Lời tác giả:
Đây là một hồi kư chiến trường ghi lại những biến chuyển cũng như
những giây phút cuối cùng về cuộc di tản của phi đoàn trực thăng 215
Thần Tượng trú đóng tại Nha Trang, Không Đoàn 62 Chiến thuật, cùng
với những kỷ niệm của một hoa tiêu trong những tháng năm phục vụ tại
thành phố này.
Những chi tiết cũng như tên tuổi trong bài hồi kư này đă được viết
lại hoàn toàn trên sự thật, v́ thế nếu có ǵ sai trái th́ xin tất cả
các Niên Trưởng cũng như các chiến hữu và độc giả tha thứ.
Bài này để tưởng nhớ đến anh Trần Văn Vân, một người bạn thân, một
khóa sinh xuất sắc đă tử nạn tại trường bay Fort Hunter, Georgia,
trong một phi vụ huấn luyện .
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215, Thần Tượng
Vài Ḍng Sơ Lược:
Khi thành phố Ban Mê Thuột thất thủ ngày 13 tháng 3 năm 1975, toàn
bộ vùng Cao Nguyên hầu như đă lọt vào tay của CSBV. Hai Sư đoàn F10
và Sư đoàn 320 của Cộng quân thừa thắng, tiến quân dọc theo Quốc lộ
21 về hướng đông. Mục tiêu kế tiếp của Bắc quân là tỉnh Phú Yên và
Khánh Ḥa.
Hai trung đoàn của Sư Đoàn 23 Bộ Binh đóng quân tại Pleiku tức tốc
được không vận xuống quận Phước An cách Ban Mê Thuột 12 km hướng
đông bắc, để làm bàn đạp phản công tái chiếm. Cuộc chuyển quân đang
tiến hành tốt đẹp th́ được lịnh hủy bỏ, cùng với quyết định rút tất
cả chủ lực quân của Quân Đoàn II từ Kontum và Pleiku về vùng duyên
hải, sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu họp khẩn cấp với các tướng
lảnh tối cao tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975.
Để ngăn chận sự bành trướng của Bắc quân từ vùng Cao Nguyên, Quân
Đoàn II chỉ thị Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù tăng viện cho Trung Đoàn 40/SĐ22
Bộ Binh và hai tiểu đoàn Địa Phương Quân, trải dài tuyến pḥng thủ
từ quận Khánh Dương đến đèo Phượng Hoàng, dọc theo QL- 21, con đường
nối liền hai tỉnh Đắk Lắt và Khánh Ḥa.
Cuối tháng 3, 1975 nút chặn chiến lược này bắt đầu lung lay dưới sức
áp đảo dồn dập của địch quân với một quân số đông đảo gấp bội phần,
trang bị đầy đủ xe tăng, pháo binh hạng nặng. Mặc dù được trấn thủ
bởi một đơn vị thiện chiến nhất của QL/VNCH nhưng v́ thiếu hụt đạn
dược, vũ khí nặng cũng như lương thực, mănh hổ nan địch quần hồ,
pḥng tuyến của Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đă hoàn toàn tan vỡ ngày 2 tháng
4/ 1975. Hơn ba tiểu đoàn thiện chiến nhất của quân đội miền Nam,
quân số khoảng vài ngàn người chỉ c̣n lại hơn năm ba trăm người rút
lui được bằng đường bộ về tới Nha Trang.
Mục tiêu đă mở rộng trên đường tiến quân của Bắc quân. Nha Trang hầu
như bỏ ngơ cho bước chân của đoàn quân xâm lược, không một đơn vị
chủ lực quân nào c̣n lại được chỉ thị để pḥng thủ, bảo vệ. Con
đường tiến chiếm trọn miền duyên hải của CSBV, cũng như những phần
đất c̣n lại chỉ c̣n là yếu tố thời gian…
Nếu một mai ra đi không trở lại
Nha Trang ơi, xin vĩnh biệt cùng người.
Đời phi công vẫy vùng trong băo lửa
Đứa ra đi …đứa găy cánh ngang trời.
M.r.
Con Đường Rộng Mở …
Làm thủ tục tắt máy tàu xong, tôi gỡ chiếc nón bay ra khỏi đầu treo
sau lưng ghế bay, đẩy tấm thép chắn đạn lùi về phía sau mở cửa nhảy
xuống đất. Trên mặt băi đậu trực thăng được lót bằng những tấm vỉ
sắt ghép lại, hơi bốc nóng lên dưới ánh nắng chói chan ban trưa tạo
thành một ảo tưởng của một tấm gương lung linh, sinh động . Cách chỗ
tôi đứng không xa là chiếc trực thăng vơ trang số hai của phi đoàn
Thần Tượng đang đậu, cánh quạt c̣n quay chầm chậm, chưa ngừng hẳn.
Thấy Trung Úy Thành “Râu” trên đang miệng ph́ phà điếu thuốc lá cùng
người hoa tiêu phụ vừa mở cửa bước xuống tàu, tôi bước nhanh tới chỗ
hai người.
- Này Thành…, tao vào thăm ông anh một chút, nghe nói ổng phục vụ
tại Dục Mỹ này mà tao chưa có dịp ghé. Mày chờ ngoài này, nếu cần
cất cánh gấp th́ cứ quay máy trước, tao chạy ra ngay.
- OK,… đi đi …
Nghe Thành trả lời xong, tôi quay người bước vội vă ra khỏi băi đậu
trực thăng, chạy băng qua băi đất trống trước mặt, đến con đường
nhựa dẫn tới một cái cổng gác lớn, bằng xi măng quét vôi trắng, trên
tường viết: Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân. Tôi tiến đến gần
một người lính đang đứng gác.
- Chào anh…, anh có biết Trung Tá Vĩnh Nguyên hiện đang ở đâu không
anh ?
Người lính gật đầu, xong đưa tay chào rồi quay người chỉ về phía
trong trại.
- Ổng đang ở căn trại thứ ba, đằng kia ḱa.
Tôi chào cám ơn rồi cắm đầu bước nhanh qua cổng trại theo con đường
trải nhựa đen. Trong trại im lặng và vắng vẻ một cách bất thường,
một vài người lính rảo bước đây đó. Hàng dương liễu trồng thẳng tắp
bên đường, soi bóng mát xuống một dăy barrack tường sơn màu vàng,
mái lợp tôn nằm sát bên nhau. Đến căn trại thấy cửa chính hé mở, tôi
đẩy nhẹ bước vào. Một người đàn ông tóc húi cua trong bộ đồ rằn ri
Biệt Động Quân, trên cổ áo mang hai bông mai bạc, đang ngồi im lặng
bất động sau một bàn giấy thật rộng giữa căn pḥng trống trải. Tôi
nhận ra ngay người anh chú bác ruột đă bao năm không gặp.
- Anh Nguyên!
Ông anh tôi ngẩng đầu lên chau mày nh́n. Có lẽ đă nhận ra tôi, anh
bước tới miệng nở nụ cười hai cánh tay dang rộng.
- Trời…, em.., ngọn gió nào đă thổi em đến nơi này ?
Đứng trước mặt là một là một khuôn mặt quen thuộc tôi c̣n nhớ rơ khi
tôi đang c̣n là một học sinh, anh trở về thăm nhà từ mặt trận bận bộ
đồ trận đeo phù hiệu đầu cọp đen nhe răng, hai bông mai vàng sáng
chói trên cổ áo. Nghe nói sau một thời gian tác chiến cho binh chủng
Biệt Động Quân, anh đă được biệt phái về Cảnh Sát Đô Thành theo nhóm
của Tướng Nguyễn Ngọc Loan, giữ chức vụ khá quan trọng nào đó tại
Sài G̣n. Sau vụ thất sủng của Tướng Loan trong vụ xử bắn tên đặc
công Việt Cộng “Bảy Lốp” tại Chợ Lớn trong vụ biến động Mậu Thân,
anh được chỉ định về Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ này. Từ đó cuộc đời
binh nghiệp của anh coi như là “dậm chân tại chỗ”. Tôi nh́n khuôn
mặt của anh bây giờ có vẻ rắn rỏi, dày dặn sương gió hơn nhưng vẫn
c̣n giữ được nét phong độ như ngày nào.
- Dạ…, em đáp đây chờ phi vụ yểm trợ cho tiểu đoàn Dù đóng trên đèo
Phượng Hoàng, nhân tiện em ghé thăm anh. Anh Nguyên, lâu quá em chưa
được gặp lại anh, anh vẫn mạnh khỏe chứ?
- Cám ơn em, anh vẫn thường. Chú thím có khỏe không em?
- Dạ…, vẫn khỏe anh ạ.
Tôi chưa kịp nói tiếp th́ anh đột ngột hỏi tôi:
- Này, em đi bay trên vùng thường chắc rơ, nghe nói t́nh h́nh trên
Khánh Dương bi đát lắm phải không?
- Đúng như vậy, chắc không xong rồi anh ạ…. Ba bốn ngày trước Tiểu
Đoàn 5 Dù bị đánh tan hàng ở Khánh Dương rồi. Hiện tụi nó đă đến sát
chân đèo Phượng Hoàng ở cách đây có mấy chục cây số thôi. Em ghé vào
đây cũng có mục đích là hỏi anh có muốn rời khỏi đây không? Theo em
nghĩ là anh phải tính trước đi, coi chừng kẹt lại đó. Hay là anh
theo tàu em về Nha Trang lo cho hai bác và mấy anh chị? Nếu anh đồng
ư chút th́ nữa xong phi vụ em sẽ ghé đón anh.
Anh mỉm cười, đượm trong ánh mắt tôi thoáng thấy phảng phất một nỗi
buồn xa vắng. Anh bước tới choàng vai tôi rồi lắc đầu:
- Không được đâu em,… anh phải chờ lệnh cấp trên, không phải dễ dàng
như em nghĩ đâu. Em về gấp lo cho chú thím đi, cho anh gủi lời thăm
tất cả nghe. Nhắn dùm hai bác là anh vẫn b́nh thường, đừng lo cho
anh.
Chợt có tiếng trực thăng bay vù ngang trên đầu cùng với tiếng
o…o…của mấy chiếc tàu đang quay máy…
- Chắc em phải đi rồi, anh ở lại.., ráng cẩn thận nghe anh.
Vừa dứt câu, tôi ôm choàng người anh họ siết chặt trong ṿng tay, cố
nén cơn cảm xúc đang dâng trào, tôi quay người vội vàng bước ra khỏi
cửa, sải bước về hướng của hai chiếc trực thăng vơ trang đang chờ.
Tại băi đậu, hai con tàu đă quay máy, cánh quạt vùn vụt thổi bụi mù
mịt. Tôi phóng lên ghế bay cánh cửa đă mở sẵn. Vừa choàng chiếc áo
giáp nặng nề lên người, chưa kịp gài giây an toàn và đội nón bay lên
đầu người hoa tiêu phụ đă vội vă kéo tàu rời mặt đất. Trong tiếng
động ầm ĩ của con tàu tôi hét với người hoa tiêu phụ:
- Chuyện ǵ đă xảy ra?
- Charlie (chiếc trực thăng chỉ huy) chở Bộ Chỉ Huy Dù cất cánh
trước rồi, ḿnh lên vùng gặp Charlie sẽ có chỉ thị.
Hai chiếc trực thăng vơ trang nặng nề lướt trên mặt những vỉ sắt một
khoảng ngắn rồi rùng ḿnh vươn lên cao. Tôi quay mặt qua khung cửa
nh́n xuống những dăy nhà mái tôn đang nằm im ĺm núp bóng bên hàng
dương xanh, hy vọng được thấy lại h́nh bóng của người anh họ tôi một
lần cuối. Tàu đă lên cao, gió lộng qua khung cửa luồn vào chiếc áo
bay ướt đẫm mồ hôi trên lưng. Đàng sau tôi, Trung Úy Thành “Râu” bay
chiếc vơ trang số hai đang bám gót ở cao độ thấp hơn, cánh quạt chấp
chóa dưới ánh mặt trời. Dưới chân, con Quốc Lộ 21 đang uốn éo leo
lên triền dốc của dăy núi cao trước mặt.
Vài phút sau tàu đă lên cao gần năm ngàn bộ, tôi
nghiêng ḿnh nh́n xuống con đường đèo trải nhựa đen chạy ngoằng
ng̣eo dọc theo sườn núi. Bên dưới là ngọn đèo Phượng Hoàng được tử
thủ bởi hai Tiểu Đoàn 6 và 2 của Dù. Ngọn đèo chiến lược này c̣n
được gọi là M’Drak, tên của một huyện lỵ nằm bên QL- 21, đa số dân
cư là người dân tộc thiểu số gốc Ê đê.
Hiện tại pḥng tuyến này đang bị áp lực nặng của hơn hai trung đoàn
của CSBV thuộc hai Sư đoàn 968 và 320 đang trên đà chiến thắng, mở
đường tràn xuống miền đồng bằng duyên hải.
Trong trận đánh bốc lửa vừa qua tại Khánh dương, địch quân đă ngang
nhiên sắp hàng giữa ban ngày, hơn chục chiếc xe tăng T- 54 tấn công
vào tuyến pḥng thủ của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, không cần che dấu, ngụy
trang. Những phi tuần A- 37 xuất phát từ căn cứ Phan Rang, Không
Đoàn 92 Chiến Thuật, đă nổ lực yểm trợ nhưng không đủ sức ngăn cản
bước tiến của một lực lượng địch quân quá đông đảo.
Trận chiến đă bùng nổ trong một hoàn cảnh hoàn toàn thất lợi cho
miền nam Việt Nam, thiếu hẳn sự hậu thuẩn của đồng minh Hoa Kỳ, cán
cân quân sự nghiêng hẳn về phía Bắc quân. Trên b́nh diện lớn hơn của
cuộc chiến, ở cương vị của một hoa tiêu, tôi không đủ yếu tố để hiểu
rơ nguyên nhân của những sự thất bại liên tục đang xảy ra ngoài sức
tưởng tượng của tôi. Có những khi bay cao trên ṿm trời nh́n xuống
quê hương mịt mù khói lửa, tâm tư tôi hỗn loạn, hoang mang lo âu
cùng cực khi nghĩ đến những ǵ sẽ xảy ra cho vận mạng của Tổ Quốc
trong những ngày sắp đến.
Trong giây phút này, dưới chân tôi là một mặt trận cấp sư đoàn của
địch, tôi tự hỏi hai chiếc trực trăng vơ trang chậm chạp này được
gủi đến đây để có mục đích thiết thực ǵ hơn là một phi vụ “tượng
trưng”, chỉ để nâng cao tinh thần những chiến sĩ Dù đang trên đà bị
tràn ngập bởi Bắc quân?
- Mănh Hổ,… Charlie gọi,…trả lời ? (Mănh Hổ tên gọi của trực thăng
vơ trang phi đoàn 215, Thần Tượng).
Nghe tiếng của Đại Uư Huỳnh Râu bay chiếc C@C (tàu chỉ huy) trên tần
số, tôi ngước mắt nh́n. Một chấm đen nhỏ đang bay ṿng tṛn măi tít
trên cao.
- Nghe…nói đi Charlie…
- Hổ cho biết vị trí.
- Đang ở trên đầu đèo Phượng Hoàng, cao độ năm ngàn bộ… nghe rơ trả
lời.
- Nghe năm…, hai bạn “hold” trên đầu quân bạn, đừng bay quá chân đèo
hướng bắc. Chờ chỉ thị…
Nghe Huỳnh Râu nói xong trên tần số, tôi hướng ánh mắt dưới thấp về
phía trước. Xa xa hướng chân đèo, một đoàn công voa chừng sáu bảy
chiếc xe nhà binh, nhỏ tí tẹo như những đồ chơi trẻ con đang nằm
ngổn ngang, rải rác bất động dọc theo lề đường, h́nh như đă hư hại
hoặc cháy đen.
- Charlie…, đây Mănh Hổ, … đoàn xe dưới chân đèo của phe ta phải
không?…
- Hổ…, đúng rồi…, đừng đến gần…, đoàn xe tiếp tế của Dù bị phục kích
tối hôm qua…
- Mănh Hổ…, thấy đám rừng nằm trên sườn đồi phía đông đoàn công voa
không?… Tác xạ xuống đám rừng trên sườn đồi…, nghe rơ. Đừng vào gần
quá coi chừng SA- 7…Lúc nào sẵn sàng tác xạ cho biết…nghe rơ?
Coi chừng SA- 7! … Tất cả giác quan trong cơ thể
tôi bừng dậy như vừa chạm phải một luồng điện mạnh, sau câu nói của
Huỳnh Râu. Cách đây khoảng hơn hai tuần lễ, một chiếc vơ trang của
phi đoàn 219 King Bee đă lảnh nguyên trái SA- 7 nổ tung khi đang bay
yểm trợ cho cuộc đổ quân tái chiếm phi trường Phụng Dực, gần Ban Mê
Thuột. SA- 7 (Strela- 2) do Nga Sô chế tạo là một loại hỏa tiễn địa-
không cá nhân, bay với tốc độ siêu thanh và tầm sát hại từ năm bảy
chục bộ cho đến khoảng hơn năm sáu ngàn bộ, đuổi theo hơi nóng phát
xuất từ động cơ máy bay, cực kỳ hữu hiệu, nhất là đối với những
chiếc trực thăng tốc độ chậm ở cao độ thấp.
- Hổ…, tin t́nh báo cho biết địch quân dàn quân rất đông gần chân
đèo, “hold” trên đó…đừng bay về hướng bắc. Coi chừng,…cẩn thận…
Trong giọng nói của Huỳnh Râu chứa đựng một sư lo ngại và quan tâm
tới sự an toàn của hai phi hành đoàn, cũng như một lời nhắc nhở của
một người bạn thân đă từng chung chia hung hiểm ngọt bùi qua những
năm tháng chiến đấu bên nhau. Huỳnh có khuôn mặt bậm xị, hàm râu mép
dày và một thân h́nh khá nặng nề. Tuy là một phi công nhưng anh
thích bận bộ đồ hai mảnh “nomex”, đầu đội mũ vành, vải dù. Trông
Huỳnh có cốt cách của một người lính biệt kích hơn là một hoa tiêu.
Anh là một trong những phi công ṇng cốt, ĺ lợm của phi đoàn Thần
Tượng trong phi đội tải quân, đă vào sinh ra tử bao nhiêu phen trên
chiến trường miền Tây Nguyên. Huỳnh có một thói quen đặc biệt tôi
vẫn nhớ là anh không bao giờ xài ví da. Tiền bạc giấy tờ luôn luôn
bỏ trong bao ni lông. Mỗi khi cần tiền, anh lục đục móc trong túi
quần lấy bao ny lông xếp hai ba lớp ra, lôi ra xấp tiền xẹp dí v́ bị
ngồi đè lên. Tôi ṭ ṃ hỏi anh tại sao không xài ví th́ anh thản
nhiên trả lời : “Tụi ḿnh ở trên trời suốt ngày, không biết lúc nào
bị bắn, nếu lỡ có… rớt xuống nước th́ tiền khỏi bị ướt”. Nghe qua,
không ai khỏi bật cười v́ lư sự ngộ nghĩnh của anh ta.
Tôi cho con tàu bay trở lại, ṿng trên cao của ngọn đèo. Dưới chân
đèo hướng đông, bên phải của đoàn xe công voa nằm bất động, mảng
rừng xanh đậm từ chân núi kéo dài lên đến gần tới lưng chừng rồi
tiếp nối bằng trăng cỏ tranh màu vàng úa lên tới đỉnh núi, nhiều chỗ
cháy nám đen v́ bom đạn của những phi tuần khu trục.
Những mảnh nắng chiếu loang lổ xuống mặt rừng núi yên tĩnh, không
một vật di động, ngoài những cột khói đó đây đang c̣n âm ỉ cháy… Con
đường đèo chạy quanh co, không một chiếc xe, không một bóng người,
lăng văng đâu đó h́nh bóng của tử thần đang ŕnh rập. Tất cả im
lặng, bất động trong một tư thế sẵn sàng bùng nổ.
Trận chiến h́nh như đang bước vào giờ thứ hai mươi lăm, sự liều lĩnh
táo bạo thiếu tính toán của tôi trong giai đoạn này là một hành động
vô ích nếu không nói là rồ dại. Khi quỳ gối dưới lá Cờ- Vàng- Ba-
Sọc- Đỏ để lănh nhận bộ quân phục mang lên người, tất cả chúng ta
đều tâm nguyện sẵn sàng hy sinh tánh mạng ḿnh để bảo vệ Tổ Quốc,
Quê Hương. Tuy nhiên theo tôi nghĩ, sự hy sinh đó cần phải cân nhắc,
suy tính để đánh đổi xứng đáng công ơn của đất nước đă đào tạo cho
chúng tôi được trở thành như ngày hôm nay. Tôi cần phải đặt tính
mạng của hai phi hành đoàn trực thăng vơ trang, những người chiến sĩ
đă từng vào sanh ra tử với tôi bao nhiêu năm qua, lên hàng đầu.
Trong khoang tàu, tiếng gió lộng đập phần phật qua khung cửa mở rộng
cùng tiếng máy của động cơ bán phản lực nổ đều đặn, hai người mê vô
xạ thủ già dặn kinh nghiệm chiến trường đang ngồi yên trên hai thùng
đạn đặt kế bên hai khẩu mini-gun sáu ṇng, hai tay thủ chặt súng
chỉa xuống bên dưới. Không ai nói một lời, nét mặt khẩn trương, căng
thẳng. Người hoa tiêu phụ ngồi bên ghế trái, mắt nh́n vào đồng hồ
phi cụ, tay phải để trên nút vặn của hộp điều hành vũ khí (armament
control box) ở giữa hai ghế bay.
Kim đồng hồ cao độ đang chỉ khoảng năm ngàn bộ. Theo địa thế hiện
tại, chúng tôi thực sự chỉ ở cao độ gần ba ngàn bộ đối với mặt đất,
trong tầm sát hại của hỏa tiễn địa không SA- 7.
Theo kinh nghiệm đă qua với địa thế này chỉ c̣n một con đường độc
nhất là bay sát trên đầu quân bạn, ẩn núp sau những triền núi quanh
co.., oanh kích từ xa đến. Chiến thuật này tương đối an toàn, tuy
nhiên hơi khó khăn cho hai chiếc trực thăng phải xoay xở tránh né
trong một khoảng không gian khá nhỏ hẹp, nằm kẹp giữa hai sườn núi
dốc cao.
Không có sự lựa chọn nào hơn, tôi thông báo cho chiếc số trực thăng
vơ trang số hai đang theo sau.
- Hổ hai đây Hổ một…
- Nghe…, nói đi…
Tiếng nói của Trung Úy Thành Râu bay chiếc Hổ số hai nghe trên tần
số. Thành là một wingman (chiếc bay theo sau) gần gũi nhất của tôi
trong phi đội trực thăng vơ trang của phi đoàn Thần Tượng. Chúng tôi
rất biết ư nhau, nói ít hiểu nhiều.
- Thành,…ḿnh sẽ bay “low level” sát trên đường đèo đánh xuống nghe
rơ.
Tôi chỉ nghe tiếng xè trong tần số của Thành trả lời.
- Hổ hai.., nhớ sau khi tác xạ, phải quẹo gắt 180 độ, đừng bay lố
khỏi đèo…, coi chừng đụng núi…nghe rơ?…
- Hai nghe năm…
Hổ hai vừa trả lời xong, tôi đè mạnh cần cao độ, đẩy tay lái, con
tàu đầy xăng và đạn dược nặng nề chúi mũi quay ṿng trôn ốc, rơi
nhanh như ḥn đá cuội, đường đèo cùng vách núi dâng lên vùn vụt.
Trong khoảng khắc, chiếc trực thăng đă lài sát mặt đường nhựa đen.
Những chiếc thiết vận xa cắm đầy cành lá xanh, ẩn núp dưới tàng cây,
sau tảng đá, những hố cá nhân c̣n phơi màu đất đỏ mới toanh, dần
hiện rơ cùng với những người lính Dù lấp ló trong những công sự dọc
theo con đường đèo. Cho tàu bay thấp ngang mặt đường, trên thung
lũng giữa hai triền núi về hướng chân đèo. Sau lưng trên cao, chiếc
Hổ hai đang xoắn ốc giảm cao độ.
- Charlie!…Hổ sẵn sàng…
Thông báo cho chiếc tàu chỉ huy xong, tôi kéo hết tốc độ, con tàu
chúi mũi lao nhanh về hướng mục tiêu. Cảnh vật bên dưới thân tàu
cùng con suối cạn, oằn èo trong thung lũng hẹp lùi vùn vụt về phía
sau. Trong khoảng khắc trước mũi tàu, hiện rơ đoàn xe cháy nám đen
trên đường dưới chân đèo cùng với những xác người nằm vương văi. Kéo
con tàu vươn lên vừa đủ, tôi chúi mũi phóng tất cả hỏa lực về hướng
địch. Những trái hỏa tiễn vội vă rời dàn phóng, rít lên những âm
thanh chói tai, lao xuống mục tiêu nổ bung. Những cụm khói trắng xám
vương lên trên mặt rừng xanh. Tai nghe nhiều tiếng nổ lốp đốp của
địch bắn trả, tôi kéo hết cần lái về phía trái, con tàu nghiêng ḿnh
quẹo lại 180 độ, lài sát trên mặt rừng cành lá cây xanh trên triền
núi. Người xạ thủ nhoài hẳn người ra ngoài, hai tay trên khẩu súng
bóp c̣. Khẩu súng mini-gun sáu ṇng quay tít, kêu như ḅ rống. Ở một
góc độ quá nghiêng của thân tàu, những viên đạn lửa tua tủa bay vào
khoảng không hướng lên trời. Thần kinh tôi căng thẳng tột độ khi con
tàu nghiêng ḿnh quay đầu đưa đuôi về hướng địch, ống thoát (exhaust
pipe) của máy phản lực nóng đỏ trên lưng tàu là miếng mồi hấp dẫn
cho mấy hỏa tiễn tầm nhiệt đang ẩn núp, ŕnh rập đâu đó. Trên mặt mồ
hôi đổ hột, tôi nh́n chiếc Hổ hai của Thành Râu đang bay ngược chiều
ngang mặt đường đèo, trên con suối cạn.
- Hổ hai…, bắn hết tất cả, một “pass” thôi…, coi chừng đừng bay lố…
Nh́n ngang qua tấm thép chắn đạn bên khung cửa tôi thấy vài người
lính Dù đang đứng hẳn lên khỏi hố cá nhân, hai tay cầm súng lên khỏi
đầu làm một cử chỉ như cổ vơ chiếc trực thăng đang bay vèo ngang
trước mặt. Tôi đưa tay vẫy chào đáp lễ những người hùng Mũ Đỏ.
Cho con tàu quẹo gắt lại trên đầu con suối cạn kẹp giữa hai vách
núi, nối đuôi với chiếc Hổ hai đang lao đầu xuống chân đèo phóng
những trái hỏa tiễn xuống mục tiêu bên dưới. Trên mặt rừng xanh,
giữa những cụm khói bốc lên cao v́ những đầu đạn hỏa tiễn của Thành,
một tiếng nổ dữ dội như một trái bom lửa lớn bốc lên cao.
- Charlie!…Hổ một gọi,…Thấy tiếng nổ phụ không Charlie ?…Nghe không
Huỳnh…, Charlie?
- Chờ chút Hổ một…, OK…, Hổ một nghe không ? Hay lắm…, hay lắm…,
rockets trúng ổ chứa đạn, hay xe nhiên liệu của địch …, nghe rơ
không?
Mắt dán vào đám cháy khói đen tỏa rộng vươn lên cao, tôi cho con tàu
lướt tới yểm trợ cho chiếc tàu của Thành đang quẹo lại. Bỗng trên
mặt rừng, hai ba cột khói trắng nhỏ như từ đuôi của mấy hỏa tiễn
phụt lên cao, tôi hét trên tần số:
- Hổ hai…, Hổ hai.., coi chừng…, SA- 7…, SA- 7,…Break!…, break!….
Vừa dứt lời tôi phóng vội vă những trái hỏa tiễn c̣n lại xuống hai
cột khói trắng đang c̣n lơ lững treo trong không khí, xong tức th́
bẻ lái con tàu quay trở lại. Con tàu nghiêng hẳn, cách quạt đập vào
không khí kêu phành phạch, thân tàu rung bần bật như đang lên cơn
sốt, lài dọc theo vách núi dưới con đường đèo.
- Ầm…, Ầm…, Ầm…
Nhiều tiếng nổ chát chúa bất thần nổ bung trên hai bên triền núi
trước mặt con tàu. Tôi la lớn trên tần số:
- Pháo,…pháo,…pháo kích…
Những mảnh đạn từ những trái đạn đại pháo bay xé không khí rít lên
âm thanh khủng khiếp. Bụi mù cùng đất đá, cây lá tả tơi , rơi rào
rào xuống mặt đường đèo.
Àm…, Ầm…, Ầm… Tôi ngước đầu lên nh́n hai bên sườn núi cao. Những đạn
pháo nổ ầm liên tục rơi dọc hai bên sườn đồi, giữa con suối, trên
mặt lộ, rơi như mưa xuống tuyến pḥng thủ của quân bạn. Tôi kéo hết
tốc lực, chiếc trực thăng cắm đầu bay theo dọc thung lũng về hướng
Nam, len lỏi giữa những đám khói đen xám vừa mới bốc lên. Những
tiếng nổ ầm liên tục vang vọng từ đàng sau đuôi sau hai con tàu.
Địch đă bắt đầu mở cuộc tổng tấn công vào pḥng tuyến cuối cùng của
Dù. Trên bầu trời cao không c̣n thấy những chiếc pháo đài bay B- 52
của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đến trải thảm bom như mùa hè đỏ lửa
năm 72 nữa. Những người lính Dù đang sắp đối đầu một địch thủ có tầm
vóc quá chênh lệch và không hề biết rằng họ sẽ không c̣n được một sự
tăng viện nào từ hậu cứ. Họ phải chiến đấu đơn độc với những ǵ c̣n
lại và với một ḷng dũng cảm vô biên của những người lính trong Binh
chủng Nhảy Dù. Máu của họ đă đổ và sẽ đổ xuống trên ngọn đèo ác liệt
này cho quê hương một lần nữa, có thể là một lần cuối cùng. Trận
chiến đă ngă ngũ trước khi nó sắp bắt đầu.
- Hổ, Hổ…, rời vùng,…về đáp Nha Trang nghe rơ…Hổ?
Tiếng Huỳnh Râu la to trên tần số.
- O K…, Hổ rời vùng…, nghe năm.
Hai chiếc trực thăng của Thần Tượng vừa ra khỏi núi, lên cao độ
hướng về Nha Trang. Con lộ QL- 21 dưới chân, một khung cảnh hiền ḥa
thanh b́nh khác hẳn, vùng đồng bằng Dục Mỹ hướng về quận Ninh Ḥa,
vài ngôi xóm nho nhỏ êm ả dưới ánh nắng chiều bên những khóm tre
xanh, con suối nhỏ uốn lượn giữa những mảnh ruộng khô vuông vức,
b́nh thản vô tư trước chiến cuộc đang lan tràn trên quê hương.
- Hổ một đây Hổ hai…
Tiếng Thành Râu trên tần số riêng của Mănh Hổ.
- Hai.., Hổ một nghe….
- Lúc nảy có phải SA- 7 bắn theo Hổ hai không? Thành hỏi.
- Không phải…, tao lầm. Nếu đúng là SA- 7 bắn th́ mày không c̣n mạng
tới giờ này đâu… Hổ hai, rockets mày đánh trúng cái ǵ của tụi nó,
nổ lớn lắm thấy không?
Tiếng xạch xè trên tần số xen lẩn tiếng Thành Râu:
- …không thấy…, bắn đại xuống rừng, chắc là chó ngáp phải ruồi…ha
ha…Thành Râu cười lớn trên tần số.
Tôi không c̣n cười nổi, nói tiếp:
- T́nh thế không xong rồi. Tao cần về Nha Trang gấp để lo di tản cả
gia đ́nh tao đang c̣n ở đó. Phải lo trước khi tui nó đến không th́
muộn, trở tay không kịp. Tao không muốn chuyện xảy ra như mấy thằng
bạn ở Đà Nẵng.
- Chuyện ǵ xảy ra cho tụi nó?
- Chiều về tao kể cho.
Tôi chấm dứt điện đàm với Thành. Ḷng nóng như lửa đốt, tôi rít hơi
thuốc thật sâu rồi quay đầu thở mạnh ra khung cửa. Bất chợt trong
đầu tôi hiện lên h́nh ảnh thằng bạn cùng khóa mới gặp lại tuần lễ
trước đây, Hào Gàn! Tại sao tôi lại quên hẳn thằng bạn thân đang
ngồi chờ tôi ở nhà. Tôi nhổm thẳng người dậy, tay vỗ bộp vào đùi.
Người hoa tiêu phụ đang cầm cần lái, quay qua nh́n tôi ngạc nhiên
hỏi:
- Chuyện ǵ vậy anh ?
Tôi không muốn người hoa tiêu phụ biết những ǵ tôi đang nghĩ:
- Không…, đâu có ǵ ?
Cách đây vài tuần lể, Hào, phục vụ cho Phi Đoàn 239 Hoàng Ưng tại Đà
Nẵng, dẫn năm chiếc biệt phái cho cuộc không vận Sư Đoàn 23 tái
chiếm Ban Mê Thuột. Vài hôm sau cuộc chuyển quân bị hủy bỏ, Hào
trong chức vụ biệt đội trưởng, cùng hợp đoàn năm chiếc trực thăng
được lệnh về tạm trú tại Không Đoàn 62 Chiến Thuật, ở Nha Trang, yểm
trợ cho mặt trận Tuy Ḥa. Nhiều ngày sau đó, t́nh thế càng hỗn loạn,
lệnh lạc bắt đầu rời rạc, không c̣n chặt chẽ như trước, biệt đội của
Hào hầu như bị lăng quên. Nhiều ngày anh bạn tôi ngồi không, chờ tại
phi trường và chờ…tôi đi hành quân về để hai thằng đi ăn chơi. Hào
đă từng nói với tôi nhiều lần rằng biệt đội này bây giờ như cây chùm
gởi, không ai kiểm soát, mấy chiếc tàu này trong tay của Hào, muốn
bay đâu th́ bay. Tôi tin tưởng Hào “gàn” sẽ giúp được gia đ́nh tôi
hơn mười mấy người, rời vùng lửa đạn nay mai.
Ngửa người vào lưng ghế bay, tôi phun ra làn khói thuốc dày đặc,
những quan tâm lo lắng như đă theo làn khói trắng tan biến trong
không gian.
Chuyện gặp lại nhau giữa Hào và tôi tại mặt trận Tuy Ḥa sau bao năm
biệt tăm từ khi du học Mỹ về là một cái duyên lớn. Hào có một cá
tánh ngang tàng, không đội trên đạp dưới nên ít được cấp chỉ huy cảm
t́nh, có lẽ cái tên Hào “gàn” đă nói lên được phần nào chuyện đó và
cũng là một trong những nguyên nhân Hào bị thuyên chuyển về Đà Nẵng,
khi đang êm ấm gần bên gia đ́nh vợ con tại căn cứ ở Biên Ḥa. Một
câu chuyện nhỏ sau đây đă xảy ra mấy ngày trước sẽ nói rơ lên cá
tánh đó của Hào “gàn”.
Hôm đó tại quán Mộng, một quán ăn lịch sự gần nhà tôi, Hào bận bộ đồ
bay đang rung đùi ngồi hút thuốc lá bên ly cà phê đen, chờ tôi đi
hành quân về th́ có một chiếc xe Jeep ngừng lại ngay cửa, trên xe ba
người đàn ông đẩy cửa bước vào quán. Một người trong đồ tennis trắng
đi trước, theo sau hai người bận bộ đồ thường phục tay xách khẩu
súng M- 16. Hai người đi sau chọn một bàn ngay cửa, người áo quần
trắng bước đến ngồi trên quầy rượu, kế bên bàn của Hào. H́nh như ông
ta là khách quen của quán này, người bồi không cần hỏi tự động bưng
ra một chai Cognac Martel VS, trên cổ chai dán h́nh lưởi liềm bạc có
ba ngôi sao. Thấy không dính dáng tới ḿnh, Hào quay mặt ra đường
nh́n thiên hạ qua lại.
Vài ba phút sau, người đàn ông tay cầm ly rượu pha sô đa sủi bọt
trắng xóa, đưa mắt nh́n Hào và ra dấu như muốn gợi chuyện. Sau vài
lần không gây được sự chú ư của Hào, ông ta bèn lấy ngón tay trỏ
ngoắt Hào lại trong một thái độ trịnh thượng, kẻ cả. Hào hơi bực
ḿnh, cố làm ngơ nhưng không xong. Vị khách vẫn tiếp tục cố gây sự
chú ư của Hào. Không chịu được, anh bạn tôi đứng dậy, bước lại gần
bar rượu, hai tay chống nạnh đứng trước mặt vị khách, rồi hỏi:
- Ông có chuyện ǵ muốn nói không ?
Người đàn ông trả lời một cách tự nhiên, không một chút suy nghĩ:
- Không có ǵ cả “chú”, anh chỉ muốn mời “chú” đến uống ly rượu và
nói chuyện cho vui thôi.
Đang sẵn bực ḿnh trong bụng v́ thái độ của người đàn ông, Hào nổi
cơn:
- Xin lỗi, ông tưởng ông là ai mà có thái độ như vậy? Tôi đâu cần
uống rượu của ông. Tôi cũng không phải là “chú” của ông. Ông thấy
tôi đang mang trên vai cái ǵ không? Nói xong Hào chỉ vào mấy bông
mai gắn trên vai.
Vị khách liền đổi giọng:
- Đừng nóng, “chú” chắc ở nơi xa tới nên không biết anh. Anh là Đề
Đốc Châu, anh em thường gọi là Châu “cao bồi”, chỉ huy trưởng Trung
Tâm Huấn luyện Hải quân ở đây.
Cơn giận chưa nguôi Hào sẵn trớn cao giọng:
- Xin lổi ông, tôi không cần biết ông là cái ǵ khi ông đang bận đồ
dân sự, nhưng lịch sự tối thiểu ông phải kính trọng bộ đồ của tôi
đang mặc trên người chứ. Vừa nói “Hào Gàn” vừa chỉ vào bộ đồ bay
ḿnh đang mặc.
Ngay lúc đó hai người đàn ông bận đồ dân sự ngồi ngay cửa ra vào
đứng dậy, tay xách khẩu M- 16 bước đến gần bàn kế bên. Hào quay đầu
lại nh́n hai người mới đến trong một tư thế đề pḥng.
Bỗng nhiên, vị Đề Đốc xô ghế đứng hẳn dậy, rồi trong một cử chỉ bất
ngờ, bước tới vỗ vai Hào nói:
- Thôi bớt nóng đi em. Anh khen em đó…lỗi ở anh. Anh không trách em,
em đă có một thái độ rất đúng. Anh không ngờ em ở xa tới nên mới
không biết anh là ai. Anh ở đây rất thích mấy ông đi bay, … Thôi anh
em ḿnh ngồi xuống làm vài ly rồi kêu ǵ nhậu nghe…
Những ǵ Hào kể lại đă không làm tôi ngạc nhiên. Đề Đốc Châu là một
vị sĩ quan cao cấp rất chịu chơi và b́nh dân, đặc biệt có nhiều
thiện cảm với những chàng trai đi mây về gió. Tôi là một trong những
người đó và đă nhiều lần ăn nhậu với vị chỉ huy cao cấp chịu chơi
này tại Quán Mộng.
Một lần tôi được mời tới nhà Đề Đốc ăn cơm tối. Căn biệt thự rộng
răi, tọa lạc trong một khu vườn cây bóng mát đối diện với băi biển,
ngay góc đường Hàm Nghi và đường Duy Tân. Sau khi ăn cơm xong, tôi
cùng Đề Đốc leo chiếc xe du lịch màu xanh đậm mang bản số gắn một
ngôi sao bạc đi vũ trường Baccara để giải trí. Một điều “không may”
là tôi đă uống quá nhiều rượu chát trong khi ăn cơm, tuy chưa say
nhưng bụng tôi căng ph́nh như một con cóc. Khi xe đang chạy ngang
một con đường khá đông đúc, tôi bất thần tḥ đầu ra ngoài xe, miệng
kê trên cánh cửa, phun tung tóe ra tất cả những cái ǵ đă “thồn” vào
bao tử xuống mặt đường nhựa. Đằng sau xe của Đề Đốc là một chiếc xe
Quân Cảnh Hải Quân đang chạy theo sát nút để hộ tống. H́nh ảnh không
mấy đẹp này đă in sâu vào trong đầu tôi, và đă làm tôi rất “hổ thẹn”
mỗi khi nghĩ đến…
Gió biển mát lạnh đập phần phật vào khoang tàu mở cửa, măn mẳn một
mùi vị tanh tanh của nước biển làm tôi tỉnh hẵn người. Hai chiếc
trực thăng vơ trang đang bắt đầu vào không phận của thành phố Nha
Trang. Trước mặt là một vùng đại dương mênh mông một màu xanh biếc,
nổi bật những con sóng bạc đầu sủi bọt trắng nô đùa rượt đuổi nhau
dọc theo băi các vàng. Xa về hướng tây ngoại ô thành phố tọa lạc một
bức tượng Phật khổng lồ màu trắng nổi bật, đang ngồi thiền tịnh trên
đỉnh đồi chùa Phật Học, lặng yên hướng về thành phố, như đang ngậm
ngùi thương xót cho chúng sanh sắp đi vào con đường chinh chiến điêu
linh…
Tượng Phật ngồi trên đồi chùa Phật học, Nha Trang
Quán Mộng và “những ngày xưa thân ái”
Rời phi trường, tôi chạy chiếc Honda 90 cũ kỹ dọc theo bờ biển trên
đường Duy Tân trở về nhà. Trời đă về chiều, những vạt nắng vàng cuối
cùng c̣n vương vấn trên những đọt cây bàng, cây dương liễu hay trải
dài trên mặt đường tráng nhựa đen. Gió mát lồng lộng thổi vào người,
qua mọi ngơ ngách trong cơ thể, như cuốn trôi đi những bụi bặm chiến
tranh tôi đă mang về từ vùng trời mịt mù khói lửa. Dọc theo bờ biển,
thưa thớt vắng vẻ khác thường, vài xe bán đồ ăn dọc theo những hàng
dừa buồn bă vắng khách. H́nh ảnh của một buổi chiều vàng đầy người
đi tấp nập trên băi biển hóng gió, cười nói đùa giỡn không c̣n t́m
thấy nữa. Trên đường cái, xe cộ như đang chen lấn, vội vă tranh nhau
chạy đua với thời giờ.
Có lẽ người dân Nha Thành đều linh cảm được những ǵ sắp xảy đến cho
thành phố này. Viễn ảnh của một đoàn quân vô nhân khát máu đang sắp
sửa tràn ngập đường phố, qua kinh nghiệm của Tết Mậu Thân đă gây lên
nỗi kinh hoàng trong đầu mọi người. Giống như những con cá chen chúc
vùng vẫy trong vũng nước bùn, cố thoát khỏi bàn tay của những người
đang tát ao, những người dân trong thành phố hốt hoảng đi t́m đủ mọi
phương tiện để rời khỏi Nha Trang. Những người có tiền và phương
tiện đă cao chạy xa bay từ trước, c̣n lại những người dân khốn khổ
chạy đôn chạy đáo khắp nơi. Từ Quảng Nam cho đến Phú Yên, những
thành phố dọc ven biển đă bị nhuộm đỏ, Nha Trang là thành phố kế
tiếp.
Chiều hôm nay tôi đă mượn được chiếc xe Jeep của Trung Tá Thông,
Trưởng đoàn Pḥng thủ pḥng vệ KD/62 Chiến Thuật đưa tất cả gia đ́nh
vào phi trường giao cho Hào “gàn” để ngày mai anh ta chở vào Sài
G̣n. Bây giờ tôi yên trí về nhà. Chạy vào tới trước sân, tôi dựng xe
xong bước lên mấy bậc tam cấp vào pḥng khách. Căn nhà rộng răi bây
giờ lại càng trống vắng hơn. Tôi đứng yên một ḿnh ngay giữa nhà,
tất cả đồ đạc vẫn y nguyên, ngay cả những bức ảnh gia đ́nh đang c̣n
treo trên tường. Một cảm giác bơ vơ lạc lơng kỳ lạ đang dâng ngập
ḷng, tôi không biết phải làm ǵ trong giây phút trống vắng này, mọi
sự thay đổi quá nhanh. Cả gia đ́nh tôi đă ra đi trên tay mang những
áo quần tối thiểu, bỏ lại tất cả những ǵ đă gầy dựng lại sau lưng.
C̣n tôi ở lại một ḿnh, làm bổn phận của người lính khi Tổ Quốc lâm
nguy. Tuy nhiên tôi vẫn có linh cảm sẽ phải rời xa thành phố thân
yêu này, nơi đă che chở, nuôi dưỡng tôi trong bầu không khí trong
lành của đại dương suốt thời gian thơ ấu. Tôi sẽ không c̣n thấy ngôi
nhà thân yêu ở gần biển, gần đến độ mỗi mùa biển động tôi có thể
nghe tiếng sóng của đại dương vỗ ́ ầm vang vọng. Căn nhà tôi đă sống
qua bao nhiêu mùa hè rực nắng, đă biến tôi thành một thằng mọi con
suốt ngày ngâm ḿnh dưới làn nước trong vắt, đâm cá, bắt cua, bắt ṣ
hến…Bao nhiêu đêm khuya, trải chiếu trên băi cát cùng với những
người thân yêu, bên mặt biển êm ả như mặt hồ thu, lấp lánh phản
chiếu muôn ngàn ánh bạc trong đêm trăng vằng vặc, tai nghe tiếng
sóng ŕ rào, vỗ về bờ cát. Những buổi sáng tinh sương, chạy ra biển
khi mặt trời vừa ló dạng đỏ ối cuối chân trời. Đứng bên những người
dân chài đang “ḥ dô ta”…kéo lưới trên băi biển. Trố mắt nh́n những
con cá óng ánh đang vùng vẫy trong lưới, chờ đợi để lượm những con
cá nhỏ xíu rơi rớt trên mặt cát. Những giờ phút hồn nhiên ngây thơ
đó vẫn c̣n măi trong tâm trí tôi không bao giờ phai nhạt.
Ngôi nhà của cha mẹ tôi tọa lạc ngay góc đường Biệt Thự dẫn vào cổng
trại phi trường. Hằng ngày đứng ngây người chiêm ngưỡng những người
hùng trong bộ đồ bay, đeo đầy súng đạn chạy ngang qua đă gieo vào
trong đầu tôi một ước mơ: trở thành phi công.
Giấc mơ đă trở thành sự thật, tôi được may mắn trở về lại thành phố
thân yêu để phục vụ, gần gia đ́nh và nhất là được sống lại bên băi
cát vàng bên bờ biển xanh, ngày ngày tung cánh chim sắt bay khắp
vùng trời lửa đạn, Bảo Quốc Trấn Không như lời nguyền mang trên vai
áo khi gia nhập một quân chủng ưu tú của Quân lực VNCH.
Ngồi lặng yên suy tư thẩn thờ trên ghế salon một ḿnh hồi lâu, bên
ngoài trời đă tối hẳn. Cảm thấy đói, tôi đứng dậy bước ra sân, lững
thững đi bộ đến đầu đường Biệt Thự để kiếm ǵ ăn lót bụng. Ngoài
đường, mọi sự đi lại đă bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng một chiếc xe
nhà binh chạy vụt ngang, vội vă… Những cột đèn điện bên đường chiếu
xuống mặt đường nhựa ánh sáng vàng vọt. Đang rảo bước bên lề đường,
đột nhiên tiếng nói của người bán hàng bên lề làm ngưng ḍng tư
tưởng đang miên man trong đầu:
- Mở hàng dùm em đi anh…
Ngay dưới chân cột đèn, kế bên đường một người đàn bà khoảng ba
mươi, trong bộ đồ bà ba bông, đang ngồi lúi lúi quạt ḷ than, trên
tấm vỉ sắt có mấy trái bắp nướng. Kế bên là một đứa bé gái khoảng
năm bảy tuổi ngồi trên chiếc ghế nhựa bé tí, gần cái thúng đựng bắp
tươi. Ḷ than cháy lốp đốp, nổ văng những đốm lửa đỏ bay trong không
khí. Cách đó vài thước có hai chiếc xe xích lô đậu sát nhau, hai
người đàn ông gầy ốm đang ngồi trên ghế trước đấu láo chờ khách.
Tôi nh́n chị bán hàng lắc đầu:
- Không, cám ơn chị.
- Bắp non ngọt lắm, mua dùng em đi.
Người đàn bà nài nỉ. Tôi đứng lại. Những người đang ở trước mặt tôi
vẫn sinh hoạt b́nh thường để kiếm miếng cơm, manh áo, không hề quan
tâm đến biến động của thời cuộc. Chắc họ không có ǵ để mất và không
có ǵ để lo sợ.
- Chị bán có khá không ?
- Ế lắm anh ơi…, giờ này thiên hạ lo chạy, ít người đi ra đường lắm.
- Sao chị không lo kiếm đường chạy mà c̣n ngồi đây bán? Tôi hỏi.
Người bàn bà, tay phe phẩy quạt ḷ, tay trở mấy trái bắp cho đều:
- Có đồng “mô” trong túi mà chạy anh, mà không biết chạy đi chỗ
“mô”. C̣n chồng em th́ đi lính mất biệt, mấy năm “ni” không thấy về
thăm nhà, “chừ” em cũng không biết anh đang ở chỗ “mô” nữa.
Vừa nói xong người đàn bà gắp một trái bắp nướng c̣n nóng bỏng trên
ḷ xuống để trên miếng giấy dưới đất trước mặt đứa con gái.
- Ăn đi con.
Tôi lắng nghe người đàn bà nói tiếng Huế trong một âm điệu thật b́nh
thản, h́nh như cô ta đă quá quen với gian khổ. Khuôn mặt của người
đàn bà phản chiếu ánh lửa hồng bập bùng của ḷ than vẫn c̣n phảng
phất một nét mặn mà duyên dáng của người con gái đất Thần Kinh, cho
dù đă sống trong những ngày tháng lam lũ khổ cực. Nỗi cay đắng, xót
xa ngập tràn, xót thương cho thân phận của một con người. Tôi liếc
nh́n vỉ sắt trên ḷ than rồi chợt đổi ư, chỉ vào hai trái bắp cháy
vàng:
- Này,…chị bán cho tôi hai trái đi…, đừng trét mỡ hành nghe.
Đợi người đàn bà gói xong hai trái bắp trong lá chuối, tôi tḥ tay
móc túi đưa chị tờ giấy bạc xong quay người cất bước không chờ lấy
tiền thối.
Đi một khoảng ngắn, tôi đến trước quán Mộng. Quán đă đóng cửa tắt
đèn. Tôi nh́n đồng hồ chưa tới tám giờ tối. Chắc mấy cô chủ quán đă
rời thành phố rồi. Bước tới gần khung cửa lớn bằng kiếng, ghé mắt
nh́n vào trong, những bộ bàn ghế bằng mây, trải khăn trắng toát
trông lịch sự đang im ĺm trong bóng tối mờ mờ từ ánh đèn đường hắt
vào. H́nh ảnh một quán ăn quen thuộc, đầy thực khách cùng những
tiếng cười nói vui vẻ như đang trở lại trong tiềm thức của tôi.
Trong thời gian phục vụ cho phi đoàn Thần Tượng trú đóng tại Nha
Trang, tôi đă chia sẻ rất nhiều th́ giờ tại quán này, chỉ cách xa
nhà tôi chừng vài trăm bước. Tôi có thể coi quán Mộng như là một
quán ăn nhà. Nếu ai đă từng phục vụ tại Không đoàn 62 này đều phải
biết đến tên đó, trước đây đă mang một tên khác rất tây phương:
Cristal Palace. Ban ngày là một tiệm ăn sang trọng, lịch sự, ban đêm
biến thành một vũ trường đẹp đẽ, ấm cúng.
Quán Mộng tọa lạc trên con đường mang tên Biệt Thự, một con đường
rất quen thuộc đối với hầu hết anh em Không Quân, chỉ dài chưa hơn
nửa cây số, chạy từ cổng trường Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân ra
đến bờ biển. Chính con đường này đă làm ṃn giày “bốt đờ sô” cũa
biết bao nhiêu chàng phi công tương lai, hằng ngày sắp hàng sầm sập
chạy ra biển trong chiếc áo thun trắng tinh và chiếc quần xanh màu
cức ngựa, miệng hát vang bài Không Quân Hành Khúc.
Những lúc đi bay về có được ” chiến lợi phẩm” như heo, nai, gà, thỏ,
công, nhím hay bất cứ “sinh vật” nào…tôi đều mang đến quán Mộng để
nhờ ba cô chủ quán vui vẻ, trẻ đẹp biến thành những món nhậu hấp
dẫn, ngon lành. C̣n những lúc tắm biển, thả lựu đạn trúng đàn cá nào
th́ tôi lại xỏ xâu xách đến quán nhà cho tiện việc “sổ sách”.
Nhớ lại một hôm tôi vừa đi bay về, trời đă sẫm tối, đang nằm nghỉ
mệt trong pḥng, áo bay c̣n mặc trên người. Bỗng có tiếng gơ cửa dồn
dập…cộc…cộc…cộc.
Đang thiu thiu mơ màng, tôi ngồi nhỏm dậy.
- Ai đó…
- Em đây, mở cửa mau lên…
Vừa mở cửa, trước mặt tôi là thằng bé hàng xóm ở trước mặt nhà.
- Anh ơi, mau lên ra đây em chỉ cái này…, có con ǵ to lắm. Lúc năy
em đang ở trên sân thượng th́ nó bay vù sát trên đầu em. Bây giờ nó
đang đậu trên cột điện trước mặt nhà em đó.
Nghe thằng bé nói xong tôi vội vă xách khẩu súng M- 18 bước ra khỏi
pḥng, nhưng chợt suy nghĩ sao tôi quay trở lại đổi khẩu súng trường
“Carbine” đang treo trên tường – giết gà không cần dao mổ trâu!
Trong khu tôi ở, rất nhiều con nít cỡ mười mấy tuổi coi tôi như
“thần tượng”. Chắc v́ bộ đồ bay trên người, cọng thêm khẩu súng đeo
ngang hông c̣n khoác thêm cái áo lưới (survival vest), tôi trông
giống như là cái ǵ “ghê gớm” lắm dưới đôi mắt của tuổi thơ.
Chạy theo thằng bé ra tới đầu đường. Một đám con nít cỡ mấy chục đứa
đang bu quanh dưới chân trụ điện cao thế. Tôi ngước đầu lên nh́n,
trên nền trời sẫm tối, h́nh thù một con ǵ đang đậu to gần bằng bên
cục biến điện kế bên. Tôi chưa đoán ra loại chim ǵ quá lớn như vậy.
Tôi nghĩ thầm: sau viên đạn này th́ sẽ rơ. Đưa khẩu súng carbine lên
nhắm kỹ càng sợ lạc đạn vào cục biến điện sát bên. Xung quanh đám
con nít đang nín thở theo dơi “thần tượng” của chúng “biểu diễn tài
năng”.
- Cạch…
Sau tiếng nổ nhỏ của viên đạn được chế biến lại của tôi, con vật đậu
trên cột điện lộn nhào xuống đất đánh rầm.
Cả đám con nít hết hồn, nhảy lùi ra sau tránh… Tôi bước đến gần nh́n
con vật. Trong ánh sáng chập choạng vừa sẩm tối, trước sự ngạc nhiên
của tôi, một con gà tây bự tướng đang nằm xơa cánh bất động trên mặt
đất.
Chiều hôm sau, khi đang ngồi quây quần tại quán Mộng với mấy người
bạn cùng mấy em gái bên những món gà Tây đủ kiểu, cô chủ vừa sắp đồ
ăn vừa cười tủm tỉm ghé tai nói nhỏ với tôi:
- Nè, để nói cho nghe, sáng hôm nay có Vĩnh Hy…, anh chú bác của anh
ở gần nhà anh đó. Ổnh đến đây ăn sáng và ổng than phiền với tôi vừa
mới mất con gà tây hôm qua, không biết thằng nào cả gan dám chui vào
nhà ổng ăn trộm. Ổng dọa rằng nếu t́m ra thằng nào dám ăn cắp con gà
tây của ổng th́ sẽ biết tay…
Nghe cô chủ nói xong, miếng thịt gà tây tôi vừa mới nuốt chưa xuống
như muốn mắc nghẹn…ngang cổ họng.
Làm chủ quán Mộng này là ba chị em ruột. Tất cả đều có “chủ” cả rồi.
Cô lớn nhất là “sở hửu chủ” của một vị sĩ quan cao cấp trong ngành
an ninh Không Quân của Không Đoàn 62 CT. Cô kế th́ “dưới quyền” một
anh bạn thân của tôi, Đại Uư Nguyễn Khoa Hoạt, tự nhận là Hoạt “đầu”
(ma đầu?) trưởng đoàn chuyển vận Trung Tâm Huấn Luyện, em ruột của
Đại tá Nguyễn Khoa Điềm, Chỉ huy trưởng Không Vận của Không Quân. Và
cô chủ nhỏ nhất th́ được sự “bảo trợ” của Đại Uư Trần Ngọc Đoan,
trưởng pḥng kiểm tục Cảnh Sát Nha Thành. Tất cả vị trên là “bộ chỉ
huy hậu cứ” của quán Mộng, bao che mọi khía cạnh từ quân đội đến dân
sự cũng như phương tiện chuyển vận. Riêng tôi th́ được phong chức
C.O.O. (Chief Operating Officer), sĩ quan quản lư mấy em “ca ve” làm
việc cho vũ trường ban đêm, một công việc rất là “mệt mỏi” và “bận
rộn”. Ngoài ra, ban quản trị “ngầm” này được sự yểm trợ của một số
huấn luyện viên trường Phi Hành Nha Trang, như Đại Uư Huấn luyện
viên Nguyễn Hữu Phúc với thân h́nh mảnh mai trên chiếc xe Lambretta
bất hủ, Thiếu Tá Liễn cùng Đại Uư Đặng Minh Sơn, tự là Sơn “hèm”,
đặc biệt phụ trách săn sóc “sức khỏe” của chị “tài pán” trong quán.
Nói tóm lại, Quán Mộng được coi như là một hội quán làm nơi hẹn ḥ,
ăn nhậu của đa số phi công cũng như những sĩ quan cao cấp tại thành
phố Nha Trang.
Trong đó thấy sự có mặt thường xuyên Hải Quân Đề Đốc Châu, tự là
Châu “cao bồi”, coi Trung tâm huấn luyện Hải quân Nha Trang; Chuẩn
Tướng Lượng chỉ huy trưởng căn cứ Nha Trang; Đại Tá Đặng Duy Lạc sếp
ṣng Không Đoàn 62/CT ; Trung Tá Tôn Thất Lăng, Chỉ huy trưởng liên
đoàn khóa sinh SVSQ của Trung tâm huấn luyện Nha trang, cũng là ông
chủ của quán cà phê Liz lịch sự; Trung Tá Thông , Chỉ huy trưởng
pḥng vệ pḥng thủ KD62/CT v…v…
Sau khi hiệp định ḥa b́nh tại Paris được kư kết 27 tháng 1 năm 73
tại Ba Lê, tất cả mọi phi vụ hành quân của phi đoàn hầu như ngưng
đọng, chỉ c̣n những phi vụ liên lạc hay những phi vụ linh tinh khác.
Vào những lúc buồn và nhớ cầm cần lái, tôi thường lấy những phi vụ
huấn luyện, bay ṿng xung quanh thành phố hay bay quanh vùng ngoại ô
hái những trái thanh long đỏ leo trên những cây rừng cao hay bắt vài
con gà con thỏ về quán Mộng làm đồ nhậu. Về phía tây nam sát nách
phi trường Nha Trang có một vùng đất trống thường được gọi là “Đồng
Ḅ”, mọc nhiều cây rừng thấp, rời rạc, sống rất nhiều heo rừng,
mễnh, gà, thỏ, công, giống như một sở thú nho nhỏ.Một buổi sáng đẹp
trời, tôi cùng với anh bạn là Trung Úy Thái Hồng Đảnh, bạn bè chọc
là Đảnh “chích” v́ nước da men mét như người ghiền hút, bay chung
một phi vụ duy tŕ khả năng. Trung Úy Đảnh “chích” là một hoa tiêu
già dặn trong phi đội tải quân, bị phi đoàn nghi ngờ đă làm những
chuyện bất hợp pháp trong những phi vụ liên lac, đă “khóa tay” anh
ta bằng cách “đ́” anh qua làm hoa tiêu phụ cho phi đội vơ trang của
tôi. Trong giai đoạn này Trung Úy Đảnh “chích” đă yêu cầu được bay
chung với tôi thường trực để tránh t́nh trạng khó xử phải ngồi làm
co-pilot cho một hoa tiêu đàn em. Có lẽ điều này những người trong
nghề bay điều hiểu rơ. Buổi sáng hôm đó, sau gần hai tiếng đồng hồ
bay lượn trên trời, tôi cho con tàu bay ṿng lại gần dăy núi cao
chót vót phía tây phi trường chừng năm sáu cây số, tiếp giáp với
vùng Đồng Ḅ. Đột nhiên Đảnh “chích” chỉ lên sườn núi:
- Coi ḱa, h́nh như có cái ǵ trên núi…, đó đó…
Theo tay của Đảnh, trên sườn núi cỏ xanh có một bóng đen nho nhỏ
đang vạch cỏ leo lên đỉnh núi cao.
- Ờ thấy rồi.., à…, người hay con ǵ vậy?…
Đảnh “chích” chêm vào:
- H́nh như người,… có khi nào là… mấy thằng tiền sát viên cho tụi
Việt cộng pháo kích vào phi trường Nha Trang không?
Nghe bạn tôi vừa nói xong, không suy nghĩ tôi đẩy vội con tàu về
hướng sườn núi. Khi chiếc trực thăng đến gần chừng vài trăm bộ, th́
ra là một con gấu chó đen thui cao gần bằng người, đang ́ ạch leo
lên đỉnh núi. Hai đứa tôi trố mắt nh́n, ngạc nhiên không ngờ tại
vùng này lại có gấu. Vốn tánh đă quen thói bắn giết, tôi liền đưa
cần lái cho Đảnh “chích” .
- Mày lái đi. Tới gần gần một chút để tao “thịt” nó. Gió lắm đó coi
chừng…
Lúc này trên tàu không có ai ngoài hai đứa tôi và một khẩu P- 38 tôi
đang đeo ngang hông. Một vũ khí độc nhất, tôi không có quyền chọn
lựa.
Chiếc trực thăng bay xề ngang như con cua , đưa hông trái sát dần
vào sườn núi. Tiếng chém gió phành phạch vang dội cả vùng yên tĩnh.
Con gấu thấy động, hốt hoảng chồm người phóng nước đại, hướng lên
đỉnh núi. Thần kinh bị kích động trước con vật lạ lần đầu tiên được
gặp, tim tôi đập th́nh thịch. Tôi ra dấu cho bạn bay gần hơn. Khi
chiếc tàu chỉ c̣n cách con vật chừng mười thước, đột nhiên con gấu
chó ngừng lại, quay người đứng hẳn lên, hai chân đưa cao trước mặt
như làm một cử chỉ đe dọa. Hai hàm răng trắng lởm chởm nhe ra, miệng
sủi bọt mép… Trong một động tác máy móc, tôi rút bên hông khẩu
rouleaux, tḥ tay ra khỏi cửa bắn liên tiếp sáu viên đạn vào đầu con
vật. Con gấu đáng thương phản ứng, đưa hai chân trước phủi loạn xạ
lên mặt, giống như đang phủi những con ong mật tấn công khi chúng bị
động ổ. Chỉ một giây sau nó té nhào, lăn lông lốc như trái banh,
xuống tận gần chân núi rồi ngừng lại sau khi vướng vào một tảng đá
to. Tôi đút vội khẩu súng lục vô hông, giật cần lái của Đảnh nghiêng
cánh quạt lài theo triền núi, đến trên đầu con vật đang nằm ngửa đưa
bốn chân lên trời, kế bên tảng đá.
Đang phân vân chưa biết sẽ phải đối phó như thế nào th́ Đảnh “chích”
đột ngột quay qua hỏi tôi:
- Này, …bây giờ… “thầy” định “xử trí” thế nào với con gấu này vậy?
Cái danh xưng “thầy” hay được những thằng bạn thân trong phi đoàn
chúng tôi dùng, phần như để chọc ghẹo, đôi khi cũng có ư thán phục
v́ một hành động nào đó, đôi khi lại có ư mai mỉa, châm chọc… Những
người ở trong quân ngũ, nhất là đă từng vào sanh ra tử mới có thể
hiểu trọn vẹn được ư nghĩa của danh xưng này.
Câu hỏi bất ngờ của Đảnh “chích” làm tôi lúng túng không biết trả
lời như thế nào. Đem con gấu lên tàu là một chuyện không thể làm
được với độ dốc này cũng như với sức lực của hai chúng tôi. Chợt
nghĩ đến ông bạn Hoạt “đầu”, “chỉ huy phó” quán Mộng, tôi liền có ư
nghĩ nhờ anh phụ trách việc “thâu hồi” con gấu đang nằm kín đáo trên
mơm đá này. Nh́n đồng hồ xăng đă gần cạn, tôi quay tàu rời sườn núi,
đánh một ṿng qua rừng dừa hoang kế cận cửa Bé, một làng chài ở gần
Cầu đá, xong hướng mũi về phi trường chỉ cách chưa tới một phút bay.
Cho tàu b́nh phi khoảng năm trăm bộ xong, tôi định móc điếu thuốc lá
ra hút xả hơi, đột nhiên thấy con tàu mất hẳn cao độ, đang rơi xuống
như tàu vừa mới bị tắt máy. Tiếng động cơ vẫn nổ b́nh thường. Tôi
chỉ có vừa đủ một giây ngắn ngủi để liếc thấy chiếc kim RPM trên
đồng hồ ṿng quay cánh quạt (rotation per minute indicator) đang
xuống dần. Không c̣n thời giờ để suy nghĩ, đè mạnh cần cao độ xuống
tận đáy, hướng con tàu vào băi trống độc nhất trước mặt – một vũng
nước nhỏ như hồ tắm, vây quanh bởi một rừng dừa. Con tàu như chiếc
lá mùa thu lài nhanh xuống, rớt tủm ngay chính giữa vũng nước. Một
con trâu rừng đen đủi, đang yên lành nằm ngâm ḿnh dưới làn nước
mát, tức thời vùng dậy, ba chân bốn cẳng phóng như bị ma đuổi, vừa
kịp thời để khỏi bị đè bẹp bởi chiếc trực thăng. Tất cả biến chuyển
đă xảy ra không hơn mười giây ngắn ngủi.
Đây là trường hợp trục trặc tương tự như khi xe hơi đang chạy bị bể
hộp số, máy vẫn nổ nhưng chỗ nối trục máy với trục quay cánh quạt đă
bị tách rời, cánh quạt không c̣n lực đẩy để quay nữa. Trong trường
hợp này, không kịp thời hạ cần cao độ (collective control stick) th́
cánh quạt sẽ giảm ṿng quay rất nhanh, không phương cứu chữa, con
tàu sẽ rơi như ḥn đá cuội. Trường hợp khẩn cấp này (short shaft
failure emergency) vô cùng nguy hiểm v́ hoa tiêu không có đủ th́ giờ
để t́m hiểu nguyên nhân sự giảm cao độ đột ngột của con tàu.
Nếu biến cố này xảy ra sớm hơn chừng một phút th́ con tàu của chúng
tôi sẽ rơi ngay trên sườn núi và lăn lông lốc xuống chân đồi như con
gấu vừa rồi. Qua nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, tôi
thường tự hỏi có phải vị Tử Thần quái ác nào đó chỉ muốn chọc ghẹo
hay đùa giởn với tôi, nhưng h́nh như chưa muốn đem tôi đi vĩnh viễn?
Ngồi kế bên, ông bạn của tôi c̣n sửng sốt chưa hoàn hồn, lí nhí
trong miệng:
- “Thầy”!… may tui bay với “thầy” không th́ chết mẹ rồi.
Câu nói của Đảnh “chích” theo tôi hiểu, nặng phần diễn đạt một sự
mừng rỡ vừa mới thoát chết hơn là một lời khen tặng.
Trái sang phải: Vĩnh “gấu”, Huỳnh “râu”, Tr/t Khưu v Phát, Đănh
“chích”, Vĩnh Hiếu trong một chuyến đi hải đảo .
Đang nôn nóng về đáp cho sớm để ra quán Mộng nhậu
một chầu ăn mừng bắt được gấu, bỗng nhiên lại bị rơi tỏm xuống một
vũng nước cạn. Trong cuộc sống, có lẽ bất cứ biến cố nào cũng có thể
xảy ra trong những giây phút mà ḿnh ít ngờ nhất.
Sau khi báo cáo với Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc tai nạn đă xảy ra,
tôi móc điếu lúc năy chưa kịp hút, đốt một hơi dài rồi ngă người
trên ghế chờ tàu đến đón. Ngồi ph́ phà điếu thuốc, tôi nh́n xung
quanh là một hồ nước cạn ngập tới bụng chiếc trực thăng. Tôi chơt
ph́ cười khi có ư tưởng như ḿnh đang ngồi trên một chiếc “ca nô”
câu cá. Điếu thuốc chưa cháy tới phân nửa tôi đă thấy trước mặt một
chiếc trực thăng đang lù lù bay tới, trong tiếng chém gió phành
phạch quen thuộc. Tàu mang phù hiệu Long Mă của phi đoàn 219, một
phi đoàn bạn đồn trú sát nách phi đoàn Thần Tượng.
Chờ cho tàu rescue đến gần tôi mở cửa leo ra, ngần ngừ một lúc rồi
nhảy tỏm xuống. Mặt nước lên gần tới háng. Hai thằng lội lơm bơm leo
lên sàn tàu cấp cứu. Trên ghế bay của chiếc Long Mă tôi thấy Trung
Úy Kim “mập” đang cầm cần lái. Kim là test pilot và anh chú bác của
Trung Tá Nghĩa, cựu phi đoàn trưởng 219 Long Mă, người đă bị mất cắp
chiếc trực thăng khi đậu tại bờ hồ Xuân Hương, Đà Lạt mới đây. Tôi
bắt tay chào Kim, th́ anh bạn tôi kéo đầu tôi lại gần rồi ghé miệng
sát tôi nói t
- Tao đang bay test gần đây, nghe mày báo cáo với Pḥng Hành Quân
Chiến Cuộc, liền phóng tới đây “dzớt” mày lên cho lẹ. Mày có làm ǵ
mà Trung Tá Bính biểu tao chở hai đứa mày đáp sân cờ, ổng đang đứng
đó chờ tụi mày đó.
Tôi chẳng hiểu chuyện ǵ đă xảy ra ? Bụng phân vân suy nghĩ : hay là
đài kiểm báo đặt trên núi gần phi trường nh́n thấy những ǵ chúng
tôi đă làm. Chuyện vô lư, chưa bao giờ xảy ra, tôi la lớn với Kim:
- O K,…Th́ mày cứ đáp,… tụi tao đâu có làm cái đ. ǵ mà sợ.
Tuy nhiên sau khi nói xong, tôi gỡ nguyên dây đạn và súng lục ra đưa
cho Kim cất giùm, để chứng minh cho bất cứ ai chúng tôi là những
người hoàn toàn “trong trắng”.
Trước sân cờ, Trung Tá Bính, Không Đoàn phó KD/62 và Trung Úy Hiến
Pḥng Hành Quân Chiến Cuộc đang đứng chờ. Tôi và Đảnh “chích” nhảy
xuống đất, tay xách đôi bốt-đờ-sô, tay xách nón, đi chân đất, áo bay
ướt lên tới bụng, bước tới chào Trung Tá Bính. Sau khi trả lời Trung
Tá Bính một vài câu hỏi về tai nạn, mọi người vui vẻ tan hàng.
Sau vụ rớt tàu này, chúng tôi đă được Không Đoàn 62 Chiến Thuật, ban
cho một bằng ” tưởng lục phi dũng bội tinh”- khả năng lèo lái con
tàu bị nạn. Không biết sự ban thưởng cái “dũng cảm” của tôi trong
phi vụ này có dính líu ǵ đến vụ bắn con gấu trên sườn núi không?
Một tuần lễ sau, một con gấu chó nhồi bông đă được đặt ngay chính
giữa sân khấu quán Mộng để tất cả thực khách có quyền thưởng lăm.
Tôi chợt nghĩ đến bằng ban khen của tôi cần phải viết thêm tên Đại
Uư Hoạt “đầu” v́ có công lao và “can đảm” băng rừng lội suối để đem
con gấu về đi nhồi bông.
Một thời gian sau đó, trong buổi sáng chủ nhật đẹp trời, quán Mộng
đầy những thực khách, đa số là mấy ông đi bay, đủ mọi thành phần lon
lá. Tôi đang ngồi trên quầy rượu ăn tô hủ tiếu Nam Vang nổi tiếng
của quán với Đại Uư Đoan, cảnh sát, người “bảo trợ” cô chủ nhỏ nhất
trong quán. Kế bên tôi là một cái bàn đặt gần sân khấu, ngồi hai ba
vị sĩ quan cao cấp, trong đó đặc biệt có Đại Tá Đặng Duy Lạc, Chỉ
huy trưởng Không Đoàn 62 Chiến Thuật, cũng là một phi công phản lực
A- 37, rất đáng kính và chịu chơi nổi tiếng trong Không Đoàn tác
chiến. Sau khi ăn xong, mấy vị sĩ quan đang uống bia hút thuốc và
nh́n con gấu đang đứng nhe răng trên sân khấu chỉ chỏ, bàn tán. Đột
nhiên, Đại Tá Lạc quay qua tôi đang ngồi trên quầy kế bên, rồi hỏi
với một giọng điệu nửa đùa nửa thật:
- Này anh,…có phải con gấu này “xuất xứ” từ mấy “ông” trực thăng
không ?
Tôi nở nụ cười cầu tài rồi trả lời liền không hề suy nghĩ:
- Dạ,…thưa Đại Tá, chắc không phải đâu. Tôi nghĩ vùng này làm ǵ mà
có gấu Đại Tá…Có thể bà chủ quán mua của mấy người Thượng trên Ban
Mê Thuột đó…Nói xong tôi cúi mặt xuống tô hủ tiếu đă gần cạn, tiếp
tục x́ xụp ăn như đă bị bỏ đói ba ngày.
Cuốn phim dĩ văng lần lượt trôi qua trong đầu, giờ đây quán Mộng với
“những ngày xưa thân ái” đang nằm im ĺm trong đêm khuya vắng lặng.
Những ngày khách vào ra tấp nập, những cuộc vui gặp gỡ bạn bè sau
những chuyến bay mệt mỏi căng thẳng, những đêm tiếng nhạc trầm bỗng
trong tay người bạn gái dưới ánh đèn màu, tất cả đă tan biến vào hư
không. Con đường Biệt Thự vắng vẻ dưới ánh đèn đêm, chị bán hàng
rong từ hướng biển đi ngược chiều, gánh hột vịt lộn nhịp nhàng kẽo
kẹt trên đôi vai gầy guộc. Những bước chân tôi rời rạc trên con
đường xưa, bây giờ h́nh như đă trở thành xa lạ.
Nha Trang biển đầy, t́nh yêu không có đây
Tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát
Chui sâu vào thân xác lưu đầy
Dă tràng ơi! Sao lấp cho vơi sầu này?
Nha Trang lúc rạng đông
Từ quân trường đến chiến trường
Căn nhà tối om không một ánh đèn khi tôi trở về, những cây ăn trái
trong vườn im ĺm bên những chậu bông hồng ba tôi săn sóc mỗi ngày.
Tôi đứng trên vạt sân tráng xi măng trước nhà nh́n lên bầu trời đen
hàng vạn ánh sao lấp lánh. Những viên đạn lửa bất chợt xẹt lên cao
rồi vụt tắt. Lác đác vài tràng súng văng vẳng đâu đó cùng với tiếng
chó sủa đổng trong một không gian im lắng lạ thường.
Đứng một lát, tôi về pḥng thay đồ leo lên gường. Nằm trằn trọc măi
không ngủ được, những tư tưởng mông lung cứ quay cuồng trong đầu.
Tôi nghĩ đến tương lai rất gần đây, tôi cũng như tất cả muôn ngàn
chiến sĩ khác sẽ ra sao khi chiến tranh chấm dứt theo chiều hướng bi
đát này. Cuốn phim cuộc đời binh nghiệp của tôi tuy không dài, nhưng
đầy những cảm giác cao độ sát cạnh với tử thần cùng với bao nhiêu
giây phút thú vị ngao du trên khắp nẻo đường đất nước. Những ngày
tung mây lướt gió của tôi trên con tàu quen thuộc sẽ không c̣n nữa,
nghiệp bay bổng là con đường tôi đă chọn và say mê không ngờ sẽ kết
thúc quá sớm!
Nằm vắt tay lên trán, tai nghe tiếng thạch sùng chắc lưỡi, điếu
thuốc lập ḷe trong đêm, những h́nh ảnh cũ từ lúc chập chững bước
chân vào quân trường đến những ngày dong duổi trên ṿm trời quê
hương chập chờn, ẩn hiện trong tâm trí…
Tôi đă gia nhập Không Quân trong thời gian Quân Đội VNCH bành trướng
nhanh. Trung tâm Huấn luyện Không Quân tại Nha Trang không đủ sức để
chứa một số lượng khóa sinh quá lớn. Những người khóa sinh mới được
gủi đi học giai đoạn căn bản quân sự tại những trung tâm huấn luyện
Bộ Binh khác. Đồng Đế là nơi tôi đă được gủi đến để học giai đoạn II
căn bản quân sự.
Lúc xưa đây là trường Biệt Động Đội Thể Dục Đinh Tiên Hoàng, sau đổi
thành Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Dân địa phương
thường gọi là “Trường Đồng Đế Nha Trang” hoặc “Trường Hạ Sĩ Quan
Đồng Đế” để thay cho nhóm từ ngữ danh xưng trước quá dài. Đây là một
quân trường kiểu mẫu, cũng là một ḷ luyện thép đă cung ứng hàng
trăm ngàn chiến sĩ xuất sắc cho chiến trường miền Nam.
Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế nằm phía bắc Nha Trang khoảng bốn cây số,
gần cạnh bờ biển, dưới chân núi Ḥn Ngang hùng vĩ, nơi có ngọn đèo
tên thật là lạ lùng – đèo Rù Ŕ. Từ xa Ḥn Ngang trông giống như một
người con gái nằm xỏa tóc đợi người yêu. Ngang lưng chừng núi là
tượng của một người lính đang đứng thao diễn nghĩ, sơn màu trắng nổi
bật trên nền xanh cây cỏ. Có một câu thơ lưu truyền sau đây đă nói
lên ư nghĩa đó:
Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xơa tóc đợi chờ anh !
Mỗi khi ngồi trên chiếc trực thăng bay ngang nơi này tôi không bao
giờ quên để mắt nh́n xuống nơi tôi đă từng đổ mồ hôi trong bao nhiêu
tháng trường, và đặc biệt bức tượng người lính đứng thao diễn nghỉ
sơn màu trắng toát dựng lưng chừng ngọn núi cao chót vót là nơi tôi
đă mất hơn nửa ngày và gần một “bi-đông” mồ hôi để leo lên, trên vai
vác khẩu trung liên nặng chĩu trong ngày di hành dă trại cuối khóa.
Trở lại giây phút đầu tiên khi cả khóa tôi vừa mới bước chân đến
quân trường Đồng Đế, tất cả tập họp ngay trước sân cờ. Một vị Thiếu
Tá có một khuôn mặt nghiêm trọng, đứng chống nạnh trước hàng quân,
tuyên bố:
- ” ….Các anh nên hănh diện đă được gủi tới đây để huấn luyện. Đây
là một quân trường thép, sẽ đào tạo các anh thành những chiến sĩ can
trường dũng cảm. Các anh sẽ gia nhập một quân đội thiện chiến nhất
để bảo vệ quê hương xứ sở chống bọn Cộng Sản xâm lăng.
Nghe tới đây, trong đầu óc c̣n ngây ngô, tôi muốn đưa tay lên nói
lớn rằng :” Thưa Thiếu Tá…, xin Thiếu ta đừng quên rằng chúng tôi đă
đầu quân để lái máy bay, chớ không phải để đánh giặc trong rừng!”.
Nhưng tư tưởng “chống đối” đó chỉ lóe lên trong đầu chưa đến một
giây liền tắt ngúm khi nghĩ đến mấy trăm cái hít đất đang chờ đợi.
Vị Thiếu Tá nói tiếp:
- Các anh có thấy ǵ không? Vừa nói vị sĩ quan vừa chỉ vào bức tượng
người lính bằng tượng đồng đen mun, đặt cao trên bục xi măng giữa
sân cờ.
- Vài tháng tới, khi các anh rời khỏi quân trường Đồng Đế này, tất
cả các anh sẽ trở thành như bức tượng đồng đen này.
Bọn chúng tôi đứng trong hàng quân, ngơ ngác không hiểu ư vị Thiếu
Tá nói ǵ. Có phải là chúng tôi sẽ thành thạo như người lính này hay
là sẽ đen thui như tượng đồng đen, hoặc là cả hai?
Giây phút đó, trong đầu óc của những thằng con trai ngờ nghệch, chưa
ai hiểu thâm ư của vị Thiếu Tá cán bộ liên đoàn trưởng cho đến khi
chương tŕnh huấn luyện bắt đầu. Một chương tŕnh khắc nghiệt, sắt
đá gần giống như chương tŕnh huấn luyện của binh chủng Nhảy Dù (!).
Trong những lúc thức khuya dậy sớm, tập luyện, có đôi khi quá nhọc
nhằn, khổ cực, thân xác bị đày đọa ngoài sức chịu đựng, tôi phân vân
tự hỏi con đường tôi đă chọn đây để trở thành một phi công tung mây
lướt gió có phải là con đường sai lầm hay không? Nhưng tất cả rồi
cũng phải trôi qua, những sự khổ cực đó đă phai mờ, trong tiềm thức
tôi chỉ c̣n sót lại những h́nh ảnh đẹp, cũng như những giây phút
tuyệt vời mà tôi đă có được trong thời gian thụ huấn tại một quân
trường tọa lạc bên bờ biển xanh, với hàng dương vi vu trong gió.
Có một giai thoại đă xảy ra trong thời gian thụ huấn về một người
bạn thân đă làm tôi nhớ măi: anh Trần Văn Vân, đă không may tử nạn
cùng với một fly-mate (người bay chung) trong một phi vụ ” team
solo” ở trường bay Fort Hunter tại Hoa Kỳ, khi chiếc máy bay trực
thăng UH-1 của anh vướng vào một sợi giây điện cao thế nổ tung. Khi
mất, anh Vân đă chưa kịp biết đứa con trai đầu ḷng của anh đă ra
đời hai ngày trước đó. Gia đ́nh c̣n lại của anh là một mẹ già và một
người em gái đang sửa soạn, chuẩn bị chờ anh trở về nước trong hai
tuần tới sau khi măn khóa để cùng đón Xuân. Một điều nên biết anh là
một khóa sinh phi công đậu ưu hạng (graduated with honors) tại Fort
Wolters, Texas trong thời gian học bay giai đoạn I trước đó.
Trần Văn Vân và Vĩnh Hiếu giai đoạn học sinh ngữ sau khi măn khóa
Đồng Đế
Trong một đêm thực tập hành quân, bên một bờ biển
cát trắng dưới ánh trăng rằm vằng vặc. Sau một thời gian bố trí, đào
hố cá nhân, phân chia canh gác, đại đội được lệnh tập trung tại băi
biển để điểm danh quân số. Dưới ánh trăng, những tiếng nói lao xao
kêu tên điểm danh ḥa lẫn với tiếng ŕ rào của sóng biển. Tất cả
quân số đầy đủ, chỉ trừ trung đội tôi thiếu một người. Đếm lui đếm
tới, sau cùng cũng vẫn c̣n thiếu một người. Vị Thiếu Úy cán bộ bắt
đầu mất kiên nhẫn. Tất cả đại đội được tung ra lục soát tất cả mọi
nơi, từ những b́a cây thấp, đến từng mọi hang hố ngơ ngách cho đến
tận chân núi. Sau hơn một tiếng đồng hồ lục lọi chúng tôi đă “t́m
ra” người “mất tích”. Khóa sinh dự bị sĩ quan Trần Văn Vân đang nằm
ngáy kḥ kḥ dưới một hố cá nhân, trên băi cát dưới tàng cây thấp.
Anh Vân được đem “giải giao” trước mặt vị Thiếu Úy cán bộ. Mặt dù
ánh trăng chưa đủ sáng nhưng chúng tôi vẫn thấy rơ được nét “phẩn
nộ” hiện rơ trên nét mặt. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, vị cán
bộ không hề la mắng hay chửi bới Vân. Ông ta chỉ ra chỉ thị cho anh
bạn “thiếu ngủ” của tôi: cứ mỗi ba mươi phút Vân sẽ phải đi xuống
biển ngâm ḿnh dưới làn nước “mát lạnh” năm phút. Thi hành ngay. Bắt
đầu từ lúc mười một giờ khuya cho đến sáng mai khi đại đội nhổ lều
trở về trại. Anh Vân khỏi phải lo dậy đúng giờ để thi hành lệnh
phạt, sẽ có người trong ca trực đến đánh thức anh. Có lẽ những ai đă
từng ở trong đời lính đều đồng ư rằng, được nhắm mắt ngủ trong giai
đoạn huấn luyện tại quân trường là một điều hạnh phúc “tối thượng”.
Những giây phút thú vị nhất của chúng tôi là được đi ứng chiến ở Ba
Làng, một xóm chài lưới nhỏ sát mé biển được tạo lập bởi đa số người
Bắc đánh cá di cư, chỉ cách quân trường chưa tới một cây số. Tôi
không hiểu danh từ “dân ba làng” của một số người Trung thường dùng
để ám chỉ những ai quê mùa, hay thiếu phong cách, có phải xuất xứ từ
xóm chài này không?
Trong những đêm ứng chiến đó, sau khi treo chiếc vơng dưới rặng
dương liễu cạnh băi cát trắng dưới ánh trăng vằng vặc, bốn năm đứa
kéo nhau đến quán nhỏ sát bên bờ nước, ngồi trên chiếc bàn gỗ nh́n
thẳng ra mặt biển phẳng lặng như nước hồ thu, phản chiếu ánh trăng
bạc lóng lánh, cùng chia nhau vài chai bia với đĩa mực tươi rói chấm
nước mắm gừng, rồi về nằm đong đưa trên vơng hút thuốc lá nói chuyện
đời lính, nghe tiếng ŕ rào của biển cả ḥa nhịp với những bài ca
trữ t́nh, văng vẵng từ chiếc radio nhỏ xíu treo đầu vơng.
Nhớ lại những buổi chiều vàng, di hành dă trại trên đồi cao, gió
biển lồng lộng, thổi phần phật chiếc lều cá nhân vừa được dựng lên.
Xung quanh là một rừng ớt, trái chín đỏ rực cả một vùng. Ngồi trong
chiếc lều “poncho” với hai ba người bạn thân, chia nhau bửa cơm vắt
với thịt kho muối sả đựng trong hộp sữa “gi gô” được Mẹ gói ghém gửi
vào, cắn trái ớt vừa tươi vừa cay, mới hái. Nh́n xuống dưới thấp, bờ
vực dựng đứng, những con sóng bạc đầu nô đùa rượt đuổi, đập vào băi
sỏi tung bọt trắng xóa. Xa xa là những con thuyền đánh cá nhấp nhô
trên mặt đại dương mênh mông xanh biếc một màu. C̣n một cảm giác nào
tuyệt vời hơn trong ḷng của những người trai mới lớn đầy lư tưởng
mộng mơ này?
Những giây phút đó, tôi mới thấm thía những bài t́nh ca của lính do
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác, cho dù chưa có một người để yêu,
để mộng mơ nhung nhớ.
Từ khi anh thôi học,
và từ khi anh khoác aó treilli
Từ khi anh xa nhà,
một ngàn đêm nhung nhớ giữa trời mây…
Ngày tháng trui luyện khổ cực tại quân trường Đồng Đế rồi cũng qua,
tôi đă trở thành một sĩ quan phi hành chưa bao giờ rờ được cái đuôi
của chiếc máy bay.
Không biết trường Đồng Đế có biến tôi thành một người lính thiện
chiến như vị Thiếu Tá cán bộ đă nói trước hay không, nhưng chắc chắn
đă biến tôi thành một tượng đồng, đen mun. Cái đen mun đeo đẳng tôi
dai dẵng cho đến khi qua trường bay, cả vài tháng sau mới chịu buông
tha.
Khóa sinh Không Quân Bảo “địa” và Minh “mập” khóa 6/68 tại Đồng
Đế
“Thao trường đổ mồ hôi chiến trường bớt đổ máu”,
một câu mà tôi thấy gắn nhan nhản khắp nơi trong quân trường. Những
bài học trầy da tróc vảy, những buổi di hành dă trại triền miên
trong rừng sâu núi thẳm cùng những cuộc thao dợt súng đạn, ḅ dưới
hỏa lực của những viên đạn bay vèo vèo trên đầu, hay những phút rứt
tim đu giây tử thần, tất cả đă làm tôi đổ hàng chục lít mồ hôi.
Nhưng sau này tôi cảm thấy mấy chục lít mồ hôi của tôi đă đổ ra
chẳng thấy “dính dáng” ǵ tới công việc của tôi làm, đó là ngồi chết
dí trên ghế bay sáu bảy tiếng đồng hồ một ngày lăn lộn trên trời
cao. Tôi chưa bao giờ có một cơ hội nào để liệng một trái lựu đạn
vào hầm của địch quân, cho nổ tung tóe ra như trong phim xi-nê, hay
núp trong bụi rậm cầm khẩu súng trường nhắm kẻ thù từ lổ chiếu môn
đến đỉnh đầu ruồi để bóp c̣, ngoài chuyện bóp c̣ bắn mấy con chuột
cống lấp ló dưới mấy chậu bông hồng của ba tôi.
Từ giai đoạn rời quân trường cho đến lúc chân ướt chân ráo mới về
phi đoàn, ngồi rụt chân trên ghế bay của chiếc trực thăng vơ trang,
trố mắt thán phục nh́n vị đàn anh lái con tàu lướt vùn vụt sát trên
đầu mật khu Việt Cộng, cho đến giờ phút thứ hai mươi lăm của cuộc
chiến này, trong đêm khuya thanh vắng, nghĩ đến quá tŕnh của cuộc
đời bay bổng của ḿnh, tôi đă trải qua biết bao nhiêu trận mạc, từ
chuyện rượt đuổi những tên du kích lẻ tẻ cho đến đương đầu những
trận chiến bùng nổ cấp sư đoàn. Không thể kể xiết bao lần con tàu
chậm chạp lơ lững trên đầu trên đủ loại mọi họng súng của quân thù,
nh́n thấy quá nhiều những người bạn đồng ngũ của ḿnh găy cánh, nổ
tung ngang lưng trời, giă từ cuộc đời khi c̣n đang đầy nhựa sống.
C̣n riêng bản thân tôi, chưa bao giờ bị một viên đạn nào trên trận
chiến làm nguy hại tới tính mệnh, hay hư hại con tàu đáng kể, ngoài
những lổ lủng vô hại, trong khi tôi phải làm một công việc của một
hoa tiêu trực thăng vơ trang, luôn luôn phải đối đầu với hỏa lực của
địch quân . Có phải đó là số mệnh an bài hay là chỉ là những sự may
mắn t́nh cờ? Câu hỏi đó không ít th́ nhiều có lẽ đă làm cho những
người đă từng vào sinh ra tử thắc mắc suy tư, nhưng mấy ai t́m được
câu trả lời.
Điều đă làm cho tôi cảm thấy éo le, nếu là không nói khôi hài trong
cuộc đời chinh chiến, là một lần lănh một viên đạn vào người và một
lần đối diện với những viên đạn trong đường tơ kẽ tóc, mạng sống
tưởng chừng như đă đi đứt. Hai lần đó không xảy ra trên trời cao khi
đối đầu với quân địch, mà ở dưới đất, sau khi đă an toàn trở về từ
mặt trận. Người ta thường hay nói: ” Đi sông đi biển không chết mà
chết v́ con lạch cỏn con”. Những chuyện tôi sắp viết lên đây để sẽ
nói lên sự trớ trêu đó.
Trong những lần đi chơi ngoài phố, ban đêm tôi luôn luôn “lận” khẩu
súng 22 ly nhỏ như gói thuốc lá vào lưng quần dấu dưới áo khoác, để
bảo vệ tánh mạng trong những trường hợp nguy hiểm xảy ra bất ngờ.
Khẩu súng đó đă được phi đoàn trưởng của tôi, Trung Tá Khưu Văn
Phát, tặng riêng trong một trường hợp đặc biệt.
Một đêm khoảng hai giờ sáng, sau đi chơi trở về nhà với hai người
bạn gái trên xe Jeep của ông bạn tôi, Trung Úy Thủy, Trưởng pḥng
nhiên liệu Không Đoàn 62/CT. Bước chân vào nhà, người đă mệt mỏi,
mạnh cặp nào về pḥng nấy. Tôi uể oải thay áo quần. Khi mở giây nịt,
tháo nút quần, tôi quên bẵng mất khẩu 22 đang nhét bên hông. Khẩu
súng rớt xuống ngay trên sàn gạch bông.
- Đoành!…Một tiếng nổ như tiếng pháo chuột vang lên trong đêm vắng.
Giật ḿnh tôi nh́n xuống dưới, khẩu súng lục xinh xắn màu đen đang
nằm trên sàn gạch nhà giửa hai bàn chân tôi. Tôi cúi xuống lượm và
ngạc nhiên khi thấy từ ống quần một gịng máu đỏ tươi đang chảy
xuống bàn chân trắng bóc suốt ngày mang giày “bốt đờ sô” của tôi.
Sững sờ, tôi vén vội quần theo ngược ḍng máu đỏ, một lổ nhỏ như đầu
đủa nằm ngay bên trong bắp chuối, máu đang trào ra. Vội vă lấy ngón
tay bịt ngay lổ để làm ngưng máu chảy, đồng thời tôi nghiêng đầu
nh́n bên ngoài bắp đùi “hy vọng” t́m lổ thoát ra của viên đạn. Tôi
không thấy ǵ ngoài một cục u nhỏ trồi lên – viên đạn đă đi xéo
trong bắp thịt, tới gần da th́ ngừng lại. Tôi bóp nhẹ bên ngoài thấy
rơ ràng h́nh dáng của viên đạn nhỏ như đầu đủa đang nằm “yên nghỉ”
trong thớ thịt của tôi. Lạ lùng thay, tôi không có một chút cảm giác
đau nhức nào cả.
Vừa lúc đó, người bạn gái tôi từ buồng tắm chạy ra cùng với hai
người kia từ pḥng khác chạy vào. Tất cả cùng la:
- Trời đất ơi, chuyện ǵ vậy ?
- Không có ǵ đâu…mẹ,… xui quá, quên hẳn khẩu súng nhét trong người.
Tôi cố lấy giọng b́nh tỉnh, rồi như tự an ủi, tôi nói tiếp:
- May mà nó trúng bắp chuối chứ lên thẳng một chút nữa đúng ngay
giữa hai chân th́ tàn đời…
Mọi người bu quanh nh́n vào chân tôi, không ai cười cả. Trung Úy
Thủy lên tiếng:
- Thôi, tao phải đưa mày đi nhà thương rồi. Hai cô này thay đồ đi.
Đại khái thôi, nhanh lên…
Thế là tôi lại phải choàng vai hai người bạn gái khập khểnh leo lên
xe Jeep cùng với Thủy nhà thương trực chỉ. Tôi lầm bầm chửi thầm số
con rệp khi nghĩ đến phải bỏ chiếc gường êm ấm và người bạn gái để
lên nằm trên chiếc băng ca lạnh lẽo trong đêm khuya khoắc như thế
này. Đây là viên đạn “oái oăm” độc nhất đă làm tôi bị thương, không
phải từ quân thù mà từ một hành động bất cẩn của chính ḿnh.
Một sự kiện thứ hai đă xảy ra cũng không kém phần bất ngờ, nếu không
nói là “rức tim” đă xảy ra trong thời gian phục vụ tại phi đoàn Thần
Tượng.
Trong một bữa dạ vũ nọ của một đơn vị bạn, tôi t́nh cờ gặp được một
người con gái có một vóc dáng thật đẹp, cao ráo, có khuôn mặt rất
Tây phương. Sau một vài câu chuyện trao đổi tôi được biết người đẹp
đó là một thư kư riêng cho một vị sĩ quan cao cấp của Mỹ, cố vấn cho
Không Đoàn 62 Chiến Thuật tại Nha Trang, ở một ḿnh trong căn biệt
thự rộng răi nằm trong phạm vi của phi trường, kế cận đường Phạm Phú
Quốc. Con đường này chỉ dài vài trăm mét, toàn là những villa đẹp
đẽ, chạy từ phi đoàn 215 Thần Tượng của tôi ra tới biển, nơi đó có
cổng ra vào phi trường cũng mang tên Phạm Phú Quốc. Có một sắc đẹp
mặn mà như người bạn gái của tôi, không khác nào một đóa hoa dịu
ngọt gần bên một tổ ong mật, đă được sự chú ư, tán tỉnh của rất
nhiều chàng phi công hào hoa phong nhă cũng như nhiều người khác.
Phi đoàn 215 Thần Tượng cuối đường Phạm Phú Quốc lúc xưa
Cũng nhờ cơ duyên đưa đẩy, từ lúc gặp gở sau một
thời gian lui tới, tôi đă được người đẹp xem như là một người bạn
gần gủi thân t́nh nhất. Từ đó tôi thường xuyên ghé đến nhà nàng.
Trong nhà người đẹp lúc nào cũng đầy đủ mọi thứ bia rượu và đầy
những đồ ăn mua từ P.X (Post Exchange) dành riêng cho những người
Mỹ. Nhờ những tiện nghi cũng như phương tiện vật chất phong phú đó,
tôi thường đem mấy người bạn trong phi đoàn của tôi như Trung Úy
Thành Râu, Hổ hai của tôi trong phi đội vơ trang, hoặc là Trung Úy
Tôn Thất Kim cùng phi đoàn, được gọi là Kim “nhi đồng” thường đi vũ
trường với tôi, đến nhà bạn gái mới ăn nhậu.
Tuy nhiên cuộc đời đă không đơn giản như tôi nghĩ. Trong đám những
chàng trai trồng cây si, đặc biệt có một Thiếu Úy pḥng thủ, người
vui vẻ, cởi mở, dong dỏng cao có một giọng nói trầm ấm của người Hà
Nội. Tuy làm việc cho Đoàn Pḥng Thủ Pḥng Vệ, nhưng buồn cười thay,
anh ta luôn luôn bận đồ bay, đeo súng, đeo flare – súng báo hiệu cho
những phi công bị rơi trong rừng – và thường mặc áo lưới cấp cứu
(survival vest), một loại áo chỉ để dùng cho những phi công bận khi
đi bay. Tôi có nghe phong phanh anh ta là con của một vị Đại Tá
Không quân có chức vị lớn ở Tân Sơn Nhất và đă bắn chết một quân
nhân Quân Cảnh nên phải thuyên chuyển ra Nha Trang để tránh sự rắc
rối. Tôi vẫn xem anh ta như người bạn mới, thỉnh thoảng chúng tôi đi
ăn uống với nhau, cho dù tôi có nghe một số người nói anh Thiếu Úy
này là một người rất nguy hiểm, có tánh bạo động, nhất là sau khi có
năm ba chai bia trong người. Điều này tôi chưa có cơ hội đễ kiểm
chứng, cho đến một đêm nọ…
Sau một đêm dạ vũ tại Không Đoàn, tôi và cô bạn gái cùng anh Thiếu
Úy pḥng thủ trở về nhà trên chiếc xe Jeep của anh ta. Sau khi về
đến nhà, cả ba đều khá say. Ông bạn Thiếu Úy muốn ở lại nhà cô bạn
tôi ngủ và được nữ chủ nhân mời vào căn pḥng dành riêng cho khách.
Mọi việc trôi qua êm đẹp. Tới khoảng ba giờ sáng, tôi đang triền
miên trong giấc điệp bổng có tiếng gỏ cửa dồn dập, đồng thời nghe
tiếng nói của anh Thiếu Úy pḥng thủ:
- Mở cửa…, mở cửa….Mở cửa mau lên.
Mơ mơ màng màng, tôi và người bạn gái gật ḿnh tỉnh dậy, chưa hiểu
sự t́nh ǵ, th́ nghe tiếng nói to qua cánh cửa:
- Mở cửa mau lên, có thằng nào đang ngủ trong đó không?
Tôi bắt đầu tỉnh ngủ nhưng cố làm lơ, hai đứa tôi không trả lời, th́
tiếng gỏ cửa dồn dập tiếp tục.
- Mở cửa, mở cửa…, mau lên…
Muốn cho mọi chuyện trôi qua êm đẹp, tôi ghé tai người bạn gái th́
thầm:
- Em mở cửa đi, anh vào pḥng tắm. Em nói là anh đă về rồi.
Nói xong tôi ngồi dậy bước vội vào pḥng tắm khóa cửa lại, xong đứng
nép sát bên bức tường, lắng nghe. Sau tiếng cửa mở là giọng nói nhỏ
nhẹ của người bạn gái tôi đang c̣n ngái ngủ:
- Ảnh về rồi, không có ai đây cả, anh có chuyện ǵ không ?
- Đừng nói dối,… tôi thấy xe nó c̣n đậu trước nhà. Chắc nó đang trốn
đâu đây.
Sau câu nói giận dữ của anh Thiếu Úy một khoảng thời gian, tôi không
nghe ǵ cả. Trong pḥng tắm tối đen, chỉ c̣n lại hơi thở dồn dập
trong lồng ngực cùng tiếng đập mạnh của trái tim tôi. Câu chuyện
người lính bị anh ta bắn chết bất chợt trở về trong đầu tôi. Tôi
đứng im, nép sát tường, đang nghĩ cách đối phó, đột nhiên có tiếng
dộng cửa rầm rầm ngay cửa buồng tắm tôi đang núp:
- Mở cửa ra không tao bắn. Một, hai, ba,… mở cửa…
Tôi chưa kịp phản ứng th́ nghe liên tiếp mấy tiếng nổ chát chúa:
đoành, …đoành…, đoành…tiếp theo là tiếng thét lớn của cô bạn gái.
Tấm kiếng treo trên tường trong pḥng tắm tôi đang đứng vỡ toang rơi
loảng xoảng xuống sàn gạch. Mấy viên đạn xuyên qua tấm cửa gổ, chỉ
cách tôi chừng vài phân. Trong bóng tối, ánh sáng từ pḥng ngoài
chiếu qua mấy lổ đạn. Tôi đếm đúng sáu lổ, khẩu súng rouleaux đă hết
đạn! Cơn thịnh nộ của tôi bùng vỡ như một hỏa diệm sơn. Tôi mở toang
cánh cửa. Trước mặt tôi anh Thiếu Úy đang đứng, tay cầm khẩu súng
c̣n bốc khói. Với tất cả sinh lực c̣n lại trong người cọng thêm cái
đai đen Thái Cực Đạo mà tôi đă để mốc meo trong xó tủ từ ngày vào
lính, tôi nhào vào người anh ta, tôi không nhớ rơ đă làm ǵ, nhưng
không hơn mười giây sau, anh chàng điên khùng này biến thành một xác
chết bất động nằm sóng soài trên sàn gạch bông. Bên cạnh người bạn
gái tôi đang đứng co rúm trong bộ đồ ngủ, gương mặt nhợt nhạt, khiếp
đảm. Sau vài phút đứng thở hổn hển để lấy lại hơi thở, tôi cùng
người bạn gái hè nhau lôi cái xác xềnh xệch về pḥng ngủ, bồng anh
ta lên gường, đắp mền cẩn thận. Và trước khi rời pḥng tôi không
quên tước hết tất cả những viên đạn cũng như cây súng “flare” gắn
trên giây súng anh ta treo đầu gường.
Đêm trôi qua, không động tịnh…, cho đến sáng hôm sau.
- Cọc…cọc…, mở cửa…., cọc…, cọc.
Mở bừng mắt dậy, ngoài trời đă sáng, tôi ngồi nhỏm dậy không suy
nghĩ, bước nhanh tới mở cửa pḥng ngủ. Trước mặt tôi, anh Thiếu Úy
đă nai nịt gọn gàng, tay cầm khẩu rouleaux, ṇng súng đen ng̣m đang
chỉa thẳng vào mặt tôi.
- Đ.m…, thằng nào đánh tao hồi tối, mày phải không?
Đinh ninh cây súng không có đạn, tôi trả lời đại khái cho qua
chuyện:
- Ai mà đánh bạn, chắc tối hôm qua bạn quá say vấp té đâu đó thôi.
- Đừng có xạo, té sao mà tao bị bầm cả người đây, mày đánh tao phải
không?
Người bạn gái đă dậy bước lại đứng cạnh tôi chen vào:
- Đâu đánh anh, tối qua anh say quá mà…
- Mày đánh tao hả, tao bắn chết mẹ mày luôn.
Anh ta hét lớn như muốn ăn tươi nuốt sống tôi, đồng thời một tiếng
nổ đoành…như xé nát màng nhỉ. Tai tôi điếc rặc, chỉ c̣n nghe o…o…như
tiếng vo ve của đàn ong đang bay. Cô bạn gái tôi hốt hoảng nhảy núp
sau lưng tôi, như muốn dùng tôi làm cái bia đỡ đạn. Tôi đứng sững
người bàng hoàng chưa kịp phản ứng, chưa hiểu tại sao tên khùng này
lại c̣n đạn để bắn? Tôi nhớ rơ ràng đă rút từng viên đạn găm trên
dây đeo súng của hắn. Hay là cái bao da ḅ nhỏ màu đen đựng đạn kẹp
kế bên con dao mà tôi quên đă không mở ra xem?
Như đă tỉnh rượu, anh ta nhét súng vào bao rồi quay người bước ra
khỏi pḥng leo lên xe nổ máy chạy, sau khi phán cho một câu:
- Tao tha cho mày đó.
Tôi đứng ngẩn ngơ, lỗ tai c̣n ù. C̣n người bạn gái tôi ôm cứng lấy
tôi run rẩy, gần khóc. Chừng khoảng vài tiếng sau, tôi nghe tiếng xe
Jeep tắt máy trước nhà. Có tiếng gơ cửa pḥng, lần này nhẹ nhàng hơn
trước.
- Trễ rồi dậy đi…, tôi xin phép mời hai người đi ăn sáng.
Quá đổi ngạc nhiên, tôi mở cửa. Lại anh chàng Thiếu Úy pḥng thủ
trong bộ đồ bay, không quên choàng thêm cái áo lưới “bất hủ”, đang
tươi cười nh́n tôi trong một giọng nói của người Hà Nội nghe thật
ngọt ngào:
- Hai bạn đi ăn sáng với tôi nhé, tôi mời. Cứ thong thả, tôi ngồi
chờ ngoài pḥng khách…
Anh ta nói như không hề có chuyện ǵ quan trọng đă xảy ra. Anh ta đă
trở lại con người b́nh thường. Một điều lạ mà tôi vẫn không hiểu,
tại sao trong ḷng tôi không hề có một thái độ giận dữ hay oán thù
người đă “tặng” cho tôi đúng bảy viên đạn rouleaux, suưt nữa đưa tôi
qua bên kia thế giới. Hay là tôi đă được thỏa măn tự ái khi nh́n
thấy những vết bầm tím đầy trên thân thể của anh chàng điên khùng
này chăng?
Đứng yên một giây, tôi nh́n mặt anh ta ḍ xét rồi b́nh thản trả lời:
- O K,.. chờ chút, tôi đi tắm đă…
Mười lăm phút sau, cả ba chúng tôi cùng leo lên xe jeep của pḥng
thủ chạy đến quán Mộng ăn sáng như ba người bạn thân t́nh vừa trải
qua một đêm “vui” kinh hoàng. Đến nơi, anh ta không ăn, ngồi lau
muỗng đũa tiếp chuyện cho hai chúng tôi ăn. Hôm đó tôi có cảm tưởng
như đă ăn một bữa ăn sáng lạ lùng nhất trong đời.
Một thời gian sau đó, v́ đă gây nhiều rắc rối khác, anh Thiếu Úy
pḥng thủ điên khùng này đă bị thuyên chuyển lên Pleiku và nghe nói
anh ta đă tử thương trong một tai nạn máy bay trực thăng khi ngồi
trong một phi vụ pḥng thủ phi trường.
Sống chết có số. Đạn tránh người. Đó là những câu nói cho những ai
tin vào định mệnh. Cũng như đến giây phút giờ thứ 25 của trận chiến
tàn khốc này, tôi vẫn c̣n được nằm trên chiếc gường trong đêm khuya
để suy tư. Ngày mai này dù có đi về đâu tôi phải b́nh tâm chấp nhận,
như tôi đă từng chấp nhận ngay từ giây phút đầu tiên khi leo lên
chiếc trực thăng vơ trang để lao vào vùng trời ngập đầy máu lửa này.
Giấc ngủ chợt đến lúc nào không hay…, những tư tưởng đang vần vũ
quay cuồng trong đầu đột tan biến vào hư vô, sâu thẳm…
NGÀY TÀN CUỘC CHIẾN IV: Ngày Chim Vỡ Tổ
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh