được chấp nhận cho xây dựng
một kỳ đài để quốc kỳ Việt Nam sẽ được treo liên tục suốt năm. Tại
San Jose (California), Cộng Đồng Việt Nam cũng sẽ xây dựng một kỳ
đài tương tự*. Ngoài ra, trong dịp Tết Mậu Th́n, quốc kỳ Việt Nam đă
được treo trong suốt một tuần lễ ở trụ sở các tỉnh Santa Clara, thị
xă San José và thị xă Milpitas. Có lẽ trên thế giới c̣n có những nơi
mà đồng bào Việt Nam đă tranh đấu và thành công trong việc làm cho
quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ được cộng đồng quốc tế chấp nhận treo lên
mà chúng tôi không được biết nên không nêu ra đây được. Riêng Ủy Ban
Quốc Tế Yểm Trợ Việt Nam Tự Do (UBQTYTVNTD) th́ dĩ nhiên là chánh
thức công nhận quốc kỳ này. Ngày 4 tháng 12 năm 1986, khi tổ chức
buổi hội thảo công khai đầu tiên của Ủy Ban, Ông Chủ Tịch Paul
Vankerkhoven đă đích thân kiểm soát việc trang trí pḥng hội thảo.
Tại pḥng này, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ đă được treo chung với cờ
các quốc gia trong Cộng Đồng Âu Châu và đặc biệt là được treo ở chỗ
danh dự là ngay bên hữu cờ Bỉ là cờ của nước chủ nhà. Chắc chắn là
trong mọi cuộc hội họp công cộng của UBQTYTVNTD mà có treo cờ th́
quốc kỳ của chúng ta sẽ được treo chung với cờ các nước khác. Việc
quốc kỳ của chúng ta lần lần tái hiện bên cạnh cờ các quốc gia khác
trên thế giới là một dấu hiệu cho thấy rằng công cuộc tranh đấu để
giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản có những tiến triển khả quan.
Hiện nay, quốc kỳ này là biểu hiệu hội tập mọi người quốc gia Việt
Nam: dầu có bất đồng ư kiến, dầu có những hiềm khích đối với nhau,
mọi người quốc gia đều nên tôn trọng quốc kỳ và nếu mọi người đều
quyết tâm tranh đấu chung nhau hay ít nhứt cũng song song nhau th́
một ngày không xa lắm, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ sẽ phấp phới bay
trên mọi nóc nhà Việt Nam từ mũi Cà Mau cho đến ải Nam Quan.
II. QUỐC CA VIỆT NAM
A. SỰ XUẤT HIỆN CỦA Ư NIỆM QUỐC CA TRONG LỊCH SỬ NHƠN LOẠI
Ư niệm quốc ca đă từng xuất hiện một lượt với ư
niệm quốc kỳ. Từ ngàn xưa, loài người đă có dùng những bản nhạc hay
bài ca để đánh dấu sự có mặt của một nhơn vật lănh đạo. Nhưng thời
trước, với chế độ quân chủ, các bản nhạc hay bài hát loại này được
xem là biểu tượng riêng của cá nhơn nhà vua, nhá quí tộc hoặc nhà
đại diện cho các cự tộc cầm đầu cộng đồng. Về nội dung, nó có thể là
một bài để cho nhơn vật lănh đạo này cầu nguyện trời hay thần linh
phù hộ ông, một bài chúc tụng ông, đề cao công nghiệp của ông hay
của gia tộc ông, hay một bài mô tả cảnh thái b́nh thạnh trị, hoặc sự
cường thạnh của cộng đồng mà ông là chủ nhơn. Chỉ với cuộc Cách Mạng
Pháp năm 1789, khi quốc gia được xem là sở hữu của toàn thể mọi
người sống trong cộng đồng mới có bài hát được dùng làm biểu tượng
chung cho toàn thể quốc dân. Người Pháp đă dùng từ ngữ hymne
national để chỉ loại bài hát này. Quan niệm của người Pháp lần lần
được người nước khác chấp nhận và người thuộc các dân tộc nói tiếng
Anh đă dùng từ ngữ national anthem khi nói đến bài hát tiêu biểu cho
nước ḿnh. Hymne national của Pháp hay national anthem theo tiếng
Anh đă được người Việt Nam chúng ta dịch là quốc thiều nếu nhấn mạnh
trên phần âm nhạc, hay quốc ca khi nhấn mạnh trên phần lời nói. Về
phần thực hiện cụ thể th́ bản quốc ca đầu tiên trên thế giới là bài
Marseillaise của Pháp. Bài này do một đại úy công binh Pháp tên
Rouget de Lisle làm năm 1792 với tên là Chiến Ca Của Lộ Quân Sông
Rhin (Chant De Guerre Pour l’Armée Du Rhin). Nhưng sau đó, nó được
nổi tiếng khi được một tiểu đoàn chí nguyện quân gồm người gốc ở thị
xă Marseille hát trong lúc kéo từ Marseille lên thủ đô Paris nên có
tục danh là bài Marseillaise. Bài hát này đă được phổ biến rộng răi
ở Pháp từ năm 1792 và đến năm 1795, nó đă được chánh thức chọn làm
quốc ca của Pháp. Sau khi người Pháp tung ra ư niệm quốc ca, nhiều
nước khác đă chấp nhận ư niệm này và đều có quốc ca. Có khi quốc ca
được chọn là một bài đă được dùng để đánh dấu sự hiện diện của nhà
vua. Đó là trường hợp bài God Save The King (Trời Phù Hộ Đức Vua)
hay God Save The Queen (Trời Phù Hộ Nữ Hoàng) nếu quốc trưởng là một
nữ hoàng. Bài này đă được dùng ở Anh từ trước Cách Mạng Pháp, nhưng
đến năm 1825 mới được chánh thức xem là quốc ca của nước Anh.
B. CÁC BẢN NHẠC ĐĂ XUẤT HIỆN Ở VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ QUỐC
THIỀU VÀ QUỐC CA
1. Quốc ca xuất hiện đầu tiên: bản Đăng Đàn Cung của Hoàng Đế Bảo
Đại Ở Việt Nam trước đây, cũng như ở các nước quân chủ cổ thời khác,
có những bản nhạc và bài hát được dùng trong các lễ long trọng để
đánh dấu sự hiện diện của nhà vua. Về ư niệm quốc thều hay quốc ca,
nó chỉ xuất hiện ở nước ta khi dân tộc ta bị lọt vào ách thực dân
Pháp. Tuy nhiên, trong gần suốt thời kỳ Pháp thuộc, dân Việt Nam vẫn
chưa có quốc thiều và quốc ca. Nam Kỳ lúc ấy là thuộc địa Pháp và
khi có các cuộc lễ lớn th́ bản nhạc được dùng là bài Marseillaise
của người Pháp. Ở Huế th́ triều đ́nh nhà Nguyễn có một số bản nhạc
được dùng khi có sự hiện diện của nhà vua. Nhưng các bản nhạc trên
đây không phải là quốc thiều hay quốc ca theo đúng nghĩa kim thời
của nó. Đến thời Thế Chiến II, Hoàng Đế Bảo Đại mới ấn định quốc
thiều và quốc ca một lượt với quốc kỳ. Bản quốc thiều và quốc ca này
là bản Đăng Đàn Cung. Đó là một bản nhạc cổ điển của Việt Nam và
được triều đ́nh Huế dùng khi nhà vua ngự đến đài Nam Giao để đại
diện cho tất cả thần dân làm lễ tế trời. Lễ này ba năm cử hành một
lần và được xem là cuộc lễ quan trọng hơn hết của triều đ́nh. Do đó,
bản Đăng Đàn Cung được xem là bản nhạc trang nghiêm nhứt. V́ vậy,
Hoàng Đế Bảo Đại đă dùng nó làm quốc thiều và quốc ca trong khi cờ
long tinh được chọn làm quốc kỳ. Cũng như cờ long tinh, bản Đăng Đàn
Cung chỉ được dùng trên lănh thổ Đại Nam tức là Trung Kỳ và Bắc Kỳ,
c̣n ở Nam Kỳ bị xem là lănh thổ Pháp th́ bản Marseillaise vẫn phải
được dùng.
2. Quốc ca thứ nh́: bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông thời chánh phủ
Trần Trọng Kim Sau khi Nhựt đảo chánh Pháp và Việt Nam tuyên bố độc
lập, chánh phủ Trần Trọng Kim đă ban bố một chương tŕnh hưng quốc
ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó bản Việt Nam Minh Châu Troi Đông
của nhạc sĩ Hùng Lân được chọn làm quốc ca. Lời ca của bản nhạc này
như sau:
Việt Nam, minh châu trời Đông!
Việt Nam, nước thiêng Tiên Rồng!
Non sông như gấm hoa uy linh một phương,
Xây vinh quang ngất cao bên Thái B́nh Dương.
Từ ngàn xưa tài danh lừng lẫy khắp nơi.
Tiếng anh hùng tạc ghi núi sông muôn đời.
Máu ai c̣n vương cỏ hoa
Giục đem tấm thân xẻ với sơn hà.
Giơ tay cương quyết, Ta ôn lời thề ước.
Hy sinh tâm huyết, Ta báo đền ơn nước.
Dầu thân này nát tan tành gói da ngựa cũng cam,
Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam.
Bản quốc ca này được dùng chung với cờ quẻ Ly ở Bắc và Trung Việt,
nhưng không được dùng ở Nam Việt v́ Nam Việt đă bị người Nhựt thay
người Pháp điều khiển một cách trực tiếp và chỉ được trả cho triều
đ́nh Huế lúc Hoàng Đế Bảo Đại đă sắp thoái vị rồi. Vậy, trong thời
kỳ từ khi người Nhựt đảo chánh Pháp cho đến khi Mặt Trận Việt Minh
củng cố được chánh quyền của nó ở Nam Việt, cả lănh thổ này không có
quốc ca. Bài hát được người quốc gia ở Nam Việt dùng khi đứng lên
tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam thời đó là bài Thanh Niên
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên của Thanh Niên Tiền Phong, chung
với cờ vàng sao đỏ cũng của tổ chức này. Như chúng tôi sẽ tŕnh bày
sau đây, bản nhạc của bài Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh
Niên này chính là bản nhạc của bài quốc ca mà chúng ta đang dùng.
3. Quốc ca thứ ba: bản Tiến Quân Ca của tập đoàn CSVN Khi cướp được
chánh quyền, tập đoàn CSVN đă dùng làm quốc ca bản Tiến Quân Ca của
nhạc sĩ Văn Cao. Bản nhạc này đă được họ bắt đầu dùng khi tổ chức
các đơn vị vơ trang đầu tiên và cho đến nay, vẫn được họ dùng làm
quốc ca.
4. Quốc ca của Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc Khi Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc thành
lập năm 1946, những người cầm đầu phong trào Nam Kỳ Tự Trị đă dùng
làm quốc ca một bản phổ nhạc của mấy câu thơ đầu trong Chinh Phụ
Ngâm Khúc mà tác giả là Giáo Sư Vơ Văn Lúa, một giáo sư trung học
thời Pháp thuộc. Sau đó, Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc lại dùng một bản nhạc
khác cũng của vị giáo sư này làm quốc ca, nhưng về nhạc và lời, bản
sau này cũng chẳng hơn ǵ bản trước. Các bản quốc ca quái đản trên
đây thật xứng với lá cờ sốt rét dùng làm quốc kỳ cho Nam Kỳ Cộng Ḥa
Quốc. Nó đă là một đề tài chế giễu của ngưoi dân Nam Việt lúc đó và
ngày nay nhắc lại nó, chúng tôi không biết nên cười hay nên khóc v́
tuy hết sức lố bịch, nó đă được dùng làm biểu tượng cho một tổ chức
chống lại nền thống nhứt của Việt Nam và đă gây nhiều đau khổ chết
chóc cho những người tranh đấu cho nền thống nhứt này.
5. Quốc ca của chúng ta ngày nay Bản quốc ca của chúng ta hiện nay
có một lịch sử đặc biệt. Người sáng tác bản nhạc là Lưu Hữu Phước,
một cựu học sinh trường trung học Pétrus Kư và cựu sinh viên Viện
Đại Học Hà Nội. Nếu tôi không lầm th́ bản nhạc này đă được soạn ra
lúc Lưu Hữu Phước c̣n học ở trường Pétrus Kư. Năm 1942, anh ta là
sinh viên của Viện Đại Học Hà Nội. Thời Thế Chiến II, Viện Đại Học
này là Viện Đại Học duy nhứt của các nước Đông Dương. Nó có khoảng
800 sinh viên trong đó phân nửa là người Việt Nam, c̣n lại là người
Khmer, người Lào, người Pháp và ngay cả người một số nước láng giềng
như Trung Quốc và các nước Đông Nam Á Châu. V́ là Viện Đại Học duy
nhứt của Đông Dương nên Viện Đại Học Hà Nội đă họp tập tất cả sinh
viên Việt Nam thời đó. Các sinh viên ái quốc gia nhập các chánh đảng
cách mạng tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam đă tổ chức những tổ
bí mật tại đó. Đặc biệt Đại Việt Quốc Dân Đảng có đảng trưởng Trương
Tử Anh và một cán bộ nồng cốt là Anh Nguyễn Tôn Hoàn học tại Viện
Đại Học Hà Nội thời Thế Chiến II. Anh Nguyễn Tôn Hoàn là người giỏi
về nhạc nên được bầu làm Trưởng Ban Âm Nhạc của Tổng Hội Sinh Viên
Đông Dương (Association Générale des Étudiants Indochinois) và anh
đă lănh nhiệm vụ bí mật hướng dẫn các sinh viên hoạt động về văn hóa
theo chiều hướng tranh đấu chống thực dân. Chiều ngày 15 tháng 3 năm
1942, Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương (THSVĐD) đă tổ chức tại Đại
Giảng Đường của Viện Đại Học Hà Nội một buổi hát để lấy tiền giúp
các bịnh nhơn nghèo của các bịnh viện được dùng làm nơi thực tập cho
các sinh viên Khoa Y Dược. Các sinh viên Việt Nam đóng vai tuồng chủ
động trong Tổng Hội đă quyết định nhơn cơ hội này tung ra một bản
nhạc đặc biệt là Sinh Viên Hành Khúc, tên Pháp là Marche des
Étudiants. Anh Nguyễn Tôn Hoàn được ủy nhiệm chọn bản nhạc dùng vào
công việc đó. Lúc ấy, Lưu Hữu Phước đă đưa cho anh một số bài nhạc
do anh ta soạn. Anh Nguyễn Tôn Hoàn nhận thấy rằng trong tất cả các
dự thảo của Lưu Hữu Phước, bản nhạc mà chúng ta hiện dùng làm quốc
thiều có tánh cách khích động tinh thần tranh đau hơn hết nên đă
chọn nó làm nhạc cho Sinh Viên Hành Khúc. Sau đó, một ủy ban soạn
lời ca cho bản nhạc này đă được thành lập với Đặng Ngọc Tốt, Mai Văn
Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phan Thanh Ḥa, Hoàng Xuân Nhị. Lời ca này gồm
ba đoạn với một điệp khúc chung:
I. Này sinh viên ơi! Đứng lên đáp lời sông núi!
Đồng ḷng cùng đi, đi, mở đường khai lối.
V́ non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên,
Nào anh em Bắc Nam! Cùng nhau ta kết đoàn!
Hồn thanh xuân như gương trong sáng,
Đừng tiếc máu nóng, tài xin ráng!
Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta,
Dầu muôn chông gai vững ḷng chi sá.
Đường mới kíp phóng mắt nh́n xa bốn phương,
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường.
(Điệp khúc) Sinh viên ơi! Ta quyết đi đến cùng!
Sinh viên ơi! Ta thề đem hết ḷng!
Tiến lên đồng tiến! Vẻ vang đời sống! Chớ quên rằng ta là giống Lạc
Hồng!
II. Này sinh viên ơi! Dấu xưa vết c̣n chưa xoá!
Hùng cường trời Nam, ghi trên bảng vàng bia
đá!
Lùa quân Chiêm nát tan, thành công Nam tiến luôn,
B́nh bao phen Tống Nguyên, từng ca câu khải hoàn.
Hồ Tây tranh phong oai son phấn, Lừng tiếng Sát Thát Trần Quốc Tuấn.
Mài kiếm cứu nước nhớ người núi Lam,
Trừ Thanh, Quang Trung giết hằng bao đám.
Ṇi giống có khí phách từ xưa chớ quên,
Mong đến ngày vẻ vang, ta thắp hương nguyền.
(Trở lại điệp khúc)
III. Này sinh viên ơi! Muốn đi đến ngày tươi sáng,
Hành tŕnh c̣n xa, chúng ta phải cùng nhau
gắng!
Ngày xưa ai biết đem tài cao cho núi sông,
Ngày nay ta cũng đem ḷng son cho giống ḍng.
Là sinh viên vun cây văn hoá, Từ trước sẵn có nhiều hoa lá.
Đời mới kiến thiết đáp ḷng những ai Hằng mong ta ra vững cầm tay
lái.
Bền chí quyết cố gắng làm cho khắp nơi Vang tiếng người nước Nam cho
đến muôn đời!
(Trở lại điệp khúc)
Các lời ca tiếng Việt như trên đây được dùng cho sinh viên Việt Nam
và có mục đích thúc đẩy người Việt Nam tranh đấu cho đất nước Việt
Nam. Nhưng v́ như trên đă nói, Viện Đại Học Hà Nội lúc ấy c̣n có
nhiều sinh viên không phải Việt Nam nên ngoài lời ca tiếng Việt, lại
c̣n có lời ca tiếng Pháp để mọi sinh viên của Viện đều có thể dùng
nó được. Lời ca tiếng Pháp này dĩ nhiên là không thể nói riêng về
Việt Nam mà phải nói đến cả Đông Dương để cho phù hợp với tên
THSVĐD. Lời ca tiếng Pháp cũng do ủy ban nói trên đây soạn ra:
Étudiants! Du sol l’appel tenace
Pressant et fort, retentit dans l’espace.
Des côtes d’Annam aux ruines d’Angkor,
À travers les monts, du sud jusqu’au nord,
Une voix monte ravie: Servir la chère Patrie!
Toujours sans reproche et sans peur
Pour rendre l’avenir meilleur.
La joie, la ferveur, la jeunesse
Sont pleines de femmes promesses.
(Điệp khúc) Te servir, chère Indochine,
Avec coeur et discipline, C’est notre but, c’est notre loi
Et rien n’ébranle notre foi!
Buổi hát chiều ngày 15 tháng 3 năm 1942 đă đưa đến những kết quả mỹ
măn và bản Sinh Viên Hành Khúc tên Pháp là Marche des Étudiants đă
được chánh thức công nhận là bản nhạc của THSVĐD. Mùa hè năm đó,
Tổng Hội này lại tổ chức một buổi lễ măn khoá tại Nhà Hát Lớn Hà
Nội. Lần này, có Toàn Quyền Đông Dương và nhiều viên chức cao cap
Pháp khác đến dự. Bản Sinh Viên Hành Khúc được dàn nhạc của Hải Quân
Pháp tŕnh tấu. Âm điệu hùng hồn của nó đă làm mọi ngưoi khích động
và khi nó được trổi lên, tất cả mọi ngưoi tham dự lễ măn khoá năm
1942 của Viện Đại Học Hà Nội, kể cả các viên chức cao cấp Pháp, đều
đă nghiêm chỉnh đứng dậy để chào nó. Sau đó, nó được phổ biến khắp
nơi. Các sinh viên Pháp, Khmer và Lào dĩ nhiên là theo lời ca Pháp.
Về phía Việt Nam th́ các sinh viên chỉ lo đi học chớ không có nhiệt
tâm tranh đấu chánh trị cũng chỉ biết có lời ca Pháp. Phần các sinh
viên Việt Nam có nhiệt tâm tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc th́
đem ra phổ biến ở khắp cả ba kỳ trong kỳ nghỉ hè năm đó với lời ca
tiếng Việt, nhứt là đoạn I nói trên đây. V́ thế, từ năm 1943, bài
Sinh Viên Hành Khúc đă được người Việt Nam ở cả ba kỳ biết. Năm
1945, sau khi Nhựt đảo chánh Pháp, Thanh Niên Tiền Phong được thành
lập ở Nam Việt và lấy bản nhạc trên đây làm đoàn ca. Tên bản nhạc
được đặt lại là Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên. Về
lời th́ hai chữ sinh viên được thay bằng hai chữ thanh niên. Lúc
người Pháp trở lại chiếm Nam Việt cuối năm 1945, Thanh Niên Tiền
Phong đă huy động người ái quốc Việt Nam ở Nam Việt đứng lên chống
lại họ dưới lá cờ vàng sao đỏ và bản Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng
Gọi Thanh Niên. Năm 1948, trong phiên họp lịch sử ở Hongkong giữa
Cựu Hoàng Bảo Đại và một số thân hào nhơn sĩ cùng đại diện các đoàn
thể chánh trị và tôn giáo ở Việt Nam, Anh Nguyễn Tôn Hoàn đă đề nghị
lấy bản nhạc của Thanh Niên Hành Khúc làm quốc thiều cho Quốc Gia
Việt Nam. Hội nghị đă đồng ư và tên bản nhạc được đặt lại là Quốc
Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Về lời ca, đoạn I của bài
Thanh Niên Hành Khúc nói trên đây đă được dùng, với hai chữ công dân
thay cho hai chữ thanh niên. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chánh phủ lâm
thời Việt Nam được thành lập với Tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ Tướng
và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân được chánh thức dùng
làm quốc ca. Lúc Ông Ngô Đ́nh Diệm lật đổ Quốc Trưởng Bảo Đại để
thành lập chế độ cộng hoà, Quốc Hội Lập Hiến được bầu năm 1956 đă có
đặt vấn đề chọn một bài quốc ca khác. Tuy nhiên, lúc đó, phần lớn
các bản nhạc được đề nghị dùng làm quốc ca đều không đủ tiêu chuẩn
để được chấp nhận. Bài duy nhứt được xem là xứng đáng làm quốc ca
chính là bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông của nhạc sĩ Hùng Lân đă
được chánh phủ Trần Trọng Kim chọn làm quốc ca năm 1945. Tuy nhiên,
hai Ông Ngô Đ́nh Diệm và Ngô Đ́nh Nhu cuối cùng đă không chấp nhận
việc dùng bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông làm quốc ca v́ một lư do
đặc biệt. Năm 1945, hai Đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và Đại
Việt Quốc Dân Đảng (ĐVQDĐ) đă sáp nhập lại làm một với tên chung là
Quốc Dân Đảng và Đảng này đă lấy bài Việt Nam Minh Châu Trời Đông
làm đảng ca. Sau đó, VNQDĐ và ĐVQDĐ lại tách nhau ra, nhưng cả hai
đều giữ đảng ca Việt Nam Minh Châu Trời Đông. V́ biết được việc này
nên hai anh em Ông Diệm đă không chấp nhận bản nhạc này làm quốc ca.
Rốt cuộc, Quốc Hội Lập Hiến năm 1956 đă quyết định giữ lại bản Quốc
Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân làm quốc ca, nhưng đổi lời lại
như sau:
Này công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Đồng ḷng cùng đi, hy sinh tiếc ǵ thân sống!
V́ tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù nước lấy máu đào đem báo.
Ṇi giống lúc biến phải cần giải nguy,
Ngưoi công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!
(Điệp khúc) Công dân ơi! Mau hiến thân dưới cờ!
Công dân ơi! Mau làm cho cơi bờ
Thoát cơn tàn phá, vẻ vang đời sống
Xứng danh ngàn năm ḍng giống Lạc Hồng.
Bản nhạc và lời ca này đă được dùng suốt thời Đệ
Nhứt và Đệ Nhị Cộng Ḥa cho đến ngày nay.
C. VẤN ĐỀ THAY ĐỔI QUỐC CA
Nói tóm lại, trừ các bản nhạc vô duyên đă được
Nam Kỳ Cộng Ḥa Quốc dùng làm quốc ca, nhưng thật sự không thể xem
là quốc ca được, dân tộc Việt Nam có cả thảy bốn bản nhạc xứng đáng
với danh nghĩa quốc ca là Đăng Đàn Cung, Việt Nam Minh Châu Trời
Đông, Tiến Quân Ca và Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bốn
bản quốc ca này đă được dùng song song với bốn lá quốc kỳ: bản Đăng
Đàn Cung với cờ long tinh, bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông với cờ
quẻ Ly, bản Tiến Quân Ca với cờ đỏ sao vàng và bản Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân với cờ vàng ba sọc đỏ
. 1. So sánh các bản quốc ca với nhau Bản Đăng Đàn Cung là bản nhạc
cổ điển Việt Nam thuộc loại nhă nhạc. Loại nhạc này có tánh cách
nghiêm trang và ôn ḥa, trái với dâm nhạc là loại nhạc biểu lộ t́nh
cảm một cách nồng nhiệt và chỉ được dùng trong việc giải trí hay hội
họp vui chơi. Bản Đăng Đàn Cung là một bài nhă nhạc dùng trong lễ tế
Nam Giao của nhà vua. Do đó, nó có tánh cách trang trọng, nhưng
không hùng hồn và không khích động được tinh thần người nghe. Bản
Việt Nam Minh Châu Trời Đông là một bản tân nhạc có tánh cách khích
động hơn bản Đăng Đàn Cung, nhưng cái hùng của nó là loại trầm hùng
nên không khích động tinh thần người nghe bằng bản Quốc Dân Hành
Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. V́ là một hành khúc, bản quốc ca hiện
nay của chúng ta khích động tinh thần người nghe một cách mạnh mẽ
hơn. Mặt khác nữa, hoàn cảnh lịch sử đă làm cho nó đóng một vai
tuồng tích cực trong cuộc tranh đấu cho nền độc lập và tự do của dân
tộc Việt Nam. Thời Thế Chiến II, với tên là Sinh Viên Hành Khúc, nó
đă được dùng để đánh thức tinh thần tranh đấu của nhơn dân Việt Nam.
Đến lúc người Pháp đem binh đến để tái chiếm Nam Việt, dưới tên
Thanh Niên Hành Khúc hay Tiếng Gọi Thanh Niên, nó đă được dùng để
thúc đẩy các chiến sĩ cầm tầm vong vạt nhọn đứng lên tranh đấu với
Quân Đội Viễn Chinh Pháp. Khi nước Pháp chánh thức nh́n nhận nền độc
lập và thống nhứt của Việt Nam, nó đă thành bản quốc ca với tên là
Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân. Bản Tiến Quân Ca của CSVN
cũng có tánh cách khích động tinh thần người nghe như bản quốc ca
của chúng ta. Nhưng về lời ca th́ từ h́nh thức Sinh Viên Hành Khúc
qua Thanh Niên Hành Khúc đến Quốc Dân Hành Khúc, bản quốc ca của
chúng ta nhiều lắm là nói đến “thù nước lay máu đào đem báo”, c̣n
Tiến Quân Ca với lời “thề phanh thây uống máu quân thù” rơ là sắt
máu quá và có thể làm cho thế giới xem dân tộc Việt Nam là dă man.
Về mặt chánh trị, bản Thanh Niên Hành Khúc đă được dùng để thúc đẩy
các thanh niên ái quốc Nam Việt cầm tầm vông vạt nhọn chống lại Quân
Đội Viễn Chinh Pháp trong khi bản Tiến Quân Ca đă được trổi lên để
chào đón Quân Đội này lúc họ đổ bộ ra Bắc Việt theo sự thoả thuận
với Hồ Chí Minh trong Sơ Ước ngày 6 tháng 3 năm 1946. Sau đó, nó đă
được dùng khi bộ đội Việt Minh cùng với bộ đội Pháp hợp tác nhau
trong Ban Liên Kiểm Việt-Pháp để tiến đánh các chiến khu của Đại
Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng
Đồng Minh Hội.
2. Lư luận của những người muốn đổi quốc ca Những người muốn đổi
quốc ca đă đưa ra nhiều lư luận khác nhau. Trong các lư luận được
đưa ra, chỉ có một cái đáng cho chúng ta lưu ư. Lư luận này đặt nền
tảng trên chỗ tác giả bản nhạc được chúng ta dùng làm quốc ca là Lưu
Hữu Phước, hiện là một cán bộ cộng sản, và Lưu Hữu Phước đă lên
tiếng sỉ vả người quốc gia Việt Nam là vô liêm sỉ khi lấy bản nhạc
của anh ta và đặt lại lời ca để dùng. Một số người quốc gia Việt Nam
đă tỏ ra khó chịu về việc này và những người muốn thay đổi quốc ca
đă dựa vào đó để kêu gọi mọi người bỏ bản quốc ca hiện tại.
a. Nhận định về cá nhơn Lưu Hữu Phước V́ lư luận trên đây dựa vào cá
nhơn Lưu Hữu Phước nên chúng ta cần phải biết về cá nhơn này trước
khi phán đoán. Thời Thế Chiến II, Lưu Hữu Phước là một sinh viên có
tinh thần quốc gia và cũng như nhiều sinh viên khác của Viện Đại Học
Hà Nội, chỉ có chủ trương giành độc lập cho Việt Nam mà không gia
nhập đoàn thể chánh trị nào. Lúc CSVN chưa cướp được chánh quyền,
Lưu Hữu Phước đă hoạt động với Anh Nguyễn Tôn Hoàn là một cán bộ của
Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Viện Đại Học Hà Nội. Lúc CSVN cướp được
chánh quyền, Lưu Hữu Phước và một số sinh viên khác gia nhập Đảng
Tân Dân Chủ, một chánh đảng hợp tác với CSVN trong Mặt Trận Việt
Minh, nhưng lúc đầu phân biệt với Đảng CSVN và nhiều khi cạnh tranh
lại đảng này. Tuy nhiên, bằng cách vừa mua chuộc, vừa lấn ép, CSVN
đă lôi phần lớn các đảng viên Tân Dân Chủ vào Đảng CS và chỉ c̣n
dùng tên Đảng Tân Dân Chủ làm một nhăn hiệu để làm cho người ta lầm
tưởng rằng chế độ họ xây dựng lên không phải là chế độ độc đảng. Lưu
Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Đảng
CS. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra
khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt
máu để được CSVN tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần
Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh
trị mà CSVN có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu
Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, CSVN đă dùng anh ta như một văn
công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác
những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đă sáng tác bản
nhạc của Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân lúc c̣n là một
sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công
của CSVN và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng CSVN mớm
cho.
b. Quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc ca Nhưng
dầu cho lúc sáng tác bản nhạc của Quốc Dân Hành Khúc, Lưu Hữu Phươc
đă là một đảng viên cộng sản rồi và việc chỉ trích chúng ta dùng bản
nhạc đó là do ư anh ta, chúng ta cũng không phải bận tâm về vấn đề
này, v́ theo quan niệm chung của người các nơi trên thế giới về quốc
ca th́ khi một bản nhạc đă được quốc dân nhận làm quốc ca, nó không
c̣n của riêng ai nữa mà là của toàn dân. Do đó, cá nhơn người sáng
tác bản nhạc cũng như người chọn bản nhạc làm quốc ca không thành
một vấn đề đem ra thảo luận. Chúng ta có một tiền lệ đáng lưu ư về
việc này. Đó là trường hợp bản Marseillaise được dùng làm quốc ca
Pháp. Bản quốc ca này được một nhà quí tộc Pháp là Rouget de Lisle
sáng tác năm 1792. Lúc ấy, Vua Louis thứ XVI c̣n trị v́ và Rouget de
Lisle là một sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1793, Vua Louis thứ
XVI bị xử tử và Rouget de Lisle bị bắt v́ là người quí tộc theo phe
bảo hoàng chống lại Cách Mạng. Lúc ấy, Ông Lazare Carnot, Ủy Viên
Quốc Pḥng của Hội Đồng Cách Mạng v́ muốn cứu một sĩ quan cùng binh
chủng với ḿnh, lại là tác giả bản Marseillaise, đă đề nghị Rouget
de Lisle tuyên thệ trung thành với Cách Mạng th́ sẽ được tha, nhưng
Rouget de Lisle từ chối v́ không chịu phủ nhận lư tưởng bảo hoàng
của ḿnh. Cuối cùng, ông ta chỉ thoát chết v́ chánh phủ cách mạng
chủ trương Đại Khủng Bố do Robespierre cầm đầu đă bị lật đổ trước
khi bản án tử h́nh của ông ta được đem ra thi hành. Nhưng mặc dầu
sau năm 1793, Rouget de Lisle đă trở thành người chống lại Cách
Mạng, chánh quyền cách mạng Pháp vẫn tiếp tục dùng bản Marseillaise
do ông sáng tác và năm 1795 đă chánh thức quyết định lấy nó làm quốc
ca.
c. Trường hợp bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca
Bản Tiến Quân Ca được tập đoàn CSVN dùng làm quốc ca vốn do nhạc sĩ
Văn Cao sáng tác trong thời kỳ CSVN chưa cướp được chánh quyền ở
Việt Nam. Không rơ lúc ông sáng tác bản nhạc này, Văn Cao đă là một
đảng viên cộng sản hay chưa. Nhưng chắc chắn là về sau, ông đă vào
Đảng CSVN. Tuy nhiên, cũng như nhiều văn nghệ sĩ có nhiệt tâm yêu
nước thời đó, Văn Cao đă lần lần nhận chân được bộ mặt thật của Cộng
Sản. Điều đáng quí là ông đă can đảm hơn nhiều người khác như Lưu
Hữu Phước chẳng hạn, và đă dám nói lên sự bất măn và chống đối của
ḿnh. Ông đă tham dự phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm 1956 và
đă dứt khoát chống lại Đảng CSVN. Trong con mắt của CSVN hiện nay,
Văn Cao là một phần tử phản Đảng, phản động, phản cách mạng. Với chủ
trương độc tài sắt máu và ḷng tự hào là Đảng ḿnh lúc nào cũng hành
động hợp với chánh nghĩa, CSVN rất xấu hổ về chỗ bản quốc ca họ dùng
là sáng tác của một nhạc sĩ phản Đảng, phản động và phản cách mạng.
Bởi đó, họ không chịu theo quan niệm thông thường bắt đầu với lịch
sử bản Marseillaise của Pháp, nghĩa là bất chấp lập trường chánh trị
về sau của tác giả bản quốc ca. Họ đă treo một giải thưởng lớn cho
người sáng tác được một bản nhạc đáng làm quốc ca mới. Nhưng trong
nhiều trăm bản nhạc gởi đến dự thi, họ đă không chọn được bản nào ra
hồn. Cuối cùng, họ phải hậm hực giữ bản Tiến Quân Ca làm quốc ca.
Người quốc gia Việt Nam chúng ta theo quan niệm thông thường trên
thế giới về quốc ca nên không có ǵ phải hậm hực v́ tác giả bản quốc
ca chúng ta đang dùng hiện đă trở thành một văn công của CSVN. Và
nếu có người nào đem việc Lưu Hữu Phước sỉ vả chúng ta về chỗ đă lấy
bản nhạc do anh ta sáng tác làm quốc ca, chúng ta có thể bảo họ nên
dùng các lời sỉ vả đó đặt trong miệng Văn Cao để gởi cho tập đoàn
CSVN. 3. Nhiệm vụ của người quốc gia Việt Nam đối với bản quốc ca
Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân Người quốc gia Việt Nam
may mắn có một bản quốc ca hùng hồn được dùng để thúc đẩy người ái
quốc tranh đấu cho nền độc lập và sự tự do của dân tộc. Bản quốc ca
này rất xứng đáng với lá quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ. Với giá trị nội
tại của chính nó, thêm vào vai tuồng lịch sử mà nó đă đóng, nó lúc
nào cũng gây sự xúc động mạnh mẽ trong tâm trí người Việt Nam ái
quốc. Từ khi được chánh thức dùng làm quốc ca của nước Việt Nam độc
lập, nó đă được nhiều quốc gia trên thế giới biết đến. Tại Việt Nam,
nó đă cùng với quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ làm yếu tố hội tập nhiều
triệu chiến sĩ quân nhơn như dân sự tranh đấu cho sự tự do của dân
tộc Việt Nam. Nó đă là bản nhạc tiễn đưa ra nghĩa trang nhiều trăm
ngàn người đă chết v́ Tổ Quốc Việt Nam. Như vậy, nó cũng là một bảo
vật thiêng liêng của chúng ta y như quốc kỳ. Hiện nay, bản Quốc Dân
Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân không c̣n được chánh thức dùng bên
trong nước Việt Nam, nhưng như mọi người Việt Nam ở quốc nội đều
biết rằng đó là bản nhạc của người quốc gia chống lại Cộng Sản. Bên
ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là bản nhạc biểu
tượng cho người quốc gia chống cộng. Không bản nhạc nào khác có thể
thay thế Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công Dân về mặt này. Vậy,
việc tôn trọng bản quốc ca đó và tiếp tục dùng nó chung với quốc kỳ
nền vàng ba sọc đỏ một cách rộng răi ở mọi nơi là một công cuộc đóng
góp vào việc giải phóng Việt Nam khỏi ách Cộng Sản. Nếu mọi người
Việt Nam ở hải ngoại đều đồng tâm nhứt trí để tranh đấu chung nhau
th́ một ngày không xa lắm, bản Quốc Dân Hành Khúc hay Tiếng Gọi Công
Dân sẽ được hát lên ở khắp các nẻo đường đất nước Việt Nam từ mũi Cà
Mau đến ải Nam Quan. Chúng tôi nghĩ rằng lúc ấy, chắc chắn không có
bài khải hoàn ca nào hay hơn nó được.
Giáo Sư NGUYỄN NGỌC HUY
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh