Chương 5: Nỗ Lực Duy Tŕ Hiện Trạng

Từ mùa Thu 1973 cho đến mùa Đông 1974, cộng sản Hà Nội chơi tṛ mèo chuột với quân đội VNCH, và cũng là thời gian quan hệ giữa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và đại sứ Martin lạnh nhạt nhất.

Cuối năm 1974 tin t́nh báo cho biết cộng sản sẽ mở cuộc tấn công Đông Xuân 74-75. Và cuộc tấn công đă diễn ra cuối năm 1974. Ngày 6/1/75 tỉnh lị Phước Long thất thủ.

Trong buổi chất vấn của Thượng Viện Hoa Kỳ để phê chuẩn Henry Kissinger vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao, Kissinger nói trước Thượng Viện rằng “chiến tranh Việt Nam xem như đă qua.” Polgar ở Sài g̣n cho rằng Kissinger không diễn tả hiện trạng của cuộc chiến tranh. Cộng sản Hà Nội không tôn trọng Hiệp định Paris và do đó cuộc chiến chưa chấm dứt. Langley đồng ư với Polgar và tiên đoán chiến cuộc sẽ bùng nỗ vào khỏang tháng 11 năm 1974 .

Tháng 12, 1973 đại sứ Martin đi Paris tham dự hội nghị thi hành Hiệp định. Trở về Sài g̣n ngày 22/12/73, Martin – theo khuyến cáo của Bộ trưởng ngoại giao Kissinger – yêu cầu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đơn phương tuyên bố ngưng bắn, chấp nhận bản đồ phân chia ranh giới kiểm soát (da beo) và trao đổi tù binh. Kissinger tiên đoán Hà Nội sẽ bác bỏ đề nghị của Thiệu và Ủy ban Quốc tế Kiểm soát Đinh chiến (UBQT/KSĐC) sẽ tuyên bố Hà Nội không có thiện chí thi hành Hiệp định Paris.

Cuối năm 1973 Polgar báo cáo về Langley rằng miền Bắc đang gặp khó khăn kinh tế, và Hà Nội đang muốn duy tŕ hiện trạng hơn là vi phạm hiệp định lật đổ ông Thiệu ngay. Nam Việt Nam cũng chỉ muốn duy tŕ hiện trạng.

T́nh h́nh do đó lắng dịu cho đến năm 1974. Tháng 2/74 tổng thống Thiệu vận dụng quốc hội tu chính hiến pháp cho phép ông ra ứng cử nhiệm kỳ thứ ba, sau đó ông cải tổ nội các. Sự cải tổ làm CIA mất một số người cho tin quan trọng. Ông Nguyễn Văn Ngăi rời ghế bộ trưởng Bộ Phát Triển Nông Thôn sang ngồi chơi xơi nước bên đảng Dân Chủ. Bộ trưởng bộ Cựu Chiến Binh Phạm Văn Đổng bị rắc rối v́ một vụ chứa bạc lậu nên cũng mất sự tiếp cận với Thiệu. Đổng dùng quan hệ với CIA để chạy tội nhưng CIA không giúp. Kết quả, tháng 4/74 Đổng bị bắt và bị tù cho đến tháng 7/74. Tuy nhiên tướng hồi hưu Trần Văn Đôn (kiêm Thượng nghị sĩ) trở lại chức vụ Phó Thủ tướng Đặc trách Thanh tra và An ninh. Đôn vốn có nhiều quan hệ với CIA và là một nguồn cho tin tốt. Khiêm th́ vẫn hợp tác với CIA trên căn bản thường xuyên.

Đầu năm 1974 tại Hoa Kỳ lợi dụng lúc tổng thống Nixon đang gặp khó khăn về vụ Watergate, báo chí Mỹ - dẫn đầu bởi tờ báo NewYork Times- dấy lên phong trào nói xấu chính quyền Nam Việt Nam để thuyết phục Quốc hội thôi ủng hộ Nam Việt Nam. Báo chí Mỹ c̣n tố cáo CIA tiếp tay cho cảnh sát Việt Nam tra tấn tù nhân chính trị. Và đại sứ Martin đă yêu cầu Thượng nghị sĩ William Fulbright (Dân chủ, bang Arkansas) quan tâm đến vấn đề này.

Cuối tháng 4/74 Hà Nội đề nghị một phương thức thi hành Hiệp định, nhưng lần này, trước những hành động vi phạm Hiệp định một cách lộ liễu của Hà Nội, ông Thiệu bác bỏ, cho Hà Nội chỉ có mục đích tuyên truyền. Đại sứ Martin th́ muốn Thiệu chấp thuận đề nghị của Hà Nội nhất là mục trao đổi tù nhân để ép Hà Nội đóng tiền cho ngân sách của UBQT/KSĐC và không ngăn cản sự thiết lập các trạm kiểm soát theo quy định của Hiệp định Paris.

Giữa tháng 4/74, đại tá Karoly Gambos người Hungary, thuộc phái bộ kiểm soát đ́nh chiến tiếp xúc với Polgar cho biết Liên bang Xô viết đă tạm ngưng luồng tiếp vận vũ khí cho Hà Nội và yêu cầu Hoa Kỳ cũng ngưng tiếp vận cho Nam Việt Nam. Đại tá Gambos nói Nga chỉ muốn duy tŕ hiện trạng ngưng bắn tại chỗ và không muốn khuyến khích Hà Nội lật đổ Thiệu. Nghi ngờ âm mưu của phe cộng sản trong đề nghị này nên sự tiếp cận Polgar của đại tá Gambos không mang lại kết quả nào.

Trong khi đại sứ Martin nghi ngờ báo chí Mỹ muốn miền Nam Việt Nam sụp đổ th́ tổng thống Thiệu nghi ngờ chính chính phủ Hoa Kỳ cũng có chủ trương này (TBN: ông Thiệu không thể không nghi như vậy v́ ông biết quá nhiều về Kissinger, bây giờ Kissinger là bộ trưởng Ngoại giao).

Ngày 6/6/74 trước khi về Washington để tham khảo, Martin – theo khuyến cáo của Quang bàn trước với Polgar – quả quyết với Thiệu Hoa Kỳ không giúp đỡ ǵ việc chống Thiệu của Phong Trào Chống Tham Nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh, mặc dù Hoàng Đức Nhă quả quyết như vậy. Quang cũng yêu cầu Polgar nhắc Martin quan tâm đến chương tŕnh viện trợ kinh tế và hứa rằng (để làm vui ḷng Quốc hội Mỹ) ông Trần Ngọc Châu sẽ được trả tự do khi Martin đến Hoa Kỳ.

Sau khi Nixon từ chức (9/8/74), Shackley (bây giờ phụ trách Cục Viễn Đông của CIA) yêu cầu Polgar giám định mối nguy của Nam Việt Nam. Trong báo cáo Polgar tiên đoán: “cuộc tấn công định mệnh sẽ đến sớm và rất có thể sẽ đến trong mùa khô 1975 .”

Ngày 8/11/74 Polgar nhận được báo cáo t́nh báo từ Hà Nội qua cơ sở CIA tại Biên Ḥa cho biết Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam vừa họp thông qua Nghị Quyết 75 quyết định tung một cuộc đại tấn công miền Nam trong năm 1975 và cuộc tấn công này sẽ lớn hơn mức độ cuộc tấn công 1972. Nghị Quyết 75 nhận định rằng cộng sản Hà Nội chỉ dùng 1/3 lực lượng hiện có tại miền Nam đă có thể kềm chế toàn bộ quân đội VNCH, và rằng cuộc tấn công trải rộng trên toàn quốc trên cả ba mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Lệnh thu mua lúa gạo và các thực phẩm khác chuẩn bị cho một chiến dịch dài ngày đă được Hà Nội ban hành.

Polgar do dự chưa chuyển tin t́nh báo này về Langley th́ giới t́nh báo Hoa Kỳ hỏi Polgar nghĩ ǵ về phân tích t́nh báo trước đó của Hội đồng T́nh báo Trung ương rằng có thể Hà Nội sẽ không mở một cuộc tấn công quy mô trong mùa khô từ 8/74 đến 6/75. Trả lời ngày 11/11/74, Polgar không nhắc lại lời tiên đoán của ông phù hợp với nội dung của tin t́nh báo “khá tế nhị” mà ông vừa nhận được, và viết rằng CIA Sài g̣n cũng chưa có cơ sở nào để nghĩ khác với Hội đồng T́nh báo. (TBN: có lẽ Polgar không muốn làm mất ḷng cấp trên). Tuy nhiên Polgar đính kèm “bản tin t́nh báo từ Hà Nội” để Hội đồng T́nh báo xét với lưu ư rằng nguồn cung cấp tin này là nguồn đă cung cấp tin rất chính xác về vụ tấn công 1972. Ṭa đại sứ cũng nhận được một tin đặc biệt từ Thượng Tọa Thích Trí Quang – qua một trung gian – rằng Hà Nội sẽ mở một cuộc tấn công lớn nếu trong ṿng 3 hay 4 tháng tổng thống Thiệu chưa từ chức.

Về mặt t́nh báo, CIA nghĩ Hà Nội có thể mượn người tung những tin này để đe đọa và làm suy ṃn tư thế chính trị của Thiệu. Nhưng v́ tính khả tín của nguồn cung cấp tin từ Hà Nội nên Polgar quyết định yêu cầu đại sứ Martin và tướng B́nh đặc biệt quan tâm đến toan tính đại tấn công của cộng sản.

Đường giây t́nh báo từ Hà Nội c̣n cho biết thêm chiến địch 1975 dự tính kéo dài qua năm 1976 cho đến cuộc bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ, và mọi chuẩn bị cho chiến trường miền Nam phải được hoàn tất vào cuối tháng 12/1974.

Trước t́nh h́nh quân sự không mấy sáng sủa cho miền Nam, Hoa Kỳ lấy lư do các nước A Rập phong tỏa dầu hỏa đă cắt bớt viện trợ kinh tế cho Nam Việt Nam. Tổng thống Thiệu nghi ngờ đây là đ̣n phép của Hoa Kỳ v́ trước đó ông đă bác bỏ đề nghị cải tổ nội các của Martin.

Thiệu lượng định rằng, và Khiêm thông báo cho CIA biết, t́nh h́nh năm 1975 sẽ không sáng sủa về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Khiêm nói với Hoa Kỳ rằng Hà Nội thừa biết quân đội VNCH không có khả năng bảo vệ tất cả 44 tỉnh miền Nam, và tổng thống Thiệu cũng không có ư định rải quân mỏng bảo vệ tất cả lănh thổ. Sự thông báo này hàm ư tổng thống Thiệu có thể sẽ bỏ một số đất. Khiêm nói úp mở rằng thí dụ giữ được Kontum th́ tốt, nhưng không có lư do ǵ phải hy sinh một sư đoàn để giữ Kontum.

Ngày 6/1/75 Phước Long thất thủ. Đại sứ Martin báo cáo với Washington rằng Hà Nội đă thành lập 4 sư đoàn với nhân lực địa phương nên có khả năng nới rộng sự kiểm soát đất mà không cần di chuyển các sư đoàn từ miền Bắc vào. Nhưng Martin cho biết, theo ông, Thiệu vẫn c̣n khả năng đáp ứng sự lấn đất của cộng sản. Polgar th́ cho rằng t́nh h́nh ngang ngữa đó có thể sẽ nghiêng dần về phía Hà Nội, v́ trong khi Liên bang Xô viết và Trung quốc ồ ạt viện trợ quân dụng cho Hà Nội th́ Hoa Kỳ không viện trợ đầy đủ cho VNCH, ngay cả trên căn bản “một đổi một” v́ sự cản trở của Quốc hội Hoa Kỳ. Ngay cả 700 triệu mỹ kim đă có trong ngân sách, Quốc hội cũng chần chừ không muốn chuẩn chi đến nổi Kissinger phải gọi Martin về Mỹ để vận động với Quốc hội. Tổng thống Thiệu nói – và Polgar chuyển lời về Washington- rằng “h́nh như Hoa Kỳ đang dối gạt VNCH trong khi Hoa Kỳ bị Liên bang Xô viết dối gạt.”

Một tướng người Úc châu, ông Ted Serong khuyên Thiệu nên bỏ 4 tỉnh địa đầu (Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Nghĩa), nhưng Khiêm cho biết Thiệu nghĩ kế hoạnh đó không thực tế về cả hai phương diên quân sự và chính trị. Tuy nhiên tin đồn bỏ đất của Thiệu đang được dư luận báo chí Hoa Kỳ bàn tán theo hướng bất lợi cho Thiệu. Nhân vụ này Thiệu yêu cầu Polgar vận động với Martin giúp thành lập một hội Việt-Mỹ tại Mỹ để lobby chống lại các thành phần phản chiến chuyên loan tin bất lợi cho Nam Việt Nam.

Thiệu nghĩ một cách đơn giản rằng trước sau Quốc hội Mỹ cũng chuẩn chi 700 triệu mỹ kim và ông sẽ có đủ đạn dược, xăng nhớt chống lại cuộc xâm lăng 1975 của Hà Nội. Nếu không ông sẽ tái phối trí (TBN: được hiểu là bỏ đất). Để yểm trợ Thiệu, Polgar gởi điện văn về Washington rằng “nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho Sài g̣n th́ Hà Nội không thấy có lư do ǵ thỏa thuận những đề nghị có tính ḥa hoăn của ông Thiệu như Hoa Kỳ muốn” .

Cuối tháng 2/75 tổng thống Ford đề nghị một gói viện trợ 3 năm cho VNCH. Ngày 26/2 Polgar gởi điện văn yêu cầu Kissinger dùng “uy tín cá nhân và khả năng trí tuệ” của ḿnh để vận động quốc hội thông qua gói viện trợ này. Polgar viết, gói viện trợ 3 năm này sẽ làm cho Hà Nội suy nghĩ lại về các toan tính của họ, và do đó mới có điều kiện thi hành Hiệp định Paris.

Theo lượng giá của Polgar số đạn dược Hà Nội chuyển vào Nam rất lớn, gồm đạn dược dự trữ bảo vệ miền Bắc và đạn dược do Liên bang Xô viết và Trung quốc viện trợ gộp lại. Lượng giá này cho thấy Hà Nội dự tính một cách liều lĩnh bỏ trống miền Bắc cho chiến dịch 1975. Polgar phân tích rằng nếu Hoa Kỳ viện trợ đầy đủ cho Nam Việt Nam th́ sau khi dốc cạn vốn mà không thắng, Hà Nội bắt buộc phải từ bỏ ư định chiếm miền Nam bằng vũ lực. Đă có dấu hiệu Liên bang Xô viết mệt mỏi và chấp nhận sự tồn tại của hai nước Việt Nam như Hàn quốc và Đức quốc.

Thời điểm sinh tử

Ngày 10/3/75 cộng sản mở màn cuộc tấn công 1975 và chiếm Ban Mê Thuộc, tỉnh lị tỉnh Darlac. Thành phố Pleiku bị đe dọa, và trưởng cơ sở CIA Don Nicol tại Pleiku gởi báo cáo khẩn trương hằng ngày về cơ sở CIA Nha Trang. Ngày 12/3, súng pḥng không của quân đội Bắc việt bắn hạ một chiếc Dakota chở hành khách của hăng hàng không dân sự Air Việt Nam trên không phận ngoại ô Pleiku. Không nhận được chỉ thị nào của Sài g̣n, ngày 13/3 Nicol họp nhân viên t́nh báo tại Pleiku và tự động phát họa một kế hoạch dự pḥng di tản cho toàn bộ nhân viên Mỹ-Việt có liên hệ với CIA.

Trong khi đang họp, Nicol nhận được điện thoại của Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 cho biết các vị trí của quân đội VNCH đang bị đe dọa và khuyên người Mỹ nên rút khỏi Pleiku. Lư cho Nicol biết ngày mai 14/3 tướng Phạm Văn Phú sẽ họp với tổng thống Thiệu tại Cam Ranh. Buổi họp được giữ kín và máy bay của tướng Phú sẽ đi Qui Nhơn trước để đánh lạc hướng. Lư hứa với Nicol có tin ǵ sau khi Phú đi họp về Lư sẽ cho hay.

Nicol báo cho Robert Chin, trưởng cơ sở CIA Nha Trang biết nội dung tin Lư vừa cung cấp. Ngày hôm sau 14/3 trước khi Nicol bay về Nha Trang họp th́ được điện thoại của Chin cho biết cơ sở Qui nhơn cho hay tướng Phú có bay về Qui Nhơn thăm bộ chỉ huy một sư đoàn ở đó.

Chiều ngày 14/3, sau khi Nicol đă đi Nha Trang, Stephens (phụ tá của Nicol?) đến bộ tư lệnh quân đoàn 2 kiếm tin về cuộc họp giữa Phú và Thiệu. Stephens gặp Lư trước, Lư chưa nói được ǵ th́ Phú bước vào. Stephens thấy Phú có vẻ thất sắc và mất b́nh tỉnh, nhưng Stephens nghĩ Phú đang lo về t́nh h́nh quân sự suy đồi của vùng 2 chứ không liên quan ǵ đến nội dung chỉ thị của Thiệu trong buối họp buổi sáng tại Cam Ranh.

Hôm đó Stephens không lấy được tin ǵ. Ngày mai Stephens trở lại với hy vọng có tin sốt dẽo. Khi xe chạy qua phi trường Pleiku Stephens không thấy các phản lực cơ của Không quân Việt Nam thường đậu ở đó. Đến bộ tư lệnh Stephens thấy đồ đạt vương văi như đang dọn nhà. Nửa giờ sau Stephens t́m được Lư. Lư kéo Stephens ra một chỗ vắng và sau khi căn dặn tuyệt đối giữ kín, Lư cho Stephens biết Thiệu ra lệnh tướng Phú bỏ Pleiku và Kontum. Stephens vội vàng thông báo tin sơ khởi cho cố vấn tỉnh Darlac Earl Thieme, rồi đi t́m gặp Phú để xác nhận. Thi hành lệnh của tổng thống Thiệu không cho người Mỹ biết quyết định rút quân ra khỏi Pleiku và Kontum, tướng Phú nói với Stephens ông cho dời bộ chỉ huy Quân Đoàn về Nha Trang cho an toàn chứ không có ư bỏ Pleiku và Kontum. Tuy nhiên – cũng như đại tá Lư- Phú khuyên người Mỹ nên rời khỏi Pleiku.

Nhận được báo cáo của Chin, Polgar c̣n đang lượng định sự xác tín của nguồn tin, th́ lănh sự Mỹ tại Nha Trang Moncrieff Spear và Chin đă khẩn khoản yêu cầu, và Polgar chấp thuận cho tất cả nhân viên Mỹ rời khỏi Pleiku và Kontum. Sau khi toàn bộ nhân sự t́nh báo về đến Nha Trang với máy giải mă và vũ khí, phó CIA Sài g̣n LaGueux dùng máy bay đích thân bay quan sát và chụp h́nh đoàn quân rút lui của tướng Phú trên đoạn đường Pleiku – Phú Bổn. LaGueux thấy cuộc rút lui vô cùng hỗn độn.

Polgar tiếp xúc với Quang và tướng Lê Nguyên Khang, Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (TQLC) để t́m hiểu toan tính thật sự của tổng thống Thiệu. Khang nói Khang không biết ǵ. Và rằng ông mới gặp tướng Cao Văn Viên cũng không thấy Viên nói ǵ. Quang th́ nói úp mở rằng việc di tản ra khỏi Kontum là điều có thể xẩy ra. C̣n Thiệu khi gặp Phó đại sứ Lehmann cũng không xác nhận ông đă ra lệnh di tản.

V́ không biết được một cách chính xác Thiệu tính ǵ, Polgar cho rằng việc bỏ Pleiku và Kontum là chiến thuật gom quân của Thiệu để chiếm lại Ban Mê Thuột.

Ngày 17/3, tướng Viên, với phép của Thiệu chính thức thông báo cho tướng Homer Smith, tùy viên quân lực Hoa Kỳ biết quân đội VNCH đang rút ra khỏi Pleiku và Kontum. Viên xin lỗi tướng Smith đă không thông báo sớm hơn v́ lệnh của tổng thống Thiệu.

Ngày 14/3 trong khi tổng thống Thiệu gặp các tướng Phú, Khiêm, Viên, Quang tại Cam Ranh th́ Polgar đang nhức đầu v́ mất Ban Mê Thuột và áp lực cộng sản nặng nề tại tỉnh Tây Ninh. Theo Polgar cường độ của cuộc tấn công vượt quá trận tấn công 1972. B́nh nói với Polgar rằng quân đội VNCH đang cố gắng tái chiếm Ban Mê Thuột, và việc chiếm lại được hay không sẽ quyết định vận mạng của Nam Việt Nam.

Sau này nh́n lại t́nh h́nh lúc đó Polgar cho rằng cuộc tấn công của cộng sản chưa đủ sức làm cho miền Nam sụp đổ. Nam Việt Nam sụp đổ v́ lỗi lầm chiến thuật của VNCH. Vùng 2 rồi Vùng 1 sụp đổ nhanh chóng v́ Thiệu quyết định rút ra khỏi Pleiku và Kontum quá vội vàng, và các tướng lănh đă thực hiện cuộc rút lui một cách tồi tệ. Tuy nhiên thủ tướng Trần Thiện Khiêm cho rằng Hoa Kỳ đă gián tiếp làm miền Nam sụp đổ. Ông nói: “Chừng nào cái Quốc hội Hoa Kỳ ‘khốn kiếp’ đó c̣n chơi tṛ thắt chặt viện trợ th́ chừng đó cộng sản Hà Nội càng được khuyến khích.” Một nhân vật khác (TBN: tài liệu không ghi là ai nhưng có thể đoán là tổng thống Thiệu) nói rằng “khi Hà Nội tấn công Nam Việt Nam trong năm 1972 Hoa Kỳ c̣n dùng B52 và hải pháo đánh phá trả đũa Bắc việt, bây giờ th́ im thin thít. Hoa Kỳ sau khi chơi tṛ Kissinger, bây giờ đến tṛ Quốc hội, và chúng tôi có thể làm ǵ đây?”

Trong khi Hà Nội đang mở cuộc tấn công, đại sứ Martin đang chữa răng ở Mỹ, và – theo Polgar- các phụ tá của Martin không đủ khả năng để nắm t́nh h́nh . Cho nên các báo cáo có chất lượng phản ánh thực tế đều do CIA báo cáo.

Ngày 20/3 Langley yêu cầu Polgar cho biết sự tính toán của Thiệu trước t́nh h́nh đổ vỡ nhanh chóng và cho Polgar biết Washington đang chuẩn bị một chương tŕnh giúp người tị nạn từ miền Trung vào.

Phản ứng của Polgar : “Chương tŕnh giúp người tị nạn th́ giải quyết được ǵ ? Thiết giáp của Hà Nội chỉ có thể bị chận lại bằng vũ khí chống tăng chứ không thể bằng một chương tŕnh nhân đạo. Hoa Kỳ đă không giữ lời cam kết thay thế vũ khí cho quân đội Nam Việt Nam trên căn bản ‘một đổi một’ và cũng không nhắc cho Hà Nội biết hậu quả họ sẽ gánh chịu nếu vi phạm Hiệp định Paris bằng cách mở một cuộc tấn công quy mô vào miền Nam là hai nhát búa kết thúc sinh mạng của một miền Nam tự do không cộng sản. Bây giờ nói ǵ th́ cũng quá trễ.”

Langley đồng ư trên nguyên tắc với Polgar, nhưng nhắc lại các giới chức cao cấp Hoa Kỳ cho rằng đổ vỡ là do cộng sản Hà Nội và lúc này điều cần thiết là giúp người chạy giặc.

Ngày 21/3 trong khi quân đội Nam Việt Nam đang rút chạy từ cao nguyên về miền duyên hải th́ ṭa đại sứ Hoa Kỳ một mặt làm ra vẻ b́nh tỉnh để trấn an dư luận, một mặt không cho thân nhân của nhân viên ṭa đại sứ đến Sài g̣n nữa và không làm ǵ khác hơn để đáp ứng với t́nh h́nh (TBN: có lẽ đây là tâm lư phản ánh cái nh́n của Bộ trưởng ngoại giao Kissinger, chuyện miền Nam Việt Nam xem như đă xong rồi).

Thấy được tâm lư đó Polgar và LaGueux ra sức làm những ǵ có thể làm được để che đậy tâm lư chủ bại của ṭa đại sứ. Polgar thuyết phục tổng thống Thiệu tái tổ chức và t́m cách nâng cao tinh thần binh sĩ và không ngừng mời Quang, B́nh, Nhă dùng cơm để bàn việc.

Ngày 22/3 Polgar cho Khiêm và Quang xem các tấm không ảnh chụp cảnh rút quân hỗn loạn và những tổn thất của quân đội VNCH trên đường Pleiku – Phú Bổn. Ngày hôm sau Quang tŕnh các tấm ảnh đó cho Thiệu xem. Đại tá William Legro cũng thuyết tŕnh cho một số tướng lănh Việt Nam t́nh h́nh bi đát qua không ảnh.

Ngày Chủ Nhật 23/3 Polgar báo cáo về Washington rằng: Hà Nội đang thắng lớn, Nam Việt Nam đang thua đậm trong khi ṭa đại sứ Hoa Kỳ bất động! Polgar cho biết Hà Nội đă đưa 5 sư đoàn trừ bị (có nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc) vào Nam bỏ ngỏ miền Bắc và yêu cầu Langley thông báo cho Bộ trưởng ngoại giao Kissinger và Bộ trưởng quốc pḥng Schlesinger rằng – theo nhận xét của ông – miền Nam Việt Nam đang sụp đổ.

Chiều hôm đó Langley hỏi Polgar quân đội Nam Việt Nam tổn thất đến mức độ nào và Thiệu tính phản công ra sao để Hoa Kỳ kịp gởi vũ khí cần thiết tới. Langley lượng định ông Thiệu có thể sẽ mất Đà Nằng và có thể cả Tây Ninh và muốn biết ông Thiệu định giữ trận tuyến ở đường ranh nào. Trả lời trong ngày Polgar nói t́nh h́nh bi đát hơn người ta có thể tiên đoán 10 ngày trước. Nhưng các thành phố Đà Nẵng, Quy Nhơn, Phan Thiết có thể giữ làm nơi gom quân và bảo vệ tiềm năng quân đội cho một trận đánh quyết liệt sắp tới. Thiệu chưa có ư định lập một pḥng tuyến nào ngoài nỗ lực cứu văn những ǵ có thể cứu văn.

Ngày 25/3 Langley định cho phép Polgar bắt đầu di tản những đối tượng cần di tản, nhưng tỏ ư quan ngại phản ứng bất lợi trong dân chúng. Polgar cho biết sự lo ngại đó không cần thiết v́ với thái độ bất hợp tác của quốc hội Mỹ cộng thêm việc hàng ngàn nhân viên Việt – Mỹ hốt hoảng từ các tỉnh phía Bắc chạy xuống đă đủ gây kinh hăi cho dân chúng tại Sài g̣n.

Về chiến lược, Polgar nhận thấy cả hai phía Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều lúng túng thiếu đường lối chỉ đạo. Ông đề nghị tướng Fred C. Weyend, nguyên tư lệnh MACV nên đến Sài g̣n t́m hiểu t́nh h́nh. Washington chấp thuận đề nghị của Polgar và phái đoàn gồm tướng Weyand, Shackley, George Carver và Martin quá giang lên đường ngày 27/3.

Ngày 26/3 Polgar báo cáo rằng tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội VNCH “như chúng ta từng biết” không c̣n nữa sau vụ rút ra khỏi cao nguyên và Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ có áp lực quân sự và chính trị đối với Hà Nội, chẳng hạn như Hoa Kỳ khai thác miền Bắc đang bỏ trống, và vận động Nga khuyên Hà Nội đừng hấp tấp mà hố. Chiều ngày 26/3 Hoa Kỳ rút khỏi Tây Ninh bằng trực thăng.

Một báo cáo nội bộ CIA tại Sài g̣n cho biết tướng Viên, Tham Mưu Trưởng quân đội rất bi quan. Theo Viên, tái phối trí hay không tái phối trí cũng không cứu được miền Nam, ngoại trừ một cuộc phản công mạnh mẽ bằng B-52 của không lực Hoa Kỳ .

Tại Sài g̣n Thiệu ra lệnh cho Quang và B́nh t́m mọi cách chận đứng các tiếng nói phản chiến của bà Ngô Bá Thành và của các linh mục Công giáo, và ngày 28/3, sau những cảnh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng hôm 27/3, Shackley báo cáo cho Colby biết kế hoạch giữ Đà Nẵng không thể thực hiện được. Ngày 27/3 phi trường Đà Nẵng mất an ninh v́ quân lính và dân chúng chen chúc nhau dành chỗ và chuyến bay thứ nhất của Hoa Kỳ chỉ chở được 1/3 số người trong danh sách do Hoa Kỳ thiết lập. Chuyến bay thứ hai phải lén đậu một chỗ khuất trên phi đạo mới lấy được đủ số người trong danh sách. Riêng nhân viên t́nh báo Hoa Kỳ an toàn rời Đà Nẵng trong ngày bằng phương tiện chuyên chở riêng của CIA.

Polgar thúc dục Quang cho Thiệu biết nếu không tái lập được an ninh tại phi trường th́ Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ nỗ lực di tản người Mỹ và người Việt bằng máy bay. H́nh như tổng thống Thiệu không được báo cáo chính xác về t́nh h́nh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng.

Được lệnh của Thiệu, nhưng tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh Quân đoàn 2 cũng khoanh tay không tái lập được trật tự phi trường. Ngày 28/3 lănh sự Mỹ tại Đà Nẵng Albert Francis ra lệnh chấm dứt chương tŕnh di tản bằng máy bay chuyển sang dùng đường biển.

Hừng đông ngày 28/3 lợi dụng trời c̣n tối Hoa Kỳ cho một chiếc phà cặp bến sông Đà Nẵng để di tản 3.000 người Việt làm việc với Hoa Kỳ. Tin bị lộ khoảng 1.000 người không có trong danh sách tràn lên bè, chen lấn xô đẩy nhau, té xuống sông và nhiều người chết đuối. Phà được vội kéo ra, một số đông trong danh sách 3000 người của Hoa Kỳ c̣n lại trên bờ. Đêm hôm sau ṭa lănh sự lại cho nhiều phà cập bến, nhưng chỉ có một số vào được.

Lănh sự Mỹ nhờ một tàu kéo (tugboat) của Úc, chiếc Osceola giúp. Sáng ngày 29/3 chiếc Osceola rời bến sông Đà Nẵng an toàn chạy ra biển với nhân viên người Mỹ và một ít người Việt thuộc cơ sở CIA và ṭa lănh sự Mỹ. Đang c̣n trên sông một chiếc thuyền máy nhỏ chở lính TQLC chạy áp lại phía sau lái bất chấp chiếc Osceola bắn thị uy. Hank Boothe, một nhân viên an ninh Mỹ bước ra sau lái và lời qua tiếng lại rất căng thẳng với một binh sĩ TQLC lăm lăm một khẩu súng lục chĩa thẳng vào người Boothe. Sau cùng không khí bớt căng thẳng, người lính TQLC kéo ổ đạn cho thấy súng không có đạn. Boothe yêu cầu các binh sĩ TQLC hăy lên các thuyền đánh cá khác lúc này đang bu quanh chiếc Osceola.

Ra đến biển, từ chiếc Osceoala có thể thấy vô số thuyền máy đánh cá đủ loại chỡ lính có, thường dân có chạy lung tung trên biển. Hạm đội 7 dàn ngoài khơi trong hải phận quốc tế không biết đón được bao nhiều người. Osceola đánh điện kêu cứu theo luật hàng hải quốc tế và các thuyền buôn đang chạy qua vùng Đà Nẵng đă tích cực đáp ứng nhưng không giúp ǵ được v́ hỗn loạn.

Đêm 29/3 bốn nhân viên CIA và những nhân viên ṭa lănh sự ngủ trên chiếc Osceola chờ trời sáng chuyển qua một chiếc tàu lớn hơn để vào Sài g̣n. Khi Osceola cặp vào chiếc tàu buôn Pioneer Commander th́ thấy trên tàu đă có hằng trăm lính TQLC với quang cảnh rất hỗn loạn. Tuy nhiên hành khách Mỹ Việt của chiếc Osceola lên tàu an toàn, và sau đó giúp thuyền trưởng tổ chức bảo vệ an ninh đài chỉ huy và pḥng máy. Trong đêm 30/3 nhiều lính TQLC định lên chiếm đài chỉ huy, nhưng nhân viên an ninh Mỹ ngăn chận và đuổi đi.

Tổng kết lại, ṭa lănh sự Mỹ và CIA phối hợp nhau đă di tản được khoảng 50.000 người ra khỏi Đà Nẵng, nhưng nhiều người Việt trong số từ 3.000 đến 4.000 người làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân của họ vẫn c̣n kẹt lại.

Ngày 27/3 trên chiếc máy bay chở phái đoàn tướng Weyand đi Việt Nam Shackley tóm tắt cho đại sứ Martin biết t́nh h́nh hỗn loạn tại phi trường Đà Nẵng, Martin có vẻ không tin. Đến Sài g̣n, và sau khi Đà Nẵng đă rơi vào tay cộng sản Polgar đưa Vince Daly, một nhân viên CIA của trạm Đà Nẵng đến gặp để tường tŕnh trực tiếp cho Martin, Martin vẫn chưa tin và nói có thể ông sẽ đi Đà Nẵng để đích thân quan sát t́nh h́nh. Polgar hỏi máy bay ông đại sứ làm sao có thể đáp xuống một phi trường do quân lính cộng sản kiểm soát? Hoạt cảnh này có lẽ là hoạt cảnh đại sứ Martin bắt đầu đóng để bảo đảm một cuộc rút chạy an toàn cho đến ngày 30/4/1975! Theo chính sách của đại sứ Martin, Polgar bắt đầu cho ra những tin tức lạc quan.

Đà Nẵng thất thủ trong hỗn loạn như một gáo nước lạnh dội suốt miền Nam. Tổng thống Thiệu cũng mất b́nh tỉnh. Ngày 30/3 không một viên chức nào có tầm cỡ ứng trực tại dinh tổng thống. Ngày 2/4 Shackley và Polgar gặp tổng thống Thiệu và thấy ông không kềm chế được xúc động phải bật khóc. Shackley ghi nhận Vùng 1 và Vùng 2 mất đă làm cho tinh thần binh sĩ và dân chúng miền Nam hoàn toàn suy sụp. Dân cũng như quân miền Nam đều cho Hoa Kỳ phản bội và đồng ư với nhau một điều là miền Nam chỉ có thể sống c̣n nếu Hoa Kỳ dùng B-52 dội bom vào các đoàn quân Bắc việt đang nghênh ngang tiến về Sài g̣n.

Trong hai điệp văn Shackley gởi về Langley trong hai ngày 31/3 và 2/4 Shackley tiên đoán hau điều có thể xẩy ra. Thứ nhất là quân đội miền Bắc tiến thẳng vào Sài g̣n thanh toán chính quyền miền Nam bằng vũ lực. Thứ hai, Hà Nội ngưng tiến quân, ép thành lập một chính phủ liên hiệp để hiến cho miền Nam một cách đầu hàng. Polgar và Martin luôn luôn chờ đợi tín hiệu thứ hai, nhưng nó không bao giờ tới. Phái đoàn Weyand cũng thấy không có ǵ để thuyết phục Hà Nội chớ nên dùng sức mạnh để chiếm miền Nam lúc này, ngoại trừ Hoa Kỳ dùng không lực yểm trợ và ồ ạt viện trợ xăng nhớt súng đạn cho quân đội VNCH.

Sau khi chiếm Đà Nẵng quân đội cộng sản tiến ra vùng duyên hải. Ngày 1/4 bộ đội cộng sản tiến sát Nha Trang. 10:30 sáng đại tá Lư Bá Phẩm, tỉnh thị trưởng Khánh Ḥa Nha Trang kiêm tiểu khu trưởng báo cho Hoa Kỳ biết Nha Trang đă bỏ ngỏ. Tổng lănh sự Mỹ vội rời Nha Trang và vào lúc 11:17AM cơ sở CIA đóng cửa và khoảng xế trưa chủ sự CIA Robert Chin và toàn bộ nhân viên rời Nha Trang bay về Sài g̣n. Chương tŕnh di tản nhân viên người Việt làm việc với Hoa Kỳ và thân nhân bằng đường biển không thực hiện được v́ sự ra đi đột ngột của người Mỹ. Sau này kiểm điểm lại có 50% trong số này tự xoay xở vào đến Sài g̣n .

Ngày 2/4 Langley cho Polgar biết Bộ ngoại giao sắp ra lệnh di tản toàn bộ nhân viên Mỹ và những người Việt có thể bị Hà Nội trả thù ra khỏi Sài g̣n. Con số này ước lượng một triệu người. George Carver nói kế hoạch di tản này là kế hoạch của “người điên”, v́ sự di tản sẽ tạo ra hỗn loạn c̣n hơn sự hỗn loạn trong trường hợp không làm ǵ cả. Carver chỉ thị Polgar không nên động tỉnh ǵ cho đến khi có lệnh, và nếu di tản rất có thể phải đổ bộ một sư đoàn TQLC được yểm trợ bởi Không quân chiến thuật. Phụ tá Bộ trưởng quốc pḥng Philip Habib quyết định di chuyển thân nhân, c̣n nhân viên và công chức Mỹ th́ cho di tản nhỏ giọt từng nhóm nhỏ để tránh tin đồn “Mỹ bỏ chạy”. William Colby, giám đốc CIA dặn rằng nếu phía chính quyền Việt Nam chất vấn th́ nói Vùng 1 và Vùng 2 đă mất, công việc ít nên các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam giảm nhân số theo nguyên tắc hành chánh thôi (TBN: ông Colby quả có óc khôi hài!). CIA chỉ định William Johnson bố trí người ở lại sau khi Sài g̣n sụp đổ để lấy tin. Không biết Johnson làm ăn thế nào sau này CIA không nhận được một tin tức t́nh báo nào cả.

Ngày 2/4 Thiệu cho Shackley và Polgar biết ông dự tính lập một chính phủ rộng răi để hy vọng Hà Nội thấy thích hợp bàn chuyện ngưng bắn. Ngày 3 tháng 4 Polgar báo cáo với Langley rằng tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ và Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm cũng định thành lập một chính phủ như vậy mà không có Thiệu. Kế hoạch là Thượng viện thông qua một Quyết Nghị yêu cầu Thiệu từ chức. Polgar thấy kế hoạch của Kỳ khó thực hiện v́ Thiệu sẽ không dễ bị ép như vậy.

Sáng ngày 8/4 Trung úy Nguyễn Thành Trung của Không quân VNCH đào ngũ dùng phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập. Cũng trong ngày tin t́nh báo của CIA từ Hà Nội cho biết Hà Nội đă lấy quyết định thanh toán Nam Việt Nam bằng sức mạnh quân sự vào thời điểm do Hà Nội chọn lựa, không thương thuyết, không liên hiệp, dù Thiệu từ chức hay dù Hoa Kỳ mở lại đường tiếp vận quân trang vũ khí cho quân đội VNCH.

Lúc này Nội các của Khiêm hoàn toàn tê liệt. Tổng thống Thiệu cũng không buồn liên lạc với Martin. Ngày 10/4 khi báo cáo về Washington các cuộc tấn công của cộng quân quanh Sài g̣n Polgar tiên đoán Hà Nội sẽ tiến vào Sài g̣n khoảng tháng 6/75. Martin lúc này nghĩ Thiệu ra đi là tốt nhưng ông không thấy ai có thể thay thế. Riêng Polgar nhận định rằng, ngoại trừ Hoa Kỳ đổi ư mạnh tay can thiệp bằng vũ lực, cách tốt nhất c̣n lại để tránh đổ máu là Thiệu từ chức và thành lập một chính phủ gọi là “liên hiệp quốc gia” như một cách đầu hàng và Hoa Kỳ vận dụng mọi sức ép quốc tế (như cung cách Hoa Kỳ đă làm khi quân đội Do Thái tiến vào Ai Cập năm 1973) kêu gọi Hà Nội ngưng tiến quân. Nếu không, Nam Việt Nam sẽ bị đánh gục trong một thời gian ngắn và không một người Việt Nam nào có thể chạy thoát.

Về phần di tản, có lẽ kinh nghiệm của các vụ di tản Pleiku, Đà Nẵng cho Polgar thấy một cuộc di tản đông đảo ra khỏi Sài g̣n không phải là chuyện dễ làm nên Polgar trở nên dè dặt theo đường lối của Martin. Khác với một Polgar lúc nào cũng nhận định dứt khoát rơ ràng dựa vào thực tế của ông trước đây, bây giờ Polgar hay nói đến giải pháp liên hiệp và ngưng bắn. Ông dự tính chỉ di tản ồ ạt người Mỹ và thân nhân khi Biên Ḥa mất và đường bộ Sài g̣n – Vũng Tàu bị cắt.

Ngày 10/4 trong một báo cáo lời lẽ trung thật Polgar kết luận: “Tháng 2/1975 chúng ta có nhiều đường an toàn rút khỏi Việt Nam và Nam Việt Nam c̣n nhiều ưu thế để tồn tại, nhưng chúng ta đă để cho cơ hội vuột khỏi tầm tay (TBN: ư Polgar muốn nói sau khi cộng sản vi phạm Hiệp định Paris đánh chiến Phước Long mà Hoa Kỳ vẫn bất động) khuyến khích Hà Nội làm tới. Và bây giờ th́ không c̣n ǵ nữa, ngoài sự thất bại!

Theo Polgar lúc này chỉ c̣n 4 bước: (1) di tản nhanh chóng người Mỹ ở một mức độ sao cho không tạo ra cảm tưởng Mỹ đang trốn chạy (2) vận động ngưng bắn qua Nga Sô và Pháp (3) ép Thiệu từ chức và thành lập chính phủ liên hiệp để đầu hàng [TBN: thực tế có ép Thiệu từ chức và đầu hàng nhưng không có khâu liên hiệp!] (4) thương thuyết với Hà Nội để có th́ giờ di tản người Việt có thể bị Hà Nội trả thù [TBN: chương tŕnh HO thực hiện điều này nhưng chỉ thực hiện được sau khi sĩ quan quân đội VNCH và công chức cao cấp của chính quyền miền Nam đă bị trả thù trong các trại cải tạo!]. Theo Polgar giải pháp 4 bước này giúp rữa mặt mày cho Hoa Kỳ và giúp Hà Nội tránh được tiếng vi phạm một hiệp định được quốc tế công nhận.

Lúc này vấn đề di tản an toàn là mối lo chung từ Washington đến Sài g̣n. Hoa Kỳ có trách nhiệm đối với 250.000 người có quan hệ với Hoa Kỳ chưa kể toàn bộ sĩ quan, binh sĩ và công chức các cấp của chính quyền miền Nam Việt Nam.Tin cho biết nếu thấy người Mỹ “bỏ chạy” mà không ngó ngàn ǵ đến người Việt một số đơn vị quân đội VNCH có thể đơn phương lấy sáng kiến giữ người Mỹ lại làm con tin để bảo đảm sự ra đi của họ và vợ con.

Giải pháp đưa đến một sư đoàn TQLC để yểm trợ cuộc di tản được gạt bỏ v́ những hệ lụy không thể lường trước được./.

Chương 6: T́m lối đầu hàng và di tản

 


TÀI LIỆU

QLVNCH

Tháng Tư đen


Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây biểu chương...
Lễ nghi quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu, huy hiệu... QLVNCH
Tiến tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN  
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa  
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
 
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6


Gươm lạc giữa rừng hoa  
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ  
Sắc lệnh về quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân   
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
 
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !  
140 chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả  
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại VN  
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ  
Tổng Thống Abraham Lincoln  
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc  
Luận về Tậm Lư Chính Trị  
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân  
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.  
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm  
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm  
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?

Một tài liệu 42 năm cũ  
Dựng Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ 
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi

Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974  
Những điều nên biết về Medicare 2016
Remember C-Rations?  
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?  
Tướng lănh VNCH  
Bài phỏng vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu  
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc 
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột tháng 3, 1975
Đại Tá Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975 tại Sài G̣n
Chuyện của một ngôi trường  
Luận về khoa bảng  
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền  
Phiếm luận về mộng mơ qua văn chương và triết học  
Chính sách thuế khóa
Cách viết hoa trong tiếng Việt
Đoàn thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa Việt Nam  
Tiếng Việt ba miền - Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?  
TT Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?  
HCM đă âm mưu bán nước từ năm 1924  
Vài nét về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải chiến Midway  
Adm Chester Nimitz  
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc hành quân Lam Sơn 719  
Những trận đánh đi vào quân sử 
Nguyên nhân xụp đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng  
Nguyên do chính khiến VN bất tử  
Người cha đẻ hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và huyền thoại
Vài nét hoạt động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến VNCH
Trung Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72, TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng 12 năm 1965
Nhảy Dù và Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử: Mậu thân Huế
Trận KAMPONG TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về thành nội Tết Mậu Thân  
Một ngày với Đô Đốc Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh anh dũng và trung thành với Tổ Quốc  
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần - Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết hiên ngang
Chuyến công tác cuối cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh hùng
Lịch sử h́nh thành QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận Vong
Người lính VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính VNCH
Sự thật về cái chết của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1, Phần 2, Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ 1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân QLVNCH
Những người trở về với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam, Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức - 1974

Linh Tinh

Người cha đẻ hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc Kinh