Trần Xuân Thời
Người ta thường nói đến tâm lư quần chúng, tâm lư xă hội, nhưng ít nghe ai nói đến “tâm lư chính trị”. Thật ra tâm lư chính trị thường được thể hiện qua “diễn đàn chính trị” nghĩa là tư tưởng lên khuôn cho hành động theo nhiều chủ trương, đường lối khác nhau, gọi chung là lập trường chính trị...
Hành động nào cũng thường nhắm thực hiện một chủ đích, một sứ mệnh. Từ quan niệm tồn cổ, những ǵ do quá khứ tạo nên và lưu truyền lại cho hậu thế đều tốt đẹp, đều đáng quí, đáng học hỏi và đáng được xem là khuôn vàng thước ngọc, “Xưa Bày Nay Làm” hoặc hiện tại đáng yêu, đáng mến, đáng duy tŕ không cần phải thay đổi, đến quan niệm cải cách, phá hoại truyền thống, khuynh đảo trật tự xă hội đương thời để thay thế bằng cơ cấu tổ chức và trật tự mới, con người đă đi từ quan niệm cực hữu (reactionary-rightist) đến quan niệm cực tả (radical-leftist).
Trong quần chúng có những người đắn đo kỹ lưỡng trước khi chấp nhận một lập trường vĩnh viển, cũng có người thay đổi lập trường tùy hoàn cảnh. Dù trong hoàn cảnh nào, lập trường chính trị cá nhân hay tập thể thường được thể hiện qua bốn ư niệm chính:
1. Cực tả /Cách mạng (Radical extremist /revolutionay); 2. Cấp tiến (Liberal/ Progressive); 3. Bảo thủ (Conservative); 4. Cực hữu / Phản cách mạng (Far right/ Reactionary). Các “nhăn hiệu” này thường được đề cập trên sách báo hiện hành, nhất là tại các nước dân chủ, trong đó người công dân có quyền tự do ngôn luận và có quyền gán bất cứ “nhăn hiệu” nào cho người đối lập trong phạm vi tự do tư tưởng theo luật định.
1. Cực tả/Radical extremist
Chúng ta thường gọi người theo chủ thuyết cộng sản là “bọn phá hoại”
(radical). Người cộng sản gọi là cách mạng (revolutionary). V́ cộng
sản chủ trương tiêu diệt tư bản chủ nghĩa, đả phá hệ thống xă hội
đương thời tận gốc rễ. Nói khác đi kẻ chống đối phải bị thủ tiêu.
Ngôi nhà cũ th́ phải bị triệt hạ, đập nát để xây ngôi nhà mới, không
cần tu bổ hay sửa chữa. Thay đổi tận gốc rễ như chính sách cải cách
điền địa của nhà nước cộng sản. Cộng sản không những chỉ tịch thu
ruộng đất mà c̣n đấu tố, sát hại các địa chủ nhằm khủng bố và triệt
tiêu đầu óc tiểu tư sản như đă áp dụng ở các nước cộng sản “Trí,
phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.
Đa số những người theo Cộng sản hoặc v́ hận thù, hoặc v́ nhẹ dạ, nóng ḷng thay đổi, nghe theo lời hứa hẹn hảo huyền, những lời hứa hẹn không mất tiền mua của các “Đỉnh cao trí tuệ CS”. CS không hề có chủ tâm thực hiện điều họ hứa hẹn, như triết gia chính trị Edmund Burke đă nhận xét “Hypocrisy can afford to be magnificient in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”. Những người mù quáng mơ ước thiên đường cộng sản, ngày nay đă dần dần vỡ mộng. Thực tế chứng minh các lănh tự CS Đông Âu, Trung Quốc hay Việt Nam đều lợi dụng giới vô sản, bần cố nông để dành quyền lực với danh nghĩa giả tạo, hứa hẹn hảo huyền sẽ mang lại “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Sau khi cướp được chính quyền, các đảng vỉên CS trở thành tư bản đỏ, triệu phú, tỷ phú, nhà cao cửa rộng, aó xiêm buộc trói lấy nhau, nắm giữ các đặc quyền đặc lợi.
Thực sự, không hề có tự do, hạnh phúc thực sự trong một xă hội mà chính quyền không tôn trọng luân thường đạo lư. “Liberty does not exist in the absence of morality”. Không có luân lư, đạo đức th́ không thể có tự do. Người đời gọi chủ nghĩa Cộng sản vô thần hay chủ nghĩa Tam Vô: (1) Vô gia đ́nh; CS xoá bỏ đơn vị căn bản của cơ cấu xă hội là gia đ́nh, khuyến khích con cái đấu tố cha mẹ, triệt tiêu liên hệ thân tộc; (2) Vô Tổ quốc: Cộng Sản chủ trương xoá bỏ biên giới quốc tổ để hoà ḿnh vào thế giới vô sản đại đồng. Ông HCM chủ trương chiến đấu cho đến người Việt cuối cùng, v́ đảng CSVN không chiến đấu cho sự sinh tồn giống tộc Việt Nam mà đem xương máu dân Việt chiến đấu cho chủ nghĩa CS, cho quan thầy Nga Sô, Trung cộng; (3) Vô Tôn giáo v́ CS chủ trương tôn giáo là thuốc phiện mê hoặc ḷng người.
Tôn giáo hướng thượng con người. Giúp con người tạo cho ḿnh một lư tưởng để sống vượt lên trên loài thú v́ loài thú chỉ sống theo bản năng, duy vật, không có lư tưởng cao cả. Con người biết sống, hành thiện đời nầy để hưởng phước đời sau. Đó là chủ đích của đời người mà nhân loại hướng đến qua sự chấp nhận và thi hành tín điều do các tôn giáo truyền dạy. Hay nói khác đi, người không thể xứng danh là con người trọn vẹn nếu không có lư tưởng cao cả. Tổng Thồng Hoa Kỳ Calvin Coolidge (1872-1933) đă nhận xét, chỉ khi nào con ngựi có tín ngưởng mới có thể sống đời sống trưởng thành “ It is only when men begin to worship that they begin to grow”.
Cộng sản duy vật quan niệm con người chỉ là sản phẩm thiên nhiên (product of natural selection) như các lănh giới khoáng vật, thực vật hay muôn thú khác. Đảng viên CS được đào luyện, nuôi ảo tưởng tự cho ḿnh thuộc giai cấp đỉnh cao trí tuệ, nhưng thực sự đa số thiếu tŕnh độ hiểu biết về thực chất của chủ nghĩa CS. Nhân xét nầy được thể hiện phần nào qua lời chứng được ghi nhận trong vụ án Flemming v. Nestor 363.U.S. 603 (1960). Nestor, an alien, became eligible for Social Security payments in 1955. In July 1956 he was deported for having been a member of the Communist Party from 1933 to 1939. Section 202(n) of the Social Security Act provided for the termination of Social Security payments when an alien is deported for being a member of the Communist Party. “Ephram (Fedya) Nestor, a Bulgarian-born immigrant to the United States, was “an unusual person,” according to his second wife Barbara. She met him in 1933 when he was selling vegetables from his car and remembers not really liking him. “He stayed too long,” he “talked too much,” and worst of all to this devoted radical, he “passionately espoused the cause of Communism [but] he didn't know too much about it.” Interviewed when she was ninety, sharp-witted Barbara Nestor still recalled how Fedya embarrassed her at a Marxist study group with his “foolish” statements and obvious lack of knowledge about Marx or communism. His family agreed he was “not much of a Communist” when he joined the local party in 1936 and could not be trusted with the simplest duties. Nonetheless, the federal government deported Fedya in 1956 for his brief Communist Party (CP) membership.”
Trước khi bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Cộng Sản ra đời năm 1848. Thủ lănh của tôn giáo lớn nhất hoàn vũ, Đức Giáo Hoàng Piô Thứ 9 (Pope Pius IX), năm 1846 đă cảnh giác thế giới về hiểm hoạ của chủ nghĩa Cộng sản: “The unspeakable doctrine of Communism, as it is called, a doctrine most opposed to the very natural law. For if this doctrine were accepted, the complete destruction of everyone's laws, government, property, and even of human society itself would follow.” (Thông Điệp Qui Pluribus.16, ngày 9/11/1846). Cái học thuyết nguy hại mà người ta gọi là chủ nghĩa Cộng Sản từ bản chất trái với luật thiên nhiên (Thiên luật), mỗi khi được chấp nhận, tà thuyết đó sẽ tiêu diệt hết nhân quyền, mọi định chế công quyền hợp pháp, quyền tư hữu và chính xă hội loài người.
Nhiều quốc gia đă xoá bỏ chủ nghĩa CS. Nhiều người đă ly khai đảng CS, mặc dù trước đây họ đă hết sức hăng hái mang nhăn hiệu cách mạng, hănh diện là đô đệ của đệ nhất, đệ nhị hoặc đệ tam Cộng Sản Quốc Tế. Chủ nghĩa CS đă tạo nên những kẻ sát nhân như Stalin đă tán sát hơn 20 triệu người, Mao Trạch Đông giết trên 70 triệu người, Hồ Chí Minh, cũng như Pol Pot được liệt kê vào danh sách của những kẻ diệt chủng nỗi tiếng nhất trên thế giới.( Mao: The Unknown Story, Jung Chang)
Tại Hoa Kỳ, môn phái cực tả quá khích đă phát triển từ cuộc suy sụp về kinh tế năm 1929. Họ chủ trương tái tạo xă hội Hoa Kỳ mới, dựa trên căn bản lư thuyẽt của Karl Marx. Họ hỗ trợ tích cực các phong trào công dân thợ thuyền với khẩu hiệu “Not Black, not white Power but Worker’s Power”, như là phương tiện gián tiếp để cộng sản hóa Hoa Kỳ... Môn phái cực tả chủ trương canh tân các chương tŕnh xă hội, tôn giáo và xă hội Hoa Kỳ theo quan điểm của Chủ nghĩa Cộng Sản.
Hiện nay có hai nhóm cực tả: Nhóm thứ nhất chủ trương cải cách xă hội bằng phương tiện cách mạng bạo động và sắt máu. Nhóm thứ hai chủ trương cải tổ ôn hoà bằng cách lợi dụng quyền đầu phiếu. Các nhóm này lôi cuốn một số người nhẹ dạ, nhưng không đủ khả năng lôi cuốn quần chúng và chính quyền. Những người này thường không liên kết với đảng Cộng Ḥa hay Dân Chủ. Những người Mỹ theo đường lối này thường áp dụng chính sách mỵ dân. Chủ trương tự do cá nhân phải có tính cách tuyệt đối nhằm dụ hoặc quần chúng. Họ chủ trương cứu cánh biện minh cho phương tiện, nghĩa là dùng bất cứ phương tiện tốt, xấu ǵ cũng được miễn là đạt được kểt quả mong muốn. Họ tuyệt đối tin tưởng vào chương tŕnh cải cách Chủ nghĩa CS là thể chế hoàn mỹ, không có chủ nghĩa nào có thể thay thế…
Các tổ chức tả phái của Hoa Kỳ đă từng hoạt động
như Communist Party - USA, W.F.B Dubois Club of America, Progressive
Labor Party, Socialist Labor Party, Socialist Worker Party, Young
Socialist Alliance, Spartacist League, Guardian, Worker League,
World Socialist Party of USA, Ramparts, Monthly Review.... Mỗi tổ
chức đều ấn hành tạp chí để phổ biến chủ trương đường lối cho hội
viên và quần chúng. Cũng nên lưu ư là ngược lại danh từ Radical ngày
nay c̣n được dùng để mệnh danh những phần từ chủ trương đả phá chế
độ cộng sản tại Nga và các nước Cộng Sản Trung Âu hay những phần tử
quá khích như “Radical Islamite” ………
2. Cấp tiến/ Liberal:
Chủ trương thay đổi với mức độ ôn hoà thường được gọi là cải cách
(reformer/liberal). Những người cấp tiến sẵn sàng chấp nhận sự thay
đổi nhưng không có tính cách đả phá, hủy hoại chế độ hay hệ thống
đựơng thời. Tu bổ, sữa chữa lại ngôi nhà đang cư ngụ hơn là áp dụng
phương thức phá hoại như Cộng Sản đă và đang áp dụng. Cộng Sản chủ
trương đốt nhà để cho nhân dân sống cảnh màn trời chiếu đất, nghĩa
là chịu hy sinh cực khổ trong hiện tại, trong lúc xây cất lại ngôi
nhà mới nhưng không biết bao giờ ngôi nhà mới hoàn thành.
Những người chủ trương thay đổi cải cách thường
chấp nhận chủ thuyết của đảng Dân Chủ hoặc cấp tiến, đều có khuynh
hướng cải cách xă hội, và thường được quần chúng Mỹ liệt vào loại
thiên tả ôn hoà (leftist) v́ đảng CS được tự do hoạt động tại Mỹ
dưới nhiều h́nh thức, kể cả h́nh thức đoàn thể xă hội và lợi dụng
các quyền tự do để bành trướng. Danh từ “Liberal” phát xuăt từ thể
kỷ thứ 19 do tiếng Tây Ban Nha, tên của một chính đảng ở quốc gia
này. Chính đảng này chủ trương chính quyền lập hiến, dành nhiều tự
do cho công dân hơn là chính quyền chuyên chế. Đảng viên Liberal tin
tưởng vào khả năng của công dân biết xử dụng quyền hành của ḿnh một
cách xứng đáng. Trong cuộc tranh cử Tổng thống năm 1988, ứng cử viên
TT Bush đă nhận xét ứng cử viên TT Dukakis là “Liberal”. Dù danh
hiệu này rất thông dụng, nhưng hiện nay vẫn chưa gây được xem là ư
niệm tốt trong tâm lư quần chúng v́ có tính cách thiên tả và các
phương pháp cải cách của tả phái.
3. Bảo thủ/ Conservative
Khác với hai chủ trương nêu trên (radical và liberal) có tính cách
khuynh tả (leftist), theo quan niệm hiện hành của đa số công dân Hoa
Kỳ. Những người chủ trương bảo thủ (conservative) ôn hoà bằng ḷng
với hiện tại. Họ cho rằng hiện tại vẫn tốt đẹp, không cần phải thay
đổi. Những người này thường chủ trương hỗ trợ đảng Cộng Hoà. Danh từ
Bảo thủ nghĩa là bảo tồn, như bảo tồn truyền thống, thuần phong mỹ
tục và định chế chính quyền dân chủ đă được h́nh thành qua kinh
nghiệm chung của nhân loại. Môn phái bảo thủ cũng chống lại chủ
trương tự do quá trớn hay tự do phóng nhậm, v́ tự do cũng cần phải
được giới hạn để mọi người có cơ hội hưởng tự do đồng đều. “The
extreme liberty as we all know, in every point, is destructive to
both virtue and enjoyment” (Edmund Burke).
Sở dĩ đảng Cộng Hoà dành được thắng lợi trong các
cuộc tranh cữ Tổng thống ba nhiệm kỳ liên tiếp trong 12 năm
(1981-1993), một phần cũng nhờ dân chúng nh́n thấy t́nh trạng xă hội
đương thời không cần thay đổi nên đă dồn phiếu cho đảng Cộng Hoà
thay v́ bầu cho Dân Chủ. Đa số những người trung niên, giới trí thức
và lăo niên chấp nhận khuynh hướng bảo thủ. Khuynh hướng này đang là
những làn sóng ngầm ảnh hưởng đến tâm lư quần chúng hiện nay khiến
cho những đề nghị cải cách táo bạo không có cơ hội phát triển.
4. Cực hữu/ Reactionary
Lớp người bảo thủ cực hữu (reactionary/far right) là những người vẫn
thích thay đổi, nhưng thích tồn cổ hơn. Những ǵ do tiền nhân để lại
đều đáng quí trọng, đáng được học hỏi, đáng bảo tồn, đúng với câu
“xưa bày nay làm”, và thích trở lại nhũng ngày vàng son của thời đại
vua Nghiêu, vua Thuấn. Những người này đương nhiên không chấp nhận
thái độ cách mạng, phá hoại truyền thống của Cộng Sản nên đă gây trở
ngại cho sự bành trướng của Cộng Sản. Cộng sản gọi những người quốc
gia chống cộng thuộc khuynh hướng cực hữu là thành phần “phản động”
(right wing extremist/ Reactionay).
Tại Hoa Kỳ hiện nay có một số tổ chức chủ trương cực hữu như John Birch Society, 20th Century Reformation Hour, Life Line, Christian Crusade, Manion Forum, Christian Anti-Communist Crusade, Liberty Lobby, Conservative Society of America, Church League of America, Harding College’s National Education Program, Richard Cotten, Christian Freedom Foundation, v.v. những người di dân từ các nước Đông Âu bị Hồng quân Nga chiếm đóng sau đệ nhị thế chiến hoạt động mạnh trong các tổ chức cực hữu.
Mỗi cơ quan đều có tạp chí để phổ biến đường lối trong quần chúng. Chủ trương quốc gia cực hữu nhất quyết không công nhận cộng sản dưới bất cứ h́nh thức nào, đă đang là thành tŕ chống cộng hăng hái nhất hiện nay. Tâm lư chính trị tại Miền Nam VN trước 1975 cũng vậy, không chấp nhận CS dưới bất cứ h́nh thức nạ nên đă bị trục xuất ra Bắc một số điệp viên CS len lỏi vào chính quyền Miền Nam . Trong lịch sử xây dựng nền dân chủ taị Nhă Điễn (Athens) Thủ đô của Hy lạp, năm 461 trước Công Nguyên, Pericles cũng đă dùng biện pháp an trí (ostracism) các phần tử chống đối ra khỏi thành Athens một thời hạn tối đa 10 năm. Nền dân chủ tại Nhă Điển thời bấy giờ là nền dân chủ trực trị như h́nh thức Hội Nghị Diên Hồng, người dân trực tiếp tham gia bàn luận kế sách về thuế khóa, hoà hay chiến…
Tâm lư chung của những người bảo thủ cho rằng không phải người nào cũng đáng tin cậy, cho nên phải “chọn mặt gởi vàng”. Họ không hẵn tin tưởng vào khả năng của công dân có thể quyết định sáng suốt, nên họ chủ trương cần có chính quyền. Họ chủ trương quốc gia cần được giai cấp ưu tú (enlightened group) lănh đạo. Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 cũng do các vị khai quốc công thần ưu tú soạn thảo. Quốc hội Hoa Kỳ cũng gồm hai viện. Thượng Viện thể hiện giá trị truyền thống, tôn trọng kho tàng văn hiến, khôn ngoan đă được tích lũy qua hàng trăm năm lịch sữ.
Trong bài diễn văn lịch sử đọc tại Gettysburg, PA năm 1863, Tổng Thống Abraham Lincoln đă tái xác nhận Hoa Kỳ sẽ được tái sinh trong Ơn Thánh Chúa là quốc gia tự do của dân, bởi dân, để phục vụ nhân dân và sẽ không biến mất trên thế gian nầy: “This nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.” (Abraham Lincoln, November 19, 1863)
Trong thời gian chiến tranh lạnh sau thế chiến thứ hai, giữa hai khối Tự do và Cộng sản, Mao Trạch Đông đă từng khích lệ các lănh tụ CS Nga sô tấn công tiêu diệt Hoa Kỳ. Năm 1963 dưới thời TT Kennedy, Nga Sô đă đem hoả tiển thiết trí tại Cuba, chỉ cách Hoa kỳ 90 miles. Hoa kỳ phản ứng mạnh mẽ, một mặt phong toả vịnh Cuba, mặt khác ra lệnh chuẩn bị tấn công, nếu Nga Sô không tháo gở các dàn hoả tiển. Nga Sô sợ Thượng Đế bảo vệ Hoa Kỳ qua lời “Sấm” của Tổng Thống Lincoln “Hoa Kỳ sẽ không biến mất trên thế gian nầy” bèn lui binh vô điếu kiện!
Xă hội Hoa Kỳ đă và đang được thay đổi bằng những cải cách tiệm tiến, tuy chậm nhưng chắc, cũng nhờ những anh tài thực sự nỗ lực làm việc v́ quốc gia dân tộc. Thay đổi nhanh chóng theo kiểu cách mạng cộng sản, thiếu suy tư và thiếu điều nghiên kỹ lưỡng đă đưa đẩy các nước cộng sản đến bờ vực thẳm, thảm khốc về cả hai phương diện kinh tế lẫn chính trị.
Những người cực hữu chống Cộng Sản mănh liệt tại Hoa Kỳ cũng như các nước tự do trên thế giới, nhiều khi “dùng gậy ông để đập lưng ông”, nghĩa là “dĩ độc trị độc”. Họ dùng ngay phương pháp cộng sản để trị cộng sản. Họ là những người lớn tiếng cảnh giác quần chúng về hiểm hoạ cộng sản trước và sau khi bản Tuyên Ngôn Quốc Cộng Sản ra đời. Trong suốt 100 năm nay từ khi cuộc cách mạng Cộng Sản năm 1917 xảy ra tại Nga sô, những người chống cộng cực hữu chấp nhận thái độ bất cộng đái thiên với cộng sản, đa số không v́ tư lợi cá nhân mà chỉ v́ quốc gia dân tộc. Họ sẵn sàng chống đối những ǵ sinh lợi cho cộng sản, kể cả vấn đề bang giao, viện trợ cho thế giới cộng sản. Nhờ đó vào cuối thập niên 1980, Cộng Sản Nga Sô và Đông Âu sụp đổ. Từ sau đệ nhị thế chiến, khối Cộng sản Nga sô Đông Âu và Trung hoa vẫn mua ngũ cốc của Hoa Kỳ v́ nền kinh tế của Nga Sô và Trung hoa tŕ trệ không đủ thực phẩm bán cho quần chúng. Hoa Kỳ thường dùng kinh tế làm đ̣n bẩy để thăng tiến nhân quyền đối các quốc gia Cộng sản hoặc chuyên chế, như Tu Chính Án Jackson-Vanik mà chúng ta thường nhắc đến trong thập niên 1975-85 để tranh đấu cho vấn đề di dân, đoàn tụ gia đ́nh, phóng thích tù nhân chính trị từ các nước CS Đông Âu hay Á Châu, VN đến Hoa Kỳ. (19 US. Code S.2432 Freedom of emigration in East-West trade).
Những người cực hữu cũng rất quan tâm về sự suy đồi của nền luân lư và giá trị cổ truyền. Họ rất trung thành với giá trị luân lư của đảng Cộng Hoà. Họ thường chống đối những chương tŕnh, kể hoạch mà họ nghĩ là do cộng sản quốc tế hỗ trợ, các tệ đoan như tham những, hối lộ trong công quyền, trong nền tư pháp của Hoa Kỳ và các cơ quan cảnh sát. Họ chủ trương chính quyền có nhiệm vụ giáo huẩn quần chúng để tránh sự lợi đụng của Cộng sản và các phần tử phá hoại. Đặc biệt những người cực hữu hỗ trợ chế độ tự do kinh doanh và tư bản chủ nghĩa và chống đối chế độ xă hội chủ nghĩa do nhóm cực tả chủ trương.
Đặc nét của chính quyền dân chủ là tự do kinh
doanh và tự do cạnh tranh. Tâm lư kinh tế chính trị này thể hiện rỗ
rệt nhất trong các cuộc bầu cử. Cử tri sẽ luận xét về chủ trương và
đường lối của ứng cử viên về phương diện kinh tế nhiều hơn về các
phương diện khác. Sự kiện này cũng hiển hiện ngay trong các nước
cộng sản, v́ t́nh trạng kinh tế suy sụp, quần chúng nghi ngờ khả
năng quản trị của giới lănh đạo, hô hào đ̣i tự do kinh doanh, tự do
dân chủ. V́ thế, bây giờ các nước Đông Âu kể cả Nga Sô không c̣n noi
gương xă hội chủ nghĩa mà ngược các nước nầy noi gương các nước tư
bản để phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của quần chúng. Mark,
Lenin, Stalin, không c̣n là thần tượng mà là tội đồ của các dân tộc
Đông Âu. Do đó chúng ta có thể nói, bất cứ h́nh thức chính quyền nào
mang lại cho quần chúng hạnh phúc, no cơm ấm áo với các quyền tự do
căn bản theo Thiên luật đều được dân chúng hỗ trợ. Tự do dân chủ là
môi trường thuận lợi nhất cho vấn đề phát triển về mọi phương diện
nhân sinh.
5. Sứ mệnh bảo vệ chính nghĩa tự do, dân chủ, nhân quyền
Hoa Kỳ là môt quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do dân chủ,
nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản
lư an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẻ mọi hành vi phá rối trị an
của CS Quốc tế. CIA quản lư an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu
khiến cho Cộng Sản QuốcTế, dù đă chiếm gần một nửa thế giới, từ sau
thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo
thành tŕ của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp
đổ vào cuối thập niên 1980.
Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848-1948), phong trào CSQT đă bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864-1876), Đệ nhị (1889-1918), Đệ tam (1919-1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938-1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản v́ lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10, 1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicolas II.. Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đă thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan .
Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS
quốc tế, Hoa Kỳ đă gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và t́nh báo
quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối
trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đă ban hành luật Alien and Sedition Act
ngăn ngừa và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín chính quyền
địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật Espionage
Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản taị Nga sô.
Năm 1901, Tổng thống William McKingley (bị các phần tử chủ trương vô
chính phủ ám sát). TT thứ 25 của Hoa Kỳ, đă để lại các nhận xét bất
hủ: “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s
all a man can hope for during his life time - to set an example –
and when he is dead – to be an inspiration for history”. Tiểu bang
New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát v́ lư do chính trị
và âm mưu lật đổ chính phủ … Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đă bị
kết án chiếu luật Espionage Act 1917 v́ xách động thanh niên phản
đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại
Ohio, Debs, một thủ lănh CS, đă đọc diễn văn trước 1200 khán giả
nhằm xách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh
nhập ngũ, đă bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California,
Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism
Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính
quyền hợp pháp…. Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lănh tụ CS đă bị
kết án v́ chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ …
Taị nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đă ban hành luật trừng trị các
hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên
bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn c̣n có hiệu lực áp dụng đối
với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên
truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh
quốc nội.
Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa
Cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đaị Học
Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ
CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử ngướ Việt tỵ nạn hải
ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/ 2002, Cộng
đồng người Việt hải ngoại đă nổ lực tranh luận với Đaị học Mass tại
Boston hầu điêù chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.
Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo
là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp
bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác.
Đảng Cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng Cộng sản là
đảng không được luật Massachusetts công nhân. Tổng trưởng Tư pháp có
nhiệm vụ điêù tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các
tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội h́nh sự, không được ứng
cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại
các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục
công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ,
không được nhập tịch v.v…
Luật Massachusetts, Chương 264, Điều 16 ấn định
“…Subversive organizations …mean any form of association…whether
incorporated or otherwise for the common purpose of advocating,
advising, counseling or inciting the overthrow by force or violence
or by any unlawful means, of the government of the Commonwealth or
of the United States”. Điều 16 A “The Communist Party is hereby
declared to be a subversive organization. Điêù 17 “A subversive
organization is hereby declared to be unlawful. Điều 18 “The
attorney general shall bring an action … against any organization
which has reasonable cause to believe is a subversive organization”.
Điều 19 “Any person who becomes or remains a member of any
organization knowing to be a subversive organization shall be
punished by imprisonment in the state prison for not more than three
years ….”. Điều 20 “No person who has been convicted of a violation
of the provisions … of section nineteen … shall be eligible to …
employment … in any public or private institution…The attorney shall
have jurisdiction in equity to restrain and enjoin any such person
from performing such duties.”
Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước Cộng sản v́ lư do
kinh tế, thương măi, an ninh toàn cầu; v́ lư do nhân đạo để nâng cao
sinh hoạt của các lănh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân
bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights civilization) hay
nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm
phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự
do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xoá bỏ làn ranh Quốc, Cộng.
*
Quan niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại
là quan niệm phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng
Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trường
các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia là Thiên Tử, trung gian giữa
Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị v́ thiên hạ. Quan niệm nầy
bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ 20. Tại
Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới
được thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công
nguyên. Các Vua qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong
theo quan niệm Vua là Thiên Tử thay mệnh Trời trị v́ thiên hạ cho
đến đời vua cuối cùng của Triều đại Măn Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.
Bên phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mă, đại diện cho Thần
quyền, là Giáo hội Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như
Giáo Hoàng Lê-ô thứ III năm 800 sau Công nguyên đă tấn phong Hoàng
Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như linh hồn và thể xác
không thể tác rời nhau.”
Khổng giáo quan niệm “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”.
“Dân là nước, vua là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng
học cũng quan niệm “Trung thành bất sự nhị quân”. CS Trung Hoa đă
lợi dụng chủ trương nầy để khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng
CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện Khổng Tử tại một số quốc gia
trên thế giới để bành trướng văn hoá Trung Quốc. Nhưng tiếc thay,
các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan t́nh báo. Sự lạm dụng nầy đă khiến
cho môt số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia
đóng cửa.
Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền
bất khả xâm phạm và nỗi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm
nhân quyền. V́ CS vô thần, không tin con nguời có đời sau, nên không
có tín ngưởng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có
linh hồn, nên cũng sống theo bản năng như muôn thú khác. Ngược lại,
các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền b́nh
đẵng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm
được Tạo hóa ban cho nhân loại.
Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương tôn
trọng nhân quyền, tôn trọng nhân phẩm, nhân vị của con ngướ. Mọi
người được b́nh đẵng, được tạo dựng theo h́nh ảnh của Tạo ho á . Con
người có (1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện
suy luận và phát triển sáng tạo; (2) lư trí (reason) để suy xét,
phân biệt phải trái, thiện các;(3) ư chí (will) để quyết tâm thực
hiện điều ḿnh mong ước hay lư tưởng của ḿnh và (4) tự do (freedom)
để hành động theo lương tri. Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật”
cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.
Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đ́nh, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong BảnTuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 , mở đầu với câu :
“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối căi được.”
CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận
thế giới tự do, v́ nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng
CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rơ CSVN chỉ hứa suông mà
không bao giờ có thành ư thực hiện những điều hứa hẹn. Edmund Burke
rất hữu lư khi nhận xét về những hứa hẹn hảo huyền của các chính
quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificient in its
promises; for never intending to go beyond promises, it cost
nothing”.
Về phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá
ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ư niệm về
nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức
tin (Faith seeking understanding: If you do not believe, you will
not understand) hơn là qua suy lư. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo
Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên chưa trưởng thành để am hiểu các
ư niệm về quyền tự do Tạo Hoá ban cho. Những quyền nầy Tạo Hoá ban
cho mọi người, nhưng Tạo Hoá cũng ban cho con người tự do để chọn sự
lành, lánh sự dữ hay ngược lại.
Ngoài ra, v́ trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc
sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận
được nên chúng ta cần phải có ḷng tin tưỏng để được Thiên khải. Cố
Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đă nhận định: Chỉ khi nào con
người có tín ngưởng mới mong được trưởng thành. “It is only when men
begin to worship that they begin to grow”- “Có cầu mới được, có xin
mới cho, có gơ mới mỡ “.
Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho
nhân loại đă và đang ảnh hưởng đến tâm lư chính trị, tư duy và hành
động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính
trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân
quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm móng
của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ
thứ 18 và vấn đề giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và
sau đó khai triển tại Mỹ sau cuộc nội chiến 1861-1865 trong thế kỷ
thứ 19.
Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ
quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho
nhân loại đă và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối
nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.
Đối nội, một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tai
Hoa Kỳ (1861-1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ,
v́ chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lư, phản bội lư tưởng tự do.
“Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đă trả một giá
rất đắt, đă hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam-Bắc
phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống khả kính Abraham
Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xă hội.
Đối ngoại, Hoa kỳ đă tham chiến chống Đức Quốc Xă và Phát Xít Nhật
trong đệ nhị thế chiến (1939-1945) tại hai mặt trận Âu, Á. Hoa Kỳ đă
hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến th́ Âu
Châu, Phi Châu đă bị Đức Quốc Xă xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu
cũng bị Phát Xit Nhật chiếm đóng th́ vận mệnh của các dân tộc liên
hệ sẽ tang thương như thế nào!.
Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản th́ Trung hoa chẵng những đă
hy sinh 14 triệu người mà c̣n phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa
và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao
giờ mới thoát khỏỉ ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc
chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Viêt Nam, Hoa Kỳ cũng
hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lănh.
Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm
đất, dành dân mà đă thể hiện ư chí bất khuất trong chủ trương “bảo
vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng. Đúng với
triết lư nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:
“Nếu người tốt không ra tay hành động th́ kẻ gian tà chiến thắng
-Evil triumphs if good men do nothing”.
Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lănh Hoa Kỳ, đă
“sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ
đă hy sinh để dành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh,
Pháp, Phi và các nuớc khác tại Âu ch âu, Á ch âu ….Hàng năm đến ngày
kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc nầy đă đem ṿng hoa ra
tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đă hy sinh tánh mạng để giải
phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hy sinh v́ Chính nghĩa, v́ lư
tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.
Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đă
viện trợ hằng ngàn tỷ Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa
kỳ đă lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang
chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân
tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khia cạnh nhân sinh
văn hoá, giáo dục, kinh tế, xă hội, chính trị. Nhờ thế, Nhât Bản đă
chổi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đă trở thành một
quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nuớc tiền tiến Tây phương.
Nhật Bản tuy bai trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đă từng vinh danh
Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của
dân tộc Nhật.
Tại Việt Nam, năm 1975. Công Sản Bắc Việt đă vi phạm Hoà Ứớc Ba Lê
và xâm lăng miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết.
Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dă man, đă trả thù Miền Nam bằng
cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính Miền Nam. Hằng chục
ngàn người đă chết trong ngục tù CS v́ bị tra tấn, đói khát và bệnh
tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đă
chết thảm trên biển cả hay vú thây bên góc rừng, xó núi, trên đường
vượt thoát t́m tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đă gây nên
cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.
6. Tâm lư cử tri
Ngoài các chủ trương thượng dẫn thể hiện qua tâm lư quần chúng, ảnh
hưởng trầm trọng đến kết quả các cuộc tranh cử cấp tiểu bang và
liêng bang, thái độ chính trị của cử tri c̣n thể hai loại khuynh
hướng về chính trị và kinh tế:
(1) Khuynh hướng thứ nhất là bầu cho người tại vị (incumbency-oriented) và chọn ứng cử viên theo chính sách quốc gia (policy-oriented),
(2) Khuynh hướng thứ hai là chọn ứng cử viên theo kinh nghiệm kinh tế cá nhân của cử tri (personal experiences) và lượng định t́nh trạng kinh tế quốc gia (national assessment).
Cử tri thường dồn phiếu cho ứng cử viên đương nhiệm hoặc ứng cử viên cùng đảng với vị tiền nhiệm, nếu t́nh trạnh kinh tế khả quan. Năm 1981, cử tri Hoa Kỳ đă bầu Tổng thống Reagan (1981-1988) và sau đó bầu cho Tổng thống Bush (1989-1993) thể hiện nền kinh tế khả quan dưới thời Cộng Hoà so với nền kỉnh tế suy sụp lạm phát phi mă dưới thời Carter (1976-1980) nên TT Carter đă thất cử khi ra tranh cử nhiệm kỳ hai.
Trong nền kinh tế Hoa Kỳ, nên lưu ư đến hai vấn
đề quan trọng: thất nghiệp (unemployment) và sinh hoạt đắt đỏ
(inflation). Hai hiện tượng kinh tế này có tính cách nghịch vị: Thất
nghiệp tăng th́ lạm phát giảm. Thời Tổng thống Carter (1977-1981)
lạm phát quá cao, (mortgage interest rate để mua nhà từ 12-18%). Cử
tri chú trọng vào chính sách hơn là đảng phái hoặc cá nhân khiến cho
Carter thất cử. Cử tri không bầu cho Carter đương nhiệm mà bầu cho
Reagan. Từ năm 1981 đến 1993, đàng Dân Chủ không thể dành lại ngôi
vị Tổng thống v́ đảng Cộng Hoà có nhiều bí quyết chế ngự được nạn
lạm phát và giảm tỷ số thất nghiệp.
Thường nạn thất nghiệp dưới thời Cộng Hoà cao hơn dưới thời Dân Chủ,
do đó những người sợ nạn thất nghiệp, hay lo lắng về t́nh trạng kinh
tế cá nhân thường dồn phiếu cho ứng cử viên đảng Dân Chủ. Hai vấn đề
này đều thuộc về kinh tế đại tượng (macro-economics). Đảng nào quân
b́nh được cán cân thất nghiệp và lạm phát sẽ có nhiều cơ hội gặt hái
được kết quả tốt đẹp trong các cuộc bầu cữ.
Kinh nghiệm của cử tri về kinh tế cá nhân (personal experiences) và t́nh trạng kinh tế quốc gia (national assessment) cũng đóng một vai tṛ quan trọng trong sự h́nh thành quyết định của cử tri. Nếu t́nh trạng gia đ́nh khả quan, cứ tri sẽ tiếp tục bầu cho Tổng thống, Thống đốc đương nhiệm hoă cùng đảng. . Sự kiện này có thể suy luận từ t́nh trạng kinh tế và kết quả các cuộc bầu cử cấp tiểu bang và liên bang. Chính cá nhân cử tri mới hiểu rơ t́nh trạng hạnh phúc hay đau khổ của ḿnh v́ sự thăng trầm của nền kinh tế, đúng như nhận xét của kinh tế gia Adam Smith: “Every man feels his own pleasures and his own pains more sensibly than those of other people”.
Lại nữa trong bất cứ nhiệm kỳ nào của Dân Chủ hay Cộng Hoà đều có người thất nghiệp. Những người thất nghiệp có thể có hai thái độ: Họ vẫn bầu cho tổng thống đương nhiệm nếu nhận thấy t́nh trạng quốc gia khả quan và không cần luận về t́nh trạng thất nghiệp cá nhân. Cũng có thể họ bầu cho ứng cử viên mới để mong t́nh trạng cá nhân hầu có thể thay đổi. Vấn đề này thuộc tâm lư cá nhân nghĩ đến quốc gia dân tộc hay đặt nặng quyền lợi cá nhân, do đó cùng một hoàn cảnh có thể hai người có hai thái độ khác nhau.
Trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ (2001-2008), đa số dân chúng Mỹ nghĩ rằng t́nh trạng kinh tế khả quan, đời sống gia đ́nh thoải mái nên bầu cho ứng cử viên Cộng Hoà George Bush về cả hai phương diện kinh nghiệm kinh tế cá nhân và t́nh trạng kinh tế quốc gia. “When the nation’s economy is doing well, the voters would tend to vote for the incumbents, while those who believed it had been worsened would tend to vote for the challengers”.
Nhưng sau cuộc chiến kéo dài ở Trung Đông nhằm tiêu diệt khủng bố đă đánh vào thành tŕ tư bản của thế giới từ năm 2001. Tính trạng kinh tế gặp khó khăn nên dân chúng muốn có sự thay đổi. Ông Obama, nhờ chủ trương “Change” đă được bầu làm Tổng Thống được 2 nhiệm kỳ (2008-2016).
Tuy nhiên, đến nay cũng gần hết hai nhiệm kỳ của Obama, xem ra dân chúng không thấy được sự thay đổi như Đảng Dân Chủ đă hứa hẹn. Ngân sách quốc gia thâm thụt đến 18 trillion hay 18,000 tỷ ($18,000,000,000,000). T́nh h́nh an ninh quốc nội lại bị khủng bố đe doạ, thất bại về chính sách đối nội và đối ngoai.
Năm 2008, khi TNS Obama nhậm chức Tổng Thống, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả Thượng viện lẫn Hạ Viện Hoa Kỳ. Sau 4 năm trị v́, dân chúng bất măn, đảng Dân chủ mất một số lớn ghế Thống Đốc và mất luôn quyền kiểm soát Thương viện và Hạ viện Hoa Kỳ và lưỡng viện quốc hội tại nhiều tiểu bang.
Dự định phân phối người lớn và trẻ em vượt biên bất hợp pháp từ Nam Mỹ, hoặc di dân từ Trung Đông đến các tiểu bang, không kể đến lư do an ninh và gánh nặng an sinh xă hội. Sự kiện nầy đă gây phẩn nộ trong quần chúng và hơn 30 vị Thống Đốc đă phản đối TT Obama về vấn đề di dân và nhiều vấn đề nhiêu khê khác.
Bầu một vị Tổng Thống da màu chứng tỏ Hoa kỳ không hẵn là một quốc gia kỳ thị chủng tộc mà là một quốc gia tôn trọng nhân quyền đối với quốc nội cũng như quốc tế. Tuy nhiên được bầu làm Tổng thống là một ân huệ, nhưng cũng phài có khả năng để trị lư quốc gia và không bị các đối lực chi phối.
Sở dĩ cuộc vận động tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 2016-2020 có nhiều ứng cử viên đảng Cộng Hoà ra tranh cử v́ các đảng viên Cộng Hoà thấy đây là cơ hội tốt để thắng cử. Trong lúc đó đảng Dân Chủ chỉ có 4 ứng cử viên, nhiều người không tham gia tranh cử v́ thấy cơ hội thắng cử của đảng Dân chủ không cao.
Tuy nhiên kết qủa thăm ḍ dư luận thường thay đổi có khi tùy theo một số biến cố không thấy trước được như nạn khủng bố ở Pháp, hay ở San Bernadino, CA năm 2015, đă nâng cao điểm tín nhiệm cho môt số ứng cửu viên quan tâm đến chủ trương mạnh mẽ về vấn đề chống khủng bố, chống di dân mà các chính khách nhà nghề thường giữ thái độ dè dặt sợ bị phản ứng không dám lên tiếng. Nói khác đi “một con bướm bay ở Âu châu có thể tạo nên làn gió mạnh ở Mỹ châu hoặc ngược lại.”
Trong các xă hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đă ghi rơ: “All men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that among these are Life, Liberty and the persuit of Happiness”. Mọi người sinh ra đều được b́nh đẵng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền t́m kiếm hạnh phúc…
Nền chính trị tại Hoa kỳ rất phức tạp, luôn luôn có những làn sống ngầm xung đột giữa các quan niệm khác nhau, trong vấn đề chọn ưu tiên khi thực hiện quốc sách.
(1) Ư niệm phổ quát cổ truyền được công chúng
nhắc đến là ư nguyện của các bậc khai quốc công thần đă thể hiện qua
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và Hiến Pháp năm 1787 chủ trương
dành ưu tiên để bảo vệ quyền tự do thiên nhiên của con người do
Thượng Đế ban cho “Natural Rights liberty”. Từ khuynh hướng căn bản
nầy, một số ư niệm khác được khai triển.
(2) Ư niệm thứ hai là dành ưu tiên đề bảo quản quyền tự trị địa
phương hay tiểu bang “Classical Communitarian Liberty”. Ư niệm nầy
bênh vực quyền quản trị điạ phương, tăng quyền tiểu bang và hạn chế
quyền liên bang. Các tiểu bang đều có hai Thượng Nghị Sĩ và cứ
khoàng trên dưới 500,000 dân được bầu một dân biểu trong Quốc hội
Liên bang. Mỗi tiểu bang có quyến lập pháp, hành pháp và tư pháp.
(3) Khuynh hướng thứ ba là ưu tiên để bảo vệ tự trị kinh tế cá nhân
“Economic Autonomy Liberty”.
(4) Khuynh hướng thứ tư là dành ưu tiên bảo vệ công bằng xă hội
“Social Justice Liberty” và
(5) Thứ năm là dành ưu tiên bảo vệ tự do cá nhân (Personal Autonomy
Liberty”.
Những người làm chính trị có thể, không ít th́ nhiều, am hiểu tâm lư chính trị. Nhưng không hẳn người hiểu tâm lư chính trị lại làm chính trị. Trường hợp này, nghiên cứu để hiểu biết chính trị hơn là áp dụng kiến thức vào sinh hoạt chính trị một cách tích cực qua chính đảng. Hoặc nói cách khác đi không có “khiếu” hoặc không thích làm chính trị.
Làm chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục... có khi hy sinh cả cuộc đời, không v́ tư lợi mà v́ quốc gia dân tộc. Tuy vậy, số người hy sinh v́ quốc gia dân tộc thường ít, và khi hành động cần người hợp tác. Người hợp tác có thể v́ danh lợi, thừa gió bẻ măng, tạo nên nạn bè phái oán cừu, làm cho người có tâm huyết thân bại danh liệt.
Người có tâm huyết làm chính trị chỉ v́ muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật nằm gai, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc, như lời thơ diễn tả của Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy.
“Họ là những anh hùng không tên tuổi,
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.”
Chung quy, con người thường hành động theo tư tưởng của ḿnh. Tư tưởng thu nhận từ xă hội, học đường, bạn bè... kết tinh thành trạng thái tâm lư, gọi chung là tâm lư quần chúng.
Muốn thu phục nhân tâm, trước hết phảỉ am hiểu tâm lư quần chúng. Muốn am hiểu quần chúng phải có tâm hồn khoáng đạt, cởi mở để có thể tiếp nhận ư kiến từ nhiều quan điểm thuận cũng như nghịch, để rồi tinh luyện, biến hoá, tương kế tựu kế, hầu thực hiện sứ mệnh cao cả của ḿnh.
Dầu sinh hoạt chính trị dưới h́nh thức nào đi nữa th́ bốn lập trường nêu trên từ cách mạng tả phái đến phản cách mạng hữu phái, vẫn là đặc tính chung của phạm trù tâm lư chính trị.
Trong bất cứ xă hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số tranh đấu cho lư tưởng của họ, nếu thắng thế, họ sẽ trở thành cấp lănh đạo. Lănh đạo v́ dân v́ nước là phước của quốc gia. Lănh đạo v́ xôi thịt là quốc nạn.
Thế th́ không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu ḿnh không tỏ rơ lập trường, tà đạo lên nắm quyền th́ chính ḿnh sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “Evil triumphs when good men do nothing” (Edmund Burke). Nhận xét nầy là kim chỉ nam hường dẫn hành động của đống bạ quốc nội yêu chuộng tự do và quư vi đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các cộng đồng dịa phương, tiểu bang và liên bang để xây dựng đời sống mới và công tác cứu quốc chóng được viên thành.
Nhờ tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đă tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia dân tộc, ư thức chính trị của quần chúng cao. Ư dân là ư trời, không phải thể hiện bằng cách mạng, bằng đảo chánh, gây chiến tranh, cướp chính quyền mà bằng phương thức ôn hoà, nhân bản qua phương thức văn minh: Bầu Cử Tự Do.
Nếu vai tṛ của các cộng đồng, các chính đảng là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, th́ quần chúng phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường cho chính ḿnh vậy.
Trần Xuân Thời
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh