MỘT GÓC NH̀N
Đỗ TrườngVào năm 2007, ở trong nước tái bản một số tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu. Rồi gần đây nhất, người ta cho in lại Ṿng Tay Học Tṛ của Nguyễn Thị Hoàng và đọc một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn trên Radio làm cho bác Nguyễn hàng xóm, tiến sĩ ngôn ngữ học Đức, ghé tai tôi: Dường như người ta đang rón rén hồi sức cấp cứu để Văn học miền Nam (giai đoạn 1954-1975) sống dậy, sau mấy chục năm truy sát, đốt phá, tưởng chừng đập chết ăn thịt ngay th́ phải?
Inline image
Sống ở nước ngoài đă quá nửa thế kỷ, nhận xét được như bác Nguyễn, quả thực cũng không có nhiều người. Tuy nhiên, tôi vẫn phải cự lại: Nh́n cái vỏ th́ bác nói có phần đúng. Nhưng khi t́m ṭi, nghiên cứu ta có thể thấy, Văn học miền Nam không cần phải (hồi sức cấp cứu) như vậy. Bởi, tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn học ấy vẫn mănh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào ḷng người ở ngay đó, mà c̣n sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa ḱa!
Có lẽ, không hoàn toàn đồng ư với những suy nghĩ của tôi chăng? Nên bác Nguyễn hơi nhíu mày, máy mắt. Nhưng chưa t́m ra lư lẽ bắt bẻ, nên bác đành phải lắc gật, lắc gật… Thật vậy, có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh 1954-1975. Bởi, tính tuyên truyền đă bóp nghẹt những giá trị ấy. Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng.
Gần đây ở trong nước nảy ṇi ra một cụm từ mới: Văn học đô thị miền Nam. Nghe hơi bị giả giả, sến sến. Vậy th́ giai đoạn 1954-1975 miền Nam c̣n có văn học nông thôn, rừng núi với những tác giả: Anh Đức, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, hay Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Bạch Đằng… nữa chăng? Không! Dứt khoát không có cái gọi văn nghệ đô thị, văn nghệ nông thôn như vậy.
Bác hàng xóm tiến sĩ ngôn ngữ chém tay phầm phập, khẳng định cứ như đinh đóng cột. Bởi với ông, Văn nghệ giải phóng, giải pheo ǵ đó, cùng các tác giả này, đều là cánh tay nối dài của văn nghệ tuyên truyền, định hướng miền Bắc mà thôi. Lần này, có lẽ bác hàng xóm có lư, tôi cứng họng không căi được câu nào. Do vậy, cũng theo ông, từ con Sông Bến Hải trở vào chỉ có một nền Văn học miền Nam duy nhất (chứ không có văn học đô thị, đô thẹo ǵ ở đây cả).
Thật vậy, dù đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, th́ thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ng̣i bút của những nhà văn người lính mà thôi.
* Giá trị hiện thực.
Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo gần một triệu người di cư, trốn chạy từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập quốc. Và trong ḍng người ấy, có rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ tài năng như: Mai Thảo, Doăn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Bằng, Nguyễn Sĩ Tế… Họ đă mang theo văn hóa đặc trưng vùng, miền làm cho ngôn ngữ Văn chương miền Nam thêm phong phú, đa sắc.
Tuy chưa đến độ hoàn hảo, nhưng cánh cửa tự do đă mở cho văn học, cũng như báo chí miền Nam lúc đó. Chính v́ vậy, sự tiếp nối Văn học tiền chiến, cùng tiếp cận, giao thoa với văn hóa phương Tây đă cho Văn học miền Nam một sắc thái, diện mạo mới, như một lẽ tự nhiên vậy.
Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đă sinh sản ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những tác phẩm c̣n nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồn gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xă hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như thân phận người lính. Cái bi ai, cùng với tương lai mịt mù của những thế hệ trẻ bị ném vào chiến tranh, như lời thán ca vọng lên trong thơ, Trần Hoài Thư đă chia sẻ sự cảm thông, hay cho người đọc một nỗi đau nhức nhối ở trong lòng:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra ṭa chung thẩm
Treo án tử h́nh ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm, không biết về đâu“ (Thế hệ chiến tranh)
Sự đói khát, gian nan ấy được Tô Thùy Yên đưa vào trong thơ một cách chân thực. Đọc lên, có lẽ ai cũng phải rùng ḿnh cảm thương cho thân phận người lính: “Trên người bạn gục đạn mươi viên/ Di tản khó – sâu ḍi lúc nhúc/ Trong vết thương người bạn nín rên/ Người chết mấy ngày chưa lấy xác/ Thây śnh mặt nát lạch mương tanh...”(Qua Sông). Cùng thời điểm đó, nếu đọc Văn chương miền Bắc, ta bắt gặp cái không khí hân hoan trái ngược hẳn với hiện thực sầu bi nơi bom đạn chết chóc.
Sự thần thánh hóa chiến tranh và con người mang tính tuyên truyền như vậy, th́ giá trị của nó chỉ (nhất thời) ở thời điểm đó mà thôi:“Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.” (Phạm Tiến Duật). Thật vậy, chỉ có hiện thực mới làm nên giá trị văn học. Và bút kư Những Ngày Gãy Vụn là một trong những tác phẩm như vậy của Phan Nhật Nam. Cái hiện thực ấy, được ông tái hiện lại dưới ng̣i bút tài hoa của ḿnh. Những trang văn rùng rợn, bi thương đó, đọc lên ai cũng phải bùi ngùi, xúc động:
“Thoạt đầu c̣n e ngại nhưng đến xác thứ tư thứ năm lớp thịt nhũn của xác chết tiếp xúc với bàn tay hóa thành quen. Đi từ nơi để xác trở vào rừng, tôi không dám nh́n vào hai bàn tay của ḿnh, thịt da người chết đă phết một lớp dầy trên da tay. Hai giờ chiều, xác chết đă nhặt được hết, tôi chà tay xuống mặt đất như muốn bóc hẳn lớp da. Thèm điếu thuốc lá nhưng không dám đưa bàn tay lên môi. … trời miền Nam bắt đầu vào mùa mưa, đất đỏ từ lối đi vào đến nơi chứa xác lầy lội tưởng như có pha máu người. Thân nhân người chết than khóc, lăn lộn trên lớp bùn non, áo sô trắng lấm đất đỏ như dấy máu. Hơi đất, hơi người sống, người chết, mùi hương đèn lẫn lộn ngây ngấy nồng nặc, choáng váng…“.
Inline image
Nếu Phan Nhật Nam bước vào cuộc chiến bằng bút kư, th́ ở mặt trận Phong Điền, người lính Trần Dzạ Lữ trải nỗi đau đó vào những trang thơ của ḿnh. Và Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường một bài thơ ngũ ngôn mộc mạc, giản dị được Trần Dzạ Lữ viết cách nay đă nửa thế kỷ, song đọc nhiều lần vẫn cho ta sự ám ảnh với những cảm xúc ban đầu. H́nh ảnh cùng cực của người lính với sự tàn khốc của chiến tranh này, không chỉ có giá trị văn học, mà nó c̣n là chứng tích của lịch sử:
“bốn năm thằng lơ láo
áo quần rách tả tơi
ăn cơm bên xác người
tay bốc tay cầm súng
---
ăn xong múc nước ruộng
uống đại cho qua ngày
quê nhà em có biết
chinh chiến thân lưu đày
ăn được là điều may
có khi hai ba ngày
không ăn chẳng có uống
ta nằm với cỏ cây…”
Đạn bom, gian khổ nơi chiến trường chưa hẳn là điều đáng sợ, bởi nó không thể giết chết niềm tin, lẽ sống của người lính. Song chính cái khối ung nhọt ở nơi hậu phương mới giết chết linh hồn, khát vọng của họ. Khi người lính nhận ra, sự hy sinh cả một thế hệ để phục vụ cho những kẻ lãnh đạo không lương thiện, thiếu tài năng. Và cũng chính những con sâu ở giới lãnh đạo thượng tầng, hay những ông vua tôn giáo này, góp phần không nhỏ dẫn đến sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Hiện thực và sự chán chường đó đă được nhà văn, người lính Phan Nhật Nam đưa vào tác phẩm Dấu binh lửa, một cách sinh động. Có thể nói, nếu không có sự can đảm của nhà văn th́ chắc chắn không thể có những trang viết chọc thẳng vào cái ung nhọt của thượng tầng xă hội như vậy. Và chính nó đă làm nên một tác phẩm có giá trị lâu dài:
“Chúng tôi rời Sài G̣n trong thở dài nhẹ nhơm, một tháng ở Thủ Đô đủ để tạo thành sụp đổ tan hoang trong ḷng, đủ thấy rơ sự phản bội của hậu phương, một hậu phương lừa đảo trên máu và nước mắt của người lính. Một tháng đủ để chúng tôi hiểu ti tiện hèn mọn của loại lănh tụ ngă tắt, những anh hùng đường phố, những ông vua biểu t́nh theo ngẫu hứng, vua tôn giáo đầy thù hận và dục vọng… Một tháng “vỡ mặt” lính non cũng như lính già. Chúng tôi bây giờ biết rơ: Máu và đời sống của ḿnh đă đổ ra cho một xă hội lừa lọc.“ (Dấu binh lửa)
Gian khổ, khốc liệt đưa đến cái bi quan chán chường của người lính là vậy, nhưng ở đâu đó sau trận chiến, ta vẫn sự hồn nhiên sảng khoái của họ, dưới ng̣i bút của các văn nhân, thi sĩ: “Ta chắt cho nhau giọt rượu sót/ Tưởng đời sót chút thiếu niên đây/ Giờ cất quân, đưa tay bắt/ Ước cơi âm c̣n gặp để say.“ (Tô Thùy Yên).
Ở giai đoạn này, các nhà văn, nhà thơ viết và khai thác tâm lư người lính một cách chân thật. Bởi vậy, h́nh ảnh họ với rượu chè, gái gú ngang tàng, cùng những khẩu ngữ trần trụi làm cho những tác phẩm văn học ấy sinh động, mới lạ, gần gũi và chân thực hơn:
“Mai ta đụng trận ta c̣n sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui…
Nếu ta lỡ chết v́ say rượu
Linh hồn chắc sẽ thành mây bay” (Nguyễn Bắc Sơn).
Những khẩu ngữ trần trụi, đôi khi được cho là tục tĩu chẳng có tí tẹo ǵ liên quan đến thi ca thơ phú cả, (đại kỵ với văn thơ truyền thống, bác học) nhưng khi được đặt đúng trong văn cảnh, nó trở nên hay đến bất ngờ cho người đọc. Và Hành Quân là một bài thơ như vậy của Linh Phương:
“Chiều qua sém chết v́ viên đạn
Du kích bên sông bắn tỉa hù
Cũng may gặp phải thằng cà chớn
Thấy mặt ta ngầu bắn đéo vô”.
Có thể nói, Linh Phương là nhà thơ tài năng, một gương mặt tiêu biểu Văn học miền Nam. Để Trả Lời Cho Một Câu Hỏi được ông viết vào năm 1970 là một trong những bài thơ hay và bi thương nhất của nền Văn học Việt Nam. Ngay sau khi ra đời, bài thơ đă được Phạm Duy phổ thành bản nhạc: Kỷ Vật Cho Em. Cái thân phận mỏng mảnh, và bi thảm của người lính trong thơ làm cho ta phải lặng người, xúc động khi đọc. Song có lẽ, nó chỉ mới nói lên được phần nào sự rùng rợ, tàn khốc của cuộc chiến mà thôi:
“Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến trận Plei Me
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – B́nh Giă
Anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về ḥm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng…”
Giai đoạn chiến tranh (1954-1975) Văn học miền Nam dường như không có nhiều tác phẩm viết về đề tài nông thôn, nơi hậu phương? Ngoài những cuốn: Sông Sương Mù, và Những Cơn Mưa Mùa Đông của Lữ Quỳnh, Sợi Khói Bay Ṿng của Phạm Ngọc Lư… Và gần đây tôi được đọc Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Đọc nó, ta không chỉ hiểu được văn hóa đặc trưng của mỗi vùng miền, và mối quan hệ, t́nh làng nghĩa xóm, mà c̣n thấy sự chết chóc, tàn nhẫn của chiến tranh ở đây không kém nơi chiến trường.
Nếu ta đă đọc Dải khăn sô cho Huế của Nhă Ca, th́ chắc chắn sẽ trấn tĩnh hơn, và giảm bớt được nỗi kinh hăi khi đọc bút kư Địa ngục có thật của Dương Nghiễm Mậu. Có thể nói, không chỉ truyện, mà bút kư của Dương Nghiễm Mậu cũng có lời văn sáng, và rất đẹp. Cùng với Phan Nhật Nam, bút kư của ông mang đến cho tôi nhiều cảm xúc nhất khi đọc. Dù bút pháp, văn phong của hai nhà văn này hoàn toàn khác nhau.
Chẳng vậy, mà bác tiến sĩ ngôn ngữ hàng xóm bảo, đọc Địa ngục có thật, đêm ngủ cứ giật ḿnh thon thót, bởi ám ảnh. Vâng, đó mới chỉ là một phần của sự thật được Dương Nghiễm Mậu đưa lên trang viết. Và c̣n bao nhiêu cái chết, với những hố chôn người tập thể nữa, mà nhà văn chưa t́m bới ra được:
“Người ta chỉ cho chúng tôi đi tới nữa, con đường hơi ṿng, qua chiếc cầu sắt chúng tôi kinh hoàng với khung cảnh trước mắt: trên khoảng đất trống ven sông một nhà sạp chạy dài, trong đó hơn mười chiếc quan tài đủ cỡ để song song với nhau sau những bàn thờ, quanh đó những người mặc áo, đội khăn tang, trong đó có xác một học sinh đệ nhị, một ông già 68 tuổi… Người ta vẫn c̣n tiếp tục t́m xác, chỉ mới có 32 xác được t́m thấy… C̣n những ai nữa sẽ được nhận ra. C̣n những ai nữa nằm trong những cái hố nhỏ chất bẩy tám người chỉ cần lấy tay moi nhẹ là thấy. Những đau khổ không nói thành lời. Những sự việc không có lời giải thích. Tại sao vậy? Tại sao vậy?” (Địa ngục có thật).
Thành thật mà nói, nếu văn thơ không đi thẳng vào đời sống xă hội, một cách trung thực nhất, đó chỉ là những trang viết chết. Do vậy, đọc và nghiên cứu sâu về Văn thơ miền Nam, ta có thể thấy, tuy chưa thật hoàn hảo, nhưng giai đoạn 1954-1975 các nhà văn miền Nam đă không chịu sự kiểm soát, và áp đặt của quyền lực. Sự thật, công lư cho người dân là nơi ng̣i bút của họ hướng tới. Cho nên, hiện thực là một trong những giá trị làm nên nền Văn học miền Nam (sống) là vậy.
Inline image
* Giá trị nhân đạo
Nếu không có thơ văn đích thực, th́ chúng ta và các thế hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính đă nối những nhịp cầu ấy.
Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên, đi vào những câu thơ có tính sảng khoái, nhẹ nhàng làm nguội đi cái không khí nghẹt thở đó:
“Nhớ hôm bắt được em Việt Cộng
Xinh đẹp như con gái Sài G̣n
Ta nổi máu giang hồ hảo hán
Gật đầu ra lệnh thả mỹ nhân” (Linh Phương).
Và cái t́nh người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính. Một ngày ngưng chiến (1972), nhà thơ người lính Phan Xuân Sinh ngất ngưởng bên ly rượu cùng người lính phương Bắc. T́nh đồng loại ấy đă cho Phan Xuân Sinh cảm hứng viết nên tác phẩm: Uống rượu cùng người lính phương Bắc hay đến nghẹn ngào.
Trước đây mấy năm, khi viết chân dung nhà văn Trần Hoài Thư, đọc đến: Một Ngày Không Hành Quân, tôi cứ ngỡ đó là bài thơ độc nhất vô nhị của Văn học miền Nam. Và nó đă làm cho những giọt nước mắt của tôi rơi ngay trên bàn phím này:
“Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn c̣n sót lại bài thơ
Trên đồi cao mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn đâu có ǵ thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”.
Nhưng tôi đă lầm. Do vậy, khi gặp bài Uống rượu cùng người lính phương Bắc của Phan Xuân Sinh, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Nó vẫn cho tôi cảm xúc nghẹn ngào ban đầu. Và tôi nghĩ, cũng như Trần Hoài Thư, khi Phan Xuân Sinh viết: Uống rượu cùng người lính phương Bắc, đã dứt bỏ hoàn toàn mọi áp lực xung quanh, chỉ còn lại trái tim đa cảm, bao dung đang rung lên của người nghệ sĩ. Và ngay từ năm 1972, Phan Xuân Sinh đă nhận ra, cuộc chiến này bạn và ta (những người lính hai phía) cùng nhân dân đều bại:
“Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc”.
Dường như, với ư tưởng này Phan Xuân Sinh người lính phương Nam, để cho Nguyễn Duy người lính phương Bắc sau này viết ra những câu thơ: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh. Phe nào thắng th́ nhân dân đều bại”. Và cái tư tưởng nhân bản ấy của người thi sĩ đă xóa nḥa lằn ranh giới của chém giết, hận thù:
“Hăy rót cho ta thêm cốc nữa đi
Ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí…
Những thằng lính thời nay không mang thù hận
Bạn hay thù chẳng một lằn ranh
Thôi hăy uống. Mọi chuyện bỏ lại sau
Nếu có thể ta gầy thêm cuộc nhậu
Bày làm chi tṛ chơi xương máu
Để đôi bên nuôi mầm mống hận thù
Ta chán lắm rồi ba chuyện ruồi bu
Chỉ có bạn, có ta là thua cuộc…” (Uống rượu cùng người lính phương Bắc)
Không chỉ khi hưu chiến, mà ngay trên chiến trường đẫm máu, ḷng nhân đạo, tính vị tha hiện lên đầy ăm ắp trang viết của người lính. Buổi dừng chân của nhà văn Lê Bá Lăng là một trong những bút kư điển h́nh như vậy. Chưa biết nhiều về Lê Bá Lăng, song đọc một số bút kư, truyện ngắn của ông, tôi thấy, cái nào cũng thấm đẫm t́nh người. Là một sĩ quan ngày cũng như đêm hành quân tác chiến, Lê Bá Lăng hiểu hơn ai hết nỗi đau của người lính ở cả hai phía. Do vậy, sự cảm thông với người lính như một nguyên tắc bất dịch trong ông:
“Th́ cái vụ thằng chả bữa hôm ở Lang Xá Bàu đó, ông đừng đưa vội lên Đại Bàng th́ tụi tui giàu to biết mấy. Chỉ cần hai thùng nước lă là nó chỉ, nó khai hết... Tôi nói, thôi dẹp cha chuyện đó đi, khai thác tù binh là bổn phận của tiểu đoàn, đâu phải quyền tao. Tụi mày than phiền măi, chán phèo…
-…Ông nhân đạo quá. Đ.M…Việt Cộng nó giết ḿnh như ngóe mà bắt được thằng nào ông cũng cấm đánh đập…” (Buổi dừng chân- Lê Bá Lăng).
Dường như, Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) bước vào chiến tranh bằng trái tim của người nghệ sĩ. Cho nên, không chỉ với người lính, sự bao dung, ḷng nhân ái của ông đến với cả mọi tầng lớp người trong xă hội. Thi tập Vùng tủi nhục ra đời năm 1966 gây tiếng vang trên văn đàn, song mang nhiều phiền lụy đến cho Thái Luân. Đứng về phía những cô gái làm cái nghề được cho là đi ngược lại đạo đức của xă hội, trong lúc nước sôi, lửa bỏng như vậy, ngoài sự cảm thông, tôn trọng, ta c̣n thấy ḷng can đảm của Thái Luân.
Và Lời cám ơn bar, là một bài thơ được ông viết trong hoàn cảnh ấy. Nó đă phá vỡ tư tưởng cổ hủ, và bóc trần bộ mặt thật của con người, xă hội lúc đó. Có một điều đặc biệt, bài thơ có tính khẩu ngữ trần trụi này, nếu tách ra, nó chỉ là những câu nói thường nhật. Nhưng ghép lại, nh́n tổng thể, nó trở thành bài thơ rất mới, lạ ở thời điểm đó:
“Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con
Đă gồng ḿnh chịu đựng
V́ cuộc sống
Của các cô
Và của Việt Nam.
Thưa thầy giáo, thưa công chức:
Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức
Chửi người ta
Con gái Huế bây giờ đi bán bar!” (Thái Luân- Lời cám ơn bar)
Tuy là một sĩ quan trực tiếp cầm súng ngoài mặt trận, nhưng cái tư tưởng chán ghét chiến tranh, khinh bỉ những kẻ gây ra cuộc chiến đầy ăm ắp trong thơ Thái Luân. Mượn sân khấu hề chèo, Thái luân chọc thẳng vào cái ung nhọt của xă hội. Thông qua bài thơ: Bi hài kịch với những h́nh ảnh ẩn dụ, Thái Luân cho ta thấy, một sự mỉa mai, châm biếm rất sâu cay về hiện thực cuộc sống:
“Đạo diễn đưa tay lên,
Đạo diễn đưa tay xuống,
Bi hài kịch c̣n dài
Bi hài kịch chưa thôi.
Diễn viên và khán giả
Ai cũng buồn như ai!”
Tuy nhiên, Bi hài kịch, hay Lời cám ơn bar chưa hẳn là những bài thơ hay của Thái Luân, khi nó nằm trong mạch của bài viết, mà tôi lấy làm dẫn chứng. Nhắc đến Thái Luân (Nguyễn Hồng Phúc) người đọc sau này biết nhiều hơn với những tác phẩm rất hay như: Nửa Hồn Xuân Lộc, Tháng Tư, lính không cần hớt tóc, hay Mặc kệ ai bỏ làng bỏ nước… dưới bút danh Nguyễn Phúc Sông Hương.
Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đă được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học miền Nam được h́nh thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.
Tuy nhiên, khi đi sâu vào đọc, nghiên cứu, ta có thể thấy miền Nam không phải không có một bộ phận văn thơ tuyên truyền, tâm lư chiến phục vụ cho chiến tranh. Thứ văn thơ tuyên truyền, tâm lư chiến thời vụ này, đă ngỏm củ tỏi ngay sau khi nó ra đời.
Sách báo miền Nam vẫn c̣n kiểm duyệt, và đục bỏ những trang viết có thể gây quá bất lợi cho cuộc chiến, khi in ấn, xuất bản. Những lư do, việc làm này đă dẫn đến hạn chế và nhược điểm không nhỏ cho Văn học miền Nam ở giai đoạn này.
Đỗ Trường.
Bầu cho ai?
Chủ nghĩa dân tộc cực
đoan
Sống ở Mỹ sướng hay ở Việt
Nam sướng?
Một góc nh́n
Bắt đầu từ đó...
Tinh
thần chống cộng của thế ǵới Tư Do
Chuyện từ vùng biên giới Bắc – Nam Hàn
Trời hay đổi ý?
Sự phá hoại
trong ḷng nước Mỹ
Tiếng Việt thời nay
Tương lai nước Mỹ với phong
trào đồng tính...
Ai đă làm mất miền Nam?
V́ sao
Hà Nội luôn mặc cảm với cờ vàng VNCH?
Những điều nghịch lư
Đất có thổ công?
Luận về lư tưởng
CSVN trong tiến tŕnh cuối: nội bộ ăn thịt lẫn nhau!
Philippines kiên cường Việt Nam ở đâu ?
Thất bại trong hoà b́nh
Miệng lưỡi cộng sản
Ai có quyền viết sử VN?
Joe Biden thay trắng đổi đen
Trung cộng và Taiwan : Đánh hay không đánh
Toàn bộ kế hoạch của
đảng Dân Chủ
Đặng Tiểu B́nh trong chiến tranh Việt-Trung 1979
Những ưu tư về hệ thống y tế Hoa Kỳ
Hoàng Sa giữa những phản bội và trung thành
Trách nhiệm chính trị
Dĩ ḥa vi qúy
Môi sinh và đời sống con người
Những kẻ phản quốc
Bạn muốn nước Mỹ trở thành như Florida hay như
California?
Sự hổn loạn không
ngừng trên toàn thế giới
Từ xung đột Israel-Hamas 2023
Giá trị của Việt Nam
Cộng Ḥa
Khi “Đồng Minh” lại nhảy vào?
Triết lư - Hành
động xây dựng CĐVN/HN
Ai mới là Ngụy?
Sự thật sẽ
giải thoát chúng ta
Không phải
nước mắt nào cũng mặn
Quyền dân tộc tự
quyết
Người đứng bên trái bức h́nh tên ǵ?
Nhân lễ Độc Lập
Hoa Kỳ
Đọc Nguyễn Gia Kiểng: Tổ
Quốc ăn năn
Nước mắt Tây Nguyên
Ơn đăng cái con cờ
VNCH thua là đúng rồi?
Lời thật mất ḷng
Khi bộ trưởng trả
thù
Ghẹo cho chúng chửi
Liệu nước Mỹ có
thể vỡ nợ ?
Những người
tranh đấu ở VN....
Thư không niêm
gửi bà Dương Thu Hương
Trăm ngh́n nhánh khổ!
Một
nền giáo dục dối trá toàn diện
Món nợ tuổi 20
Bạn
sẽ dạy con trẻ thế nào về sự thật và lịch sử VN?
Nói với ông Bảo Ninh
Nghề
... bán nước
Chính trị và nói láo
Một năm nói nhảm, nói láo
Hữu Loan và bài thơ "Màu tím hoa sim"
Cách chặt cánh tay nối dài...
Bệnh háo danh
Nội chiến Cộng Hoà
Chính trị Mỹ
đi vào cực đoan
Lạy ông tôi ở bụi này
Tại sao ủng hộ
Ông Trump?
Thực hư tăng
trưởng kinh tế 2.6% trong quư 3/2022
Dân Tây không hiểu ǵ về nước Mỹ
Bầu cử 2022
Joe Biden, Một Tổng Thống
bất tài...
Dân gánh lè lưỡi
Nạn cuồng trong cộng đồng tị nạn
Di dân, tội ác & ma túy đe dọa tới dân Hoa Kỳ
Biden bị cuồng nặng
Bùi Tín: kẻ đánh tráo lịch sử
Thủ tướng của
năm bộ - Dân chủ Úc có vấn đề?
Ai cho
tôi được làm người trung thực?
Ukraina: Sau
6 tháng chiến tranh
Tôi ủng hộ
Donald Trump
Một Trung Quốc đă
thấm mệt – I. Bài học Mỹ
Ông Tập tái đắc cử
chưa hẳn là chuyện xấu...
FBI đă vượt sông
Rubicon?
Thế lực ngầm sẽ thống trị toàn thế giới
Nếu Mỹ và Trung Quốc thực chiến, ai sẽ
thắng?
Tư tưởng chủ
nghĩa của Marx....
Dốt hay nói chữ
Tiếng Việt trong
sáng
Phản bác ông Bùi Bảo
Trúc
Hát cho một
người quỳ xuống
Tin tối cao pháp viện
Biden
t́m phao để khỏi chết ch́m
Nước Mỹ biến thái dưới Biden
Khi Domino ngă
Nhạc sĩ Cung Tiến ...
Thái
độ mới của Mỹ đối với Đài Loan
Điều tra cuội...
Cuộc chiến Ukraina: trận đồ Bát Quái
Học thuyết... chống liên xô
Bầu tổng thống Pháp
Hoa Kỳ hồi sinh
Chuyện bà Clinton bao giờ chấm dứt?
Tản mạn ngày 30
tháng 4
Anh hề thay đổi thế giới
Bảo vệ chính nghĩa
Dân Việt Nam không có khả năng
thay đổi chính phủ một cách ôn ḥa?
TT Kennedy & VN
Nguy cơ trung cộng
Biden: Một đại họa thế giới
Biden: Bỏ rơi con người & vô trách nhiệm
Cháy nhà ra mặt chuột
Gấu điên mà thế giới bó tay
Putin bất ngờ trước cuộc chiến kinh tế của Châu Âu
Tầm nh́n chính trị qua xung đột Nga & Ukraine
Ai để Nga "chơi
cha" dân Mỹ?
Putin trong
cơn tuyệt vọng
Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của một thằng không do
người đẻ !!!
Tranh chấp tại Biển
Đông ...
Trung Cộng cài
gián điệp ảnh hưởng bầu cử ở Úc
Biden quá tầm tay
Viết cho tuổi 30
Câu chuyện "mắc dịch"
Chính quyền ngoài hành tinh
Năm mới bới chuyện
cũ
Điều tra cuội về biến cố 6/1/2021
Đại dịch tội ác
Tổng thống Mỹ "Giỏi nhất"