Ngày 11/4 quân đội cộng sản bị chận đứng ở mặt
trận Xuân Lộc.Tại Sài g̣n Khiêm từ chức thủ tướng, Nguyễn Bá Cẩn,
Chủ tịch Hạ nghị viện thay thế. Dân Sài g̣n có vẻ phấn khởi, nhưng
chính quyền vẫn tê liệt. Nhiều tổng bộ trưởng t́m đường ra đi. Ngày
19/4 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ giảm nhân số ṭa đại sứ xuống c̣n 1.250
người, trong số đó có 270 nhân viên CIA.
Đại sứ Martin và Polgar có hai công tác chính.Thứ nhất là khai triển
một chương tŕnh di tản người Mỹ và người Việt làm việc với Hoa Kỳ
và thân nhân mà không làm cho dư luận xôn xao. Nhưng trước viễn ảnh
một cuộc di tản khó thành công nếu Hà Nội dùng lực lượng quân sự
ngăn cản, công tác chính thứ hai là thương thuyết với Hà Nội t́m một
giải pháp chính trị để an toàn di tản mọi đối tượng liên hệ ra khỏi
Việt Nam. Hoa Kỳ c̣n hy vọng qua vận động với Nga Sô duy tŕ một ṭa
đại sứ tại Sài g̣n để duy tŕ sự liên tục ngoại giao.
Công tác chính trị chính yếu là thuyết phục tổng thống Thiệu từ
chức, và t́m cách chuyển quyền cho tướng Dương Văn Minh để thành lập
một chính phủ “liên hiệp” gọi là chính phủ “đoàn kết quốc gia” để
chuyển chính quyền cho phe cộng sản. Hà Nội cho biết chỉ nói chuyện
với Minh.
Thuyết phục Thiệu Hoa Kỳ không thấy khó. Khó là làm sao chuyển quyền
cho Minh mà không vi phạm Hiến pháp VNCH.
Tuy nhiên, tin chiến sự càng ngày càng xấu. Ngày 16/4 quân đội Bắc
Việt chiếm Phan Rang, quê của Thiệu, bắt sống tướng Nguyễn Vĩnh Nghi
và một sĩ quan t́nh báo Mỹ. Tin t́nh báo của CIA từ Hà Nội xác nhận
tin đă biết rằng Hà Nội quyết định chiếm Sài g̣n bằng vũ lực càng
sớm càng tốt, chậm lắm là trước ngày sinh nhựt của ông Hồ Chí Minh,
19 tháng 5.
Trong khi đó tại Washington có nhiều diễn biến không lợi cho sự ổn
định t́nh h́nh tại Sài g̣n. Thứ nhất, một viên chức cao cấp tuyên bố
chính phủ Hoa Kỳ không can dự ǵ đến một giải pháp chính trị để cho
Nam Việt Nam đầu hàng. Thứ hai , ông Thứ trưởng Ngoại giao Philip
Habib khi được giới truyền thông yêu cầu Hoa Kỳ giúp di tản các
phóng viên của họ làm việc tại Sài g̣n trả lời rằng Hoa Kỳ không có
chương tŕnh di tản người Việt làm việc với các cơ sở của người Mỹ.
Trong khi đó thật ra đại sứ Martin đă im lặng cho di tản hơn 350
người Việt làm việc với các cơ sở truyền thông Hoa Kỳ ra khỏi Việt
Nam.
Ngày 18/4 Janos G. Toth, một đại tá người Hungary trong phái đoàn
quốc tế kiểm soát đ́nh chiến gặp Polgar và cho biết qua các cuộc nói
chuyện với phái đoàn Hà Nội ông ghi nhận rằng Hà Nội chỉ muốn tăng
sức ép để Sài g̣n sụp dần chứ không muốn có một cuộc tấn công quân
sự để kết thúc chế độ. Đại tá Toth nói Hà Nội không muốn ép Hoa Kỳ
phải tháo chạy như đă tháo chạy tại Phnom Penh mấy ngày trước đó.
Toth nói Hungary từng nếm mùi thất trận và tàn phá nên không muốn
thấy Sài g̣n bị tàn phá như Berlin năm 1945. Polgar hiểu đây là lời
nhắn của Hà Nội, nên bên cạnh việc di tản, Polgar và đại sứ Martin
lo t́m cách thuyết phục Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ
liên hiệp gồm các thành phần thiên cộng để đầu hàng.
Về việc di tản nhân sự ra khỏi Việt Nam, với phương tiện hiện có ṭa
đại sứ Hoa Kỳ chỉ có thể di tản từng đợt mỗi đợt 1.600 người, và đại
sứ Martin than phiền với Bộ Ngoại giao rằng một cuộc di tản như vậy
không thể thành công và lịch sử sẽ phê phán ông. Kissinger an ủi
Martin rằng nếu có ǵ xẩy ra lịch sử cũng sẽ phê phán ông nặng hơn
phê phán ông đại sứ. Trong một điện văn gởi Martin, Kissinger viết
một cách ấn tượng rằng, nếu “người ta treo cổ ông th́ tôi cũng sẽ bị
treo cao hơn ông vài thước”, và để yên ḷng Martin Kissinger thông
báo ông đang nói chuyện với Nga Sô về t́nh h́nh Việt Nam.
Trong khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chưa có chương tŕnh dứt khoát di tản
người Việt th́ ṭa đại sứ phải giải quyết vài trường hợp đơn lẻ do
Washington nhờ. Ngày 19/4 Kissinger gởi Polgar một điện văn yêu cầu
vào Chợ Lớn t́m gia đ́nh vợ của Ken Quin, một nhân viên cao cấp của
Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, và đưa qua Mỹ. Polgar phái Chip
Schofield, một nhân viên giỏi tiếng Việt và tiếng Hoa lặn lội vào
Chợ Lớn t́m bà mẹ vợ của Quin và gia đ́nh rồi gởi lén ra khỏi nước
không có giấy phép của chính quyền Việt Nam bằng C-130 chở tiếp liệu
đến Sài g̣n và trở về căn cứ Clark tại Phi Luật Tân. Cùng lén rời
khỏi Việt Nam có một vài thân nhân của Polgar.
Ngày 21/4 Kissinger điện cho Martin thông báo Nga Sô hứa sẽ thuyết
phục Hà Nội chấp nhận giải pháp chính trị và tránh không làm nhục
Hoa Kỳ. Trong khi đó nhiều tin tức, thật có, giả có được loan truyền
tại Sài g̣n. Hai tin giả: Quốc hội Hoa Kỳ chuẩn chi 350 triệu mỹ kim
viện trợ quân dụng; và chính phủ Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam (CH/MNVN
- do Hà Nội dựng nên) cho biết Martin phải đi nhưng ṭa đại sứ Hoa
Kỳ có thể được duy tŕ tại Sài g̣n. Tin thật: Hoa Kỳ áp lực Thiệu từ
chức nhưng không muốn các tướng lănh làm đảo chánh như năm 1963 đối
với cựu tổng thống Ngô Đ́nh Diệm.
Trước t́nh h́nh này thủ tướng Nguyền Bá Cẩn nói Cẩn không muốn ngồi
ở ghế thủ tướng khi Minh thay Thiệu v́ ông ngại các thành phần cực
hữu trong quân đội sẽ giết ông và ông muốn từ chức. CIA yêu cầu Cẩn
ngồi nán lại trước khi có một giải pháp rơ ràng hơn.
Ngày 19/4 trước đó, Martin yêu cầu tướng Timmes thuộc Phái bộ Tùy
viên Quốc pḥng (Defense Attache - hậu thân của MACV) gặp Thiệu để
thảo luận một h́nh thức từ chức để Phó tổng thống Hương thay thế
trước khi chuyển quyền cho Minh. Chiều ngày 19/4 và sáng ngày 20/4
Martin gặp Thiệu hai lần. Martin nói với Thiệu rằng “Tôi không ép
ngài từ chức, nhưng ngài biết cộng quân có khả năng đánh vào Sài g̣n
bất cứ lúc nào, và nếu ngài không từ chức tôi ngại rằng các tướng
của ngài cũng yêu cầu ngài từ chức”. Nhớ đến Lucien Conein với cuộc
đảo chánh ông Diệm năm 1963 Thiệu im lặng nghe và trả lời: “Tôi sẽ
làm những ǵ có lợi nhất cho đất nước tôi.” Martin nói: “Tôi biết
ngài sẽ làm!”.
Ngày 21/4 Thiệu cho biết sẽ từ chức trong ngày. Polgar vội vàng
thông báo cho Toth. Vài giờ sau Thiệu từ chức trao quyền tổng thống
cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu đọc một bài diễn văn từ
chức nảy lửa kết án Hoa Kỳ và Kissinger “đă đưa Nam Việt Nam vào chỗ
chết.”
Ngay sau khi Thiệu từ chức, Hoa Kỳ bắt tay vào việc sắp xếp để Hương
trao quyền cho Minh. Hà Nội cho biết sẽ không thương thuyết với
Hương, một người nổi tiếng chống cộng sản. Vấn đề là t́m một cách
hợp hiến để trao quyền cho Minh. Theo Hiến pháp VNCH nếu Hương từ
chức th́ quyền tổng thống vào tay chủ tịch Thượng nghi viện Trần Văn
Lắm. Bế tắc vẫn bế tắc.
Một ngày trước khi Thiệu từ chức, Shackley yêu cầu Polgar t́m cách
lấy những thư từ Nixon trao đổi với Thiệu trong những năm 1972, 1973
trước khi kư Hiệp định Paris. Shackley nói nếu những văn kiện đó lọt
vào tay Hà Nội th́ thật “bất tiện” cho Hoa Kỳ. Polgar trả lời, ông
không biết đó là những thư từ ǵ và CIA cũng không thấy có cách ǵ
lấy lại. Vă lại Hoa Kỳ đă không giúp Nam Việt Nam ngay cả trên tinh
thần “một đổi một” th́ không có lư do ǵ Thiệu sẽ không công bố
những văn kiện đó để làm cho Hoa Kỳ lúng túng.
Ngày 23/4 lănh sự quán Biên Ḥa yêu cầu được di tản về Sài g̣n v́
ṭa lănh sự không tin cậy vào sự bảo vệ an ninh của tỉnh trưởng Biên
Ḥa Lưu Yêm. Đồng thời Minh than phiền với Hoa Kỳ -thông qua đại sứ
Pháp Jean Marie Merillon- ông được tin Kỳ có thể đảo chánh nếu ông
thay Hương. Merillon điện thoại cho tướng Timmes hay. Được tin đại
sứ Martin yêu cầu tướng Timmes gặp Kỳ và Kỳ nói ông không hề có ư
dịnh đó. Minh c̣n ngỏ ư muốn Hoa Kỳ t́m giải pháp càng chóng càng
tốt để ông có thể nói chuyện với phe cộng sản và than phiền sự hiện
diện của Thiệu tại Sài g̣n làm cho sắp xếp ǵ cũng khó v́ tuy từ
chức Thiệu vẫn c̣n ảnh hưởng lớn trong quân đội.
Ngày 24/4 để tôn trọng Hiến pháp, Hoa Kỳ có sáng kiến đề nghị Minh
thay Cẩn làm thủ tướng toàn quyền, nhưng Minh từ chối. Minh nói với
tướng Timmes ông sẽ gặp Hương trong ngày để yêu cầu Hương từ chức.
Đồng thời Polgar vận động các tướng nhắn lời với Hương rằng “các
tướng đồng ḷng ủng hộ Minh và nếu không nhường chức tổng thống cho
Minh, các tướng có thể đảo chánh Hương”. Tuy vậy Hương vẫn chần chờ
và yêu cầu giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thay Cẩn lập chính phủ. Giáo sư
Huy từ chối.
Hết đường, chiều ngày 24, Hương gặp Martin đồng ư trao quyền cho
Minh và yêu cầu Hoa Kỳ t́m một cách thức chuyển quyền hợp hiến.
Hương cũng đồng ư với Minh yêu cầu Hoa Kỳ đưa Thiệu ra khỏi nước. Sự
hiện diện của Thiệu tại Sài g̣n là một bất tiện cho mọi người.
Một quyết định quân sự
Trong ngày 24/4, Polgar tiếp xúc với đại tá Vơ Đông Giang, người đại
diện của Chính phủ CH/MNVN trong Ủy ban Quân sự 4 bên cho biết triển
vọng thỏa thuận giữa Hương và Minh và yêu cầu Giang cho biết ư kiến
của phía cộng sản. Giang hứa sẽ trả lời sau (TBN: Giang phải thỉnh ư
của Hà Nội). Giữa trưa ngày 24/4 đài phát thanh của chính phủ
CH/MNVN kêu gọi Hoa Kỳ rút đại sứ Martin về nước và rút hạm đội 7
đang nằm ngoài hải phận quốc tế đi chỗ khác. Polgar hỏi Giang có
phải đó là tín hiệu đối phương có thể chấp nhận sự ở lại của ṭa đại
sứ Hoa Kỳ khi họ chiếm Sài g̣n không. Giang ởm ờ: “Có thể!” Polgar
chuyển nội dung tṛ chuyện của ông với Vơ Đông Giang về Langley và
bày tỏ hy vọng. Shackley kinh nghiệm hơn Polgar, cho rằng trả lời
của Giang chỉ là trả lời cho có trả lời, không mang một ư nghĩa thực
tế nào. Shackley khuyến cáo Polgar làm ǵ th́ làm nhưng đừng quên
công tác di tản thành phần Mỹ-Việt có thể bị nguy hiểm nếu bị cộng
sản bắt. Shackley nhắc Polgar đừng hy vọng ǵ nhiều ở giải pháp
Dương Văn Minh v́ ông ta quá “chậm chạp”.
Chiều tối ngày 24/4 đài phát thanh chính phủ CH/MNVN lại thông cáo
đ̣i hỏi Hoa Kỳ rút mọi nhân viên t́nh báo ra khỏi Việt Nam và yêu
cầu Hoa Kỳ cam kết không can thiệp vào chuyện sắp xếp nội bộ giữa
người Việt Nam với nhau. Thông cáo vẫn không nói ǵ đến tư cách của
ṭa đại sứ Hoa Kỳ làm cho Polgar càng hy vọng ṭa đại sứ có thể được
duy tŕ và Hoa Kỳ có thể làm công tác cứu trợ. Được Polgar ḍ hỏi,
Giang trả lời mọi chi tiết sẽ rơ ràng trong cuộc họp báo của phái
đoàn cộng sản vào ngày 26/4 sắp tới.
Phe tướng Minh cũng ráo riết chuẩn bị. Minh gởi hai phụ tá sang
Paris gặp phái đoàn Bắc Việt và xin gởi một phái đoàn ra Hà Nội. Đại
diện Hà Nội trong Ủy ban Quân sự 4 bên đề nghị phương tiện di chuyển
với phái đoàn Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ cho một máy bay đặc biệt đưa phái
đoàn của Minh ra Bắc (TBN: Dân biểu Nguyễn Phúc Liên Bảo thuộc khối
đối lập Dân Tộc Xă Hội là một nhân vật trong phái đoàn này).
Ngày 25/4 Polgar lái xe lên Tân Sơn Nhất gặp Giang. Giang xác nhận
một giải pháp chính trị có thể thành h́nh và Hà Nội sẵn sàng chấp
nhận Minh là đối tác và lần đầu tiên nói, chính phủ CH/MNVN không
phản đối sự hiện diện của ṭa đại sứ Mỹ tại Sài g̣n. Giang nói Giang
chờ đợi việc Minh thay Hương và yêu cầu Polgar thông báo nếu có diễn
tiến. Cũng trong ngày 25/4 đại tá Toth gặp Polgar cho biết Hà Nội
muốn biết có những ai trong danh sách Nội Các khi Minh thay Hương và
hạm đội Hoa Kỳ túc trực ngoài hải phận quốc tế của Việt Nam để làm
ǵ. Polgar nói hạm đội chờ làm công tác di tản và cứu trợ. Polgar
yêu cầu Toth cho Hà Nội biết Hoa Kỳ không muốn thấy các cuộc không
kích vào Sài g̣n như đă xẩy ra trước đây. Những cuộc bỏ bom như vậy
có thể làm cho các thành phần quân nhân cực hữu tại Sài g̣n bạo động
và sẽ không thể sắp xếp một giải pháp êm thắm. Polgar nhấn mạnh việc
Hương trao quyền cho Minh sẽ diễn ra nhanh chóng.
Để chuẩn bị việc chuyển quyền, ngày 24/4 Martin yêu cầu Polgar sắp
xếp để Thiệu rời khỏi Việt Nam. Sự ra đi của Thiệu và Khiêm được
Polgar sắp xếp một cách tối mật. Không một người Việt Nam nào biết
(ngoài những người cùng đi với Thiệu và Khiêm) và chỉ những người Mỹ
liên hệ sắp xếp kế hoạch ra đi mới được biết. Thận trọng đến nổi
Polgar phải nhờ Frank Snepp, chuyên viên phân tích cao cấp của ṭa
đại sứ Hoa Kỳ làm tài xế cho Thiệu và Khiêm. Cuộc di tản được tổ
chức vào đêm 25/4, và CIA dùng một máy bay trước nay không dùng tới.
Chiếc máy bay C-118 tầm xa do tổng thống Johnson dành riêng cho đại
sứ Bunker dùng để thỉnh thoảng đi thăm vợ là bà đại sứ Carol Bunker
tại Katmandu, Nepal. Sau khi ông Bunker hết làm đại sứ tại Việt Nam,
chiếc máy bay C-118 vẫn nằm trong kho Tân Sơn Nhất không ai dùng tới
kể cả đại sứ Martin. Polgar hỏi và được biết chỉ cần vài giờ bảo tŕ
và chuẩn bị máy bay có thể được khiển dụng.
Thiệu giao cho Khiêm quan hệ với Polgar sắp xếp nhân sự và hành
tŕnh . Đoàn người kể cả Thiệu và Khiêm được lên danh sách gồm 14
người. Mỗi người được mang một xách hành lư và tối ngày 25/4 tập
trung tại tư thất của Khiêm trong ṿng thành bộ Tổng Tham Mưu gần
Tân Sơn Nhất. Từ nhà ḿnh, cũng ở trong bộ Tổng Tham Mưu, Thiệu chờ
trời thật tối mới bước qua nhà Khiêm. Polgar sau khi lên Tân Sơn
Nhất gặp Giang tạt lại nhà Khiêm gặp tướng Timmes. Timmes và Polgar
dùng chiếc đàn dương cầm nơi nhà Khiêm làm bàn viết để điền giấy tờ
tị nạn (parolee) cho đoàn người. Tổng cộng 12 người. Có hai người bỏ
cuộc.
Vào phi trường xe phải đi qua hai trạm Polgar cho là nguy hiểm: cỗng
ra bộ Tổng Tham Mưu và nhất là cỗng vào phi trường nên Polgar thận
trọng dùng công xa của đại sứ Martin với bảng số và cờ ngoại giao
đoàn để chở Thiệu và Khiêm giả như một đoàn xe đưa đón một phái đoàn
ngoại giao cao cấp. Qua cỗng phi trường Polgar yêu cầu Thiệu cúi
thấp người, và Thiệu làm theo.
Đại sứ Martin đứng đợi tiễnThiệu tại chân cầu thang máy bay trong
bóng tối mờ nhạt. Polgar lên máy bay cho phi trưởng biết mục đích
của công tác và ông ta cần làm những thủ tục ǵ khi máy bay đến
Taipei. Khi chiếc C-118 khuất dạng trong bóng đêm Polgar điện cho cơ
sở CIA ở Taipei biết giờ phỏng định máy bay tới, sau đó gởi điện văn
báo cáo với Langley: “Thông báo quư cấp, thi hành lệnh trên, CIA Sài
g̣n đă thành công di tản cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ
tướng Trần Thiện Khiêm và đoàn tùy tùng 10 người khác. Máy bay
chuyển bánh lúc 21:20 phút ngày 25 tháng 4, giờ địa phương.”
Ngày 26/4 sau khi Thiệu đi, Hà Nội tăng áp lực quân sự quanh Sài g̣n
buộc phi trường Biên Ḥa đóng cửa. Trong khi đó Thái Lan vẫn chưa
quyết định có cho Hoa Kỳ di tản người Việt qua Thái không. Và phi
Luật Tân cho biết không nhận người Việt làm việc với CIA.
Polgar cho rằng Hà Nội hành động v́ sự chậm trễ của Hương. Trong khi
đó đại tá Toth cho Polgar biết Hà Nội muốn có những ai trong danh
sách Nội Các của Minh. Minh đồng ư bà Ngô Bá Thành (một thành phần
thân Cộng chỉ mới tháng trước tướng Nguyễn Khắc B́nh đă định nhốt
nếu không có sự can thiệp của CIA) nhưng nhất định không chịu cho
linh mục Chân Tín tham gia Nội Các.
Trong thời gian Polgar thảo luận với Minh nên giữ ai, từ chối ai
trong danh sách Hà Nội đề nghị th́ tờ New York Times tiết lộ một báo
cáo của Polgar gởi cho cho Kissinger về công tác này và trả lời của
Kissinger rằng ông không tin tưởng một giải pháp chính trị do Toth
làm trung gian có thể thành công. Polgar nghi ngờ chính Kissinger
tiết lộ tin này v́ Kissinger không muốn thấy nỗ lực của chính phủ
Hungary ảnh hưởng đến cuộc vận động của ông với Nga Sô.
Cho đến ngày 26/4, Cẩn theo khuyến cáo của CIA vẫn c̣n giữ ghế thủ
tướng nhưng bắt đầu sốt ruột. Cẩn yêu cầu đại sứ Martin cho ông
phương tiện rời nước. Ngày 27/4, Martin thấy không ai cần Cẩn nữa
nên yêu cầu CIA sắp xếp cho Cẩn ra đi. Cẩn rời Sài g̣n ngày 28/4
cùng gia đ́nh tướng Nguyễn khắc B́nh và vợ con của tướng Đặng Văn
Quang trên một chiếc máy bay C-130. Quang nói ông không thể rời nước
khi đang c̣n chức vụ. Sau khi Thiệu từ chức Quang đă xin tổng thống
Hương giải nhiệm, nhưng không ai xét đơn của ông.
Trong ngày 27/4, với sự đồng ư của đại sứ Martin lưỡng viện quốc hội
VNCH họp thông qua quyết định giao trọn quyền cho tướng Minh. Minh
tuyên thệ nhậm chức tổng thống lúc 5:00 giờ chiều ngày 28/4 trong
một bầu không khí ảm đạm. Minh ngỏ ư với Hà Nội muốn thương thuyết
theo tinh thần của Hiệp định Paris. Các cuộc tiếp xúc có thễ diễn ra
tại Paris trước khi hai bên đồng ư một địa điểm thích hợp tại Việt
Nam.
Sự nhậm chức của Minh không thay đổi ǵ kế hoạch của Hà Nội kết thúc
chiến tranh bằng vũ lực như nguồn tin t́nh báo từ Hà Nội đă cho
biết. Sau khi Minh tuyên thệ nhậm chức Hà Nội dùng máy bay lấy được
của Không quân VNCH bỏ bom phi trường Tân Sơn Nhất. Và 4 giờ sáng
ngày 29/4 quân đội Bắc Việt pháo kích phi trường trong mấy giờ liền
làm hư hỏng phi đạo, và phá hủy 4 chiếc trực thăng của CIA. Polgar
vội vàng ra lệnh phân phối cho nhân viên ḿnh mỗi người một phong b́
đựng 1.000 mỹ kim tiền mặt và một ít tiền Hồng Kông, tiền Thái để
dùng khi cần thiết.
Tại Washington Shackley được Polgar báo cáo Minh đă nhậm chức, nhưng
Shackley không quan tâm lắm và chỉ lo việc di tản. Shackley biết Hà
Nội có khả năng pháo kích phi trường Tân Sơn Nhất bất cứ lúc nào và
đă chuyển lệnh của Washington cho tướng Homer Smith, Trưởng Pḥng
Tùy Viên Quốc Pḥng Hoa Kỳ rằng nếu phi trường bị pháo kích ông ta
có quyền lấy quyết định khi nào th́ ngưng các chuyến bay di tản bằng
C-130.
Đại sứ Martin đang bị bệnh sưng phổi không nói được nhưng cũng đến
ṭa đại sứ lúc 6 giờ sáng cho yên ḷng nhân viên, và mọi việc liên
lạc với tướng Smith ở Tân Sơn Nhất, với Đô đốc Noel Gayler Tư Lệnh
Lực Lượng Hoa Kỳ tại Thái B́nh Dương ở Honolulu và với Kissinger Bộ
trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ ở Washington đều do Polgar đảm trách.
8 giờ sáng, ṭa đại sứ nhận được thông báo của Minh yêu cầu tất cả
nhân viên thuộc Pḥng Tùy Viên Quốc Pḥng Hoa Kỳ phải rời Sài g̣n
trong ṿng 24 giờ. Đại sứ Martin hứa thi hành và lệnh di tản toàn
diện bắt đầu.
Tướng Smith báo cáo cho đại sứ Martin biết phi trường không thể xử
dụng được nữa và đề nghị Martin chuyển qua chương tŕnh di tản bằng
trực thăng. Không tin, đại sứ Martin đích thân lên phi trường Tân
Sơn Nhất để quan sát bất chấp sự ngăn cản của các phụ tá. Trở về ṭa
đại sứ, 10:30 sáng Martin ra lệnh chuẩn bị di tản bằng trực thăng.
Một mặt chuyển yêu cầu của ông đến Đô đốc Gayler, một mặt cho đốn
cây nhăn trong băi đậu xe trong khuôn viên ṭa đại sứ lấy chỗ cho
trực thăng lên xuống (hôm trước, 28/4, Đô đốc Noel Gayler đă ra lệnh
đốn cây đó nhưng Martin ngăn lại sợ rằng các thành phần hiếu động
thấy cây chặt biết ṭa đại sứ di tản sẽ có phản ứng bạo động bất
lợi).
11 giờ sáng lệnh di tản bằng trực thăng của Lực lượng Thái B́nh
Dương được ban hành. Ngoài ṿng thành ṭa đại sứ nhiều người Việt
bắt đầu tụ tập xin đi. Polgar đi một ṿng kiếm soát an ninh và thấy
tướng Đặng Văn Quang, âu phục xanh như thường lệ đang đứng chờ nơi
cỗng. Polgar yêu cầu hé cỗng cho Quang len vào.
Vào khoảng 3 giờ chiều cuộc di tản bằng trực thăng do hạm đội 7 điều
động bắt đầu. Trực thăng lớn C-53 di tản nhân sự tại phi trường Tân
Sơn Nhất, ưu tiên cho nhân viên thuộc Pḥng Tùy viên Quốc Pḥng.
Trực thăng C-47 nhỏ hơn di tản nhân sự tại ṭa đại sứ. Mọi người
phải ra đi ngoại trừ 200 nhân viên tối cần trong đó có 50 nhân viên
CIA ở lại cho đến các chuyến bay cuối cùng để thanh lư mọi việc.
Trên nguyên tắc đại sứ Martin đă hết nhiệm vụ ông có thể rời ṭa đại
sứ bay ra hạm đội. Nhưng ông đại sứ đặc biệt xin phép tổng thống
Ford để ông và vài phụ tá ở lại. Ông hy vọng – qua cuộc vận động của
Kissinger với Moscow - phút chót Hà Nội chấp nhận ṭa đại sứ Hoa Kỳ
có thể ở lại và tránh được cái nhục cho Hoa Kỳ cuốn cờ bỏ chạy.
Ngoài một số lư do như quản lư kém, quân đội VNCH tan ră quá nhanh,
lệnh di tản bằng trực thăng ban hành quá trễ là trở ngại lớn nhất
làm cho Hoa Kỳ không thể thực hiện một cuộc di tản trong trật tự.
Nhiều nhân viên người Việt và người nước ngoài làm việc cho Hoa Kỳ
bị bỏ lại.
Vào phút chót Phó trưởng cơ sở LaGueux thấy mấy triệu mỹ kim tiền
mặt của CIA vẫn c̣n trong két sắt ṭa đại sứ. Ông khẩn cấp xin một
trực thăng đặc biệt chở 4 nhân viên, mỗi người mang một bao tải nặng
35 kg gồm tiền mặt và giấy tờ kế toán bay thẳng ra chiến hạm USS
Blue Ridge.
Chiều xuống, hàng chục ngàn người Việt chen lấn nhau vây kín ṭa đại
sứ. Nhân viên CIA và viên chức ṭa đại sứ ra nh́n mặt xem ai quen để
giúp. Polgar thấy một đại tá thuộc Nha Chiến Tranh Tâm Lư, người
từng cung cấp tin tức cho ông. Polgar bảo viên đại tá gom người thân
lại bảo vệ một khu nhỏ dưới chân tường rồi quẳng hành lư vào bên
trong trước khi ông và nhân viên Mỹ kéo từng người leo tường vào bên
trong . Không được dặn trước lính TQLC Hoa Kỳ thấy hành lư quẳng vào
sợ chất nổ quẳng trở ra.
Toán người Việt phiên dịch tài liệu cho ṭa đại sứ và nhân viên
pḥng viện trợ kinh tế cũng bị bỏ lại. Tổng đài điện thoại ṭa đại
sứ không có ai trực, Chip Schofield nói được tiếng Việt t́nh nguyện
ngồi trực giúp.
Và việc di tản nhân viên CIA và nhân viên ṭa tổng lănh sự Cần Thơ
là một giai thoại chiến tranh. Trạm CIA Cần Thơ có 4 trực thăng Air
America. Ngày 26/4 trưởng trạm CIA Jim Delany xin di tản nhân viên
CIA, tổng lănh sự Francis McNamara không cho ngại rằng dư luận thành
phố xôn xao. Delany và McNamara căi vă nhau. McNamara dọa báo cáo
Delany vô kỷ luật. Ngày 27/4 Delany tŕnh nhu cầu di tản sớm lên đại
sứ Martin và Martin đồng ư với Delany. Delany cho di tản đa số nhân
viên CIA người Mỹ, riêng ông và một số người Mỹ cần thiết và nhân
viên t́nh báo người Việt ở lại chờ lệnh. Ngày 29/4 George Jacobson,
viên chức phụ trách di tản ra lệnh cho McNamara di tản toàn bộ nhân
viên ra hạm đội. Bốn trực thăng sáng đó đă được điều động về Sài g̣n
thay cho 4 chiếc Air America bị pháo kích hư hại trong buổi sáng.
Kêu gọi trực thăng của hạm đội bị từ chối, McNamara dùng tàu của ṭa
lănh sự theo sông Hậu chạy ra biển không đếm xỉa ǵ đến Delany và
nhân viên của ông. Giữa trưa Delany được tin McNamara đă đùng đường
sông ra biển, ông gọi trực thăng. 1:20PM hai chiếc trực thăng đến,
Delany gọi McNamara hẹn đón ông bên bờ sông, McNamara giận từ chối.
Delany cùng với các người Mỹ và một số ít nhân viên Phi luật Tân và
Việt Nam được nhét lên hai chiếc trực thăng bay ra chiến hạm USS
Barbour County. Hơn 100 nhân viên Việt Nam bị bỏ lại.
Trong lúc bối rối, Polgar đă quên chỉ thị cho các cơ sở của ḿnh tại
các vùng chiến thuật khi nào th́ cần di tản và di tản bằng cách nào.
Sau này ông nói ông tin tưởng các nhân viên đầy kinh nghiệm t́nh báo
của ông thế nào cũng t́m đường xoay xở an toàn!
Hôm 28/4 sau khi cộng sản dùng máy bay của không quân VNCH bỏ bom
Tân Sơn Nhất Polgar cho Joe Hartman đến Đức Hotel chuẩn bị phương
tiên liên lạc và băi đáp để di tản nhân viên CIA vào ngày hôm sau.
Ngày 29/4 máy bay trực thăng của hăng Air America bị pháo kích nên
không có phương tiên di tản. Đến 14:30, Hartman thấy lính VNCH nổ
súng chung quanh khách sạn, và chiếc xe buưt ṭa đại sứ gởi tới bốc
người không đến được. Hartman kêu cứu và Robert Cantwell, phụ tá của
Polgar bảo Hartman chuẩn bị di tản người Mỹ thôi và bằng trực thăng.
Cantwell thông báo cho người Mỹ gồm 33 người lén lên sân thượng.
Hartman đốt lựu đạn khói và một chiếc trực thăng bay đến. Phi công
cho biết cần hai chuyến, nhưng sau chuyến thứ nhất chở đến ṭa đại
sứ anh ta phải ra hạm đội lấy xăng. Số người Mỹ chờ chuyến thứ hai
phải dùng sức mạnh ngăn cản nhân viên người Phi và người Việt trèo
lên sân thượng, cho đến khi chiếc trực thăng tới chở họ ra hạm đội
7.
O .B. Harnage phụ trách di tản các điểm hẹn răi rác trong thành phố
với một chiếc trực thăng. Thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn và các phụ tá
quan trọng của tướng Nguyễn Khắc B́nh chờ tại điểm hẹn ở số 22 đường
Gia Long trong khu chung cư nơi LaGueux ở, nhưng những người này đă
không đến được ṭa đại sứ.
Tại Tân Sơn Nhất sau 3 giờ chiều một số quân nhân quân đội VNCH bắn
cháy vài chiếc trực thăng của hạm đội. Polgar báo cáo Langley “Sự
việc kết thúc quá nhanh. Và trông không đẹp mắt chút nào!”
Về nhân sự CIA ông báo cáo: “Toàn bộ nhân viên CIA an toàn, hoặc
đang bay ra hạm đội, hoặc đă ở trong khuôn viên ṭa đại sứ chờ di
tản”.
Một gương can đảm liều ḿnh cứu người được ghi nhận. Út, xưa kia là
tài xế của Shackley đă an toàn trong ṭa đại sứ nhưng biết c̣n nhiều
nhân sự tính mạng có thể bị đe dọa c̣n chờ tại Lee Hotel. Út vượt
thành ra ngoài đến Lee Hotel t́m các đối tượng làm việc với CIA, gom
lại đưa đến một địa điểm khác an toàn và sau đó được trực thăng di
tản.
Nhân viên làm việc cho các đài tiếng Việt của CIA phát thanh ra Bắc
(TBN: như đài Gươm thiêng Ái Quốc) gồm 4 sĩ quan CIA và gần 1.000
người Việt đă được chuyển ra đảo Phú Quốc trong ngày 28/4 và dự tính
đưa ra hạm đội bằng trực thăng. Nhưng bối rối Sài g̣n mất liên lạc
với Phú Quốc. Washington phải yêu cầu Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại
Thái B́nh Dương thuê một thương thuyền đến chở toàn bộ rời khỏi Phú
Quốc trước khi Phú Quốc bị các đơn vị cộng sản chiếm đóng.
Xế chiều các đơn vị cộng sản bố trí ở phía Đông Sài g̣n bắt đầu pháo
kích Tân Sơn Nhất, đạn bay rào rào qua thành phố tạo thêm kinh
hoàng. Hạm đội 7 cho biết có thể ngưng di tản bất cứ lúc nào. Đại sứ
Martin dù c̣n yếu vẫn lên máy kêu gọi Bộ Ngoại giao, Bộ Tư Lệnh Lực
Lượng Mỹ tại Thái B́nh Dương và ṭa Bạch Ốc duy tŕ các chuyến bay
di tản tại ṭa đại sứ. Ông không ước lượng giờ có thể chấm dứt v́ số
người lọt vào ṭa đại sứ càng lúc càng đông.
8:00 giờ tối Washington cho lệnh cuộc di tản phải chấm dứt vào lúc
3:45 sáng ngày 30/4 (TBN: Washington có giờ chính xác do liên lạc
với Nga Sô). Được lệnh, Polgar báo cáo cần 20 phút để phá máy truyền
tin đặc biệt, và 3:20 sẽ là giờ chót chấm dứt mọi liên lạc bằng điện
văn mật với Washington.
9 giờ tối, Polgar báo cáo c̣n 8 nhân viên CIA ở lại trong đó có ông,
và CINCPAC yêu cầu Martin phải ra đi trước 11:00 giờ đêm để bảo đảm
an toàn.
11:00 khuya, Langley thúc Polgar cho mọi người ra đi, cho biết chỉ
c̣n 35 chuyến trực thăng nữa thôi. Polgar cho biết đại sứ Martin
quyết định sẽ ra đi trong chuyến máy bay cuối cùng.
Do lệnh từ Hà Nội các đơn vị cộng sản nằm im để cho Hoa Kỳ di tản,
nhưng Polgar biết họ có thể pháo kích vào thành phố bất cứ lúc nào.
Colby giám đốc CIA gởi điện văn cuối cùng khen ngợi Polgar. Trả lời
Polgar nói “mọi việc không kết thúc như ư muốn, nhưng tận trong thâm
tâm tôi biết chúng ta đă nỗ lực tối đa.”
Vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975, một viên Thiếu Tá TQLC bước đến
gần đại sứ Martin và thưa với ông rằng nếu ông không bước lên chiếc
trực thăng đang chờ sẳn th́ tôi “thừa lệnh đặc biệt của tổng thống”
sẽ phải khiên ông đi.
Không có sự lựa chọn nào khác đại sứ Graham Martin cuốn cờ bước lên
trực thăng. Theo chân ông là Polgar, LaGueux và Jacobson. Máy bay
đưa ông đại sứ ra chiến hạm USS Blue Ridge trực chỉ Subic Bay.
Bóng đêm trùm xuống thành phố Sài g̣n!
Chương 7: Nỗ lực duy tŕ hiện trạng
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh