TƯỚNG MỸ ROBERTSPALDING VIẾT VỀ TRUNG QUỐC..
CARL TRẦN
"…Trung Quốc là cả một tṛ lừa đảo kiểu Ponzi. Câu hỏi duy nhất
chúng ta đặt ra với Trung Quốc, câu hỏi quan trọng duy nhất, là khi
nền kinh tế của họ nổ tung... nó sẽ kéo theo mọi người xuống đến mức
tồi tệ nào?…"
Lời người dịch: Robert Spalding là cựu chuẩn tướng Không Lực Hoa Kỳ.
Trong hơn 25 năm phục vụ trong quân ngũ, ông từng giữ vai tṛ chiến
lược gia cho chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân và Hội đồng
Liên quân tại Ngũ Giác Đài. Có bằng tiến sĩ về kinh tế và toán học
tại Đại học Missouri và nói thông thạo tiếng Quan thoại, ông từng
sang Trung Quốc làm việc với tư cách giới chức quốc pḥng cao cấp và
tùy viên quốc pḥng.
Spalding tự nhận ḿnh là một người luôn yêu mến đất nước, con người
và văn hóa Trung Hoa. Ông từng có giấc mơ khi về hưu sẽ dọn sang
Thượng Hải làm ăn và sinh sống. Trong công việc quốc pḥng của ḿnh,
ông đă đọc cuốn sách Unrestricted Warfare (Chiến Tranh Không Giới
Hạn) của hai đại tá Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc là Kiều
Lương và Vương Tương Tuệ. Từ đó, ông thay đổi cách nh́n về Trung
Quốc, đặc biệt là về những chủ trương và chính sách của Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Ông lao vào thu thập và nghiên cứu mọi tài liệu có
thể có được về những bước đi của Bắc Kinh trên nhiều lĩnh vực. Trước
khi bị sa thải khỏi nhóm chuyên gia làm việc cho Hội đồng An ninh
Quốc gia, Spalding đă tŕnh lên chính phủ Obama nhiều đề nghị thay
đổi chính sách đối ngoại với Trung Quốc, nhưng không mấy thành công.
Cuốn sách của cựu Chuẩn Tướng Robert Spalding, Stealth War: How
China Took Over While America’s Elite Slept (tạm dịch, Cuộc chiến vô
h́nh: Trung Quốc tác oai trong khi giới ưu tú Mỹ say ngủ), được ông
nhắm đến quảng đại quần chúng như một lời báo động đối với những
hiểm họa mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đặt ra cho sự tồn vong của nước
Mỹ và những giá trị dân chủ trên toàn thế giới. Sách được nhà
Penguin Random House xuất bản tháng 9, 2019.
Cuốn sách đề cập đến những chiến lược của Trung Quốc và những sơ hở
hoặc sai lầm của Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực, từ chính trị và ngoại
giao, kinh tế và quân sự, đến tương lai kỹ thuật số. Bài dịch này
bao gồm một số phần của Chương 3 mang tựa đề “Economy” (“Kinh tế”).
[Chú giải của người dịch nằm trong ngoặc vuông.]
“Trung Quốc là cả một tṛ lừa đảo kiểu Ponzi”
Một trong những điều khó hiểu về sự trỗi dậy của Trung Quốc là làm
cách nào nước này đạt được sự tăng trưởng gây choáng vào bậc nhất
trong lịch sử thế giới. Chưa từng có một cuộc xoay chuyển nào tương
tự trong lịch sử hiện đại. Làm cách nào họ có thể đưa nhiều người
đến thế thoát khỏi cảnh nghèo nhanh như thế?
Đây là một câu chuyện dài và phức tạp - và cũng là một trong những
t́nh tiết phụ của cuốn sách này - nhưng xin tóm lược bằng một câu từ
góc nh́n kinh tế: họ đă làm điều đó bằng cách phát hành và thủ đắc
những khoản tín dụng khổng lồ, bằng cách tạo ra hàng tỷ Mỹ kim đầu
tư nước ngoài không thể thu hồi, và bằng cách tạo ra một hệ thống
kinh tế khép kín với tường rào bao bọc không thể thâm nhập đối với
mọi cuộc kiểm toán từ bên ngoài trong khi họ lột da giới đầu tư nước
ngoài.
“Trung Quốc là một con hổ giấy,” Steve Bannon nói khi thảo luận về
sự tăng trưởng kinh tế của nước này. Cựu phó chủ tịch Goldman Sachs
sau đó nói với tôi: “Trung Quốc là cả một tṛ lừa đảo kiểu Ponzi.
Câu hỏi duy nhất chúng ta đặt ra với Trung Quốc, câu hỏi quan trọng
duy nhất: là khi nền kinh tế của họ nổ tung... nó sẽ kéo theo mọi
người xuống đến mức tồi tệ nào?”
Bannon có lư. Hăy tưởng tượng nếu vua Ponzi, Bernie Madoff, người đă
lừa các nhà đầu tư hàng tỷ đô la trong suốt nhiều năm, có thể nói
với những người bị hắn lừa - năm này qua năm khác - rằng: “Không,
bạn không thể rút tiền ra cho đến khi nào tôi cho phép. Và, không,
bạn chỉ có thể xem bản báo cáo tài chính mà tôi muốn bạn xem.” Sau
đó hăy tưởng tượng gă Bernie trơ tráo có thể, cũng năm này qua năm
khác, nói với Bộ Tư pháp, Hội đồng Chứng khoán và Hối đoái SEC, và
Tổng cục Thuế vụ IRS rằng: “Không, quư vị không được xem sổ sách của
tôi. Quư vị phải tin vào công việc hạch toán của tôi.”
Nếu t́nh trạng đó tồn tại ở Hoa Kỳ, Madoff có thể vẫn đang không
ngừng lột da những người bị hắn lừa, tạo ra những khoản “lợi nhuận”
từ không khí bằng cách thu hút tiền mặt của khách hàng mới, cắt xét
một phần cho ḿnh, rồi trả dần dần cho các khách hàng trước đó.
T́nh trạng đó mô tả một cách căn bản các quy luật mà Trung Quốc đă
sử dụng để nạp năng lượng cho sự tăng trưởng bùng nổ của ḿnh, trong
khi điều hành một kế hoạch lừa đảo kiểu Ponzi trên quy mô toàn cầu.
Đầu tư nước ngoài đổ vào, nhưng ở lại Trung Quốc. Một số đầu tư được
giữ nguyên bằng đô la để Trung Quốc có thể tiếp tục giao thương với
quốc tế, nhưng lợi nhuận phải đổi thành loại tiền không thể hoán đổi
và đặt dưới những biện pháp kiểm soát vốn nghiêm ngặt.
Các công ty Trung Quốc, đa phần được Đảng Cộng sản Trung Quốc
(ĐCSTQ) bao cấp hoặc được những tay mối lái quyền lực của ĐCSTQ sử
dụng làm con heo đất của ḿnh, không tuân theo cách làm kế toán
thông thường. Do đó, giới phân tích không có cách nào đánh giá chính
xác sức khỏe tài chính của các công ty Trung Quốc, đó là chưa kể có
thêm một khoảng đệm là Ngân hàng Trung Quốc thuộc sở hữu chính phủ
bơm tiền vào bất cứ công ty nào mà họ cho là quan trọng về mặt chiến
lược. Và, như chúng tôi sẽ tường thuật trong phần về công nghệ, v́
ĐCSTQ có thể lấy tài sản của một công ty trao cho một công ty khác
trong chớp mắt, ư tưởng về sổ sách được kiểm chứng không ǵ khác hơn
một cơn hoang tưởng.
Với hiện trạng như thế, việc phương Tây nháo nhào đầu tư vào thị
trường Trung Quốc nói một cách lạc quan nhất là liều lĩnh và bi quan
nhất là điên rồ. Vậy tại sao nó đang xảy ra? Rơ ràng, Phố Wall say
sưa với lợi nhuận thu được từ phí giao dịch nên không c̣n quan tâm
đến chuyện khác. Và các nhà quản trị quỹ hưu trí quá mê mệt với kiểu
đầu tư tư duy nhóm - ư tưởng cho rằng nếu mọi người đều làm điều đó,
th́ chúng tôi cũng sẽ làm theo. Họ không đơn độc. Cái khôn - hay
trong trường hợp này, cơn điên - của đám đông là một lực đẩy rất
mạnh.
Để định h́nh “cái khôn” ấy, Trung Quốc mở một dạng thức chiến tranh
truyền thông: những chiến dịch tuyên truyền và tạo ảnh hưởng. Trận
đánh để ĐCSTQ chứng tỏ đầu tư nước ngoài là an toàn diễn ra trên
nhiều mặt trận. Họ chiêu dụ giới đầu tư và báo chí, chào đón các
phái đoàn thương mại, và tài trợ cho những hội nghị. Họ mua những tờ
chèn quảng cáo mang dáng vẻ chính thức đặt vào những tờ báo uy tín,
chẳng hạn như Washington Post.
China Global Television Network [Mạng lưới Truyền h́nh Toàn cầu
Trung Quốc] từng gửi lời mời làm việc đến những nhà báo ở khắp nơi
trên thế giới đă từng chỉ trích những việc làm của Trung Quốc, như
phá rừng ở châu Phi, trong một nỗ lực nhằm kiểm soát cách họ đưa
tin. Theo báo The Guardian, một phóng viên đă từ chối một lời mời lẽ
ra đă làm tăng gấp đôi mức lương của anh.
Toàn bộ sự việc là một phần của chiến tranh không giới hạn. Một cuộc
tấn công bằng sự quyến rũ và thông tin sai lạc đầy tính toán được
thiết kế để xây dựng niềm tin và thúc đẩy đầu tư.
Và ta hăy chấm công cho ĐCSTQ và cơ quan tuyên truyền của họ: họ
đang sáng chói trong công việc. Có thể nói họ đang hoàn thành một vụ
lừa đảo lớn nhất thế giới. Vào tháng 11 năm 2018, Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận B́nh đọc diễn văn trước Thượng viện Tây Ban Nha, tiếp
tục tṛ diễn kịch: “Trung Quốc sẽ nỗ lực mở, thêm nữa, những cánh
cửa của ḿnh ra thế giới bên ngoài, và chúng tôi sẽ nỗ lực đơn giản
hóa việc tiếp cận thị trường trong các lĩnh vực đầu tư và bảo vệ tài
sản trí tuệ.”
Ông không đưa ra một thời biểu nào, không có chi tiết nào về tăng
cường tiếp cận đầu tư - kể cả liệu điều đó có liên quan đến việc nới
lỏng các luật lệ về thoái vốn hay không - và con số không về cách
thức mà Trung Quốc sẽ thực thi các biện pháp bảo vệ tài sản trí tuệ.
Không ǵ ngoài: Hăy tin tôi.
Kế hoạch Ponzi của Trung Quốc thành công một phần nhờ sự đồng lơa và
im lặng ở phương Tây của các công ty. Khi các công ty đầu tư nhiều
vào Trung Quốc khám phá ra họ không thể rút được tiền ra khỏi nước
này - và đang có đến hàng ngàn công ty như thế - họ có thể làm ǵ?
Ngay từ khi họ bỏ tiền vào, họ đă thấy ḿnh đứng giữa vách núi và
vực sâu.
Số tiền đó bị mắc kẹt. Đây là một điệp khúc thường hằng mà các lănh
đạo công ty rỉ tai nhau ở nơi kín cổng cao tường. Theo những chuyên
gia tài chính uy tín, các công ty như Chevron, Exxon, Sony và BMW có
thu nhập hàng tỷ đô la ở Trung Quốc. Nhưng họ không thể hồi hương
tiền của ḿnh. Trung Quốc từ chối cho tiền ra khỏi nước, v́ họ cần
những đồng đô la đó. Nhiều nguồn tin từ cộng đồng đầu tư nói với tôi
rằng, theo như họ biết, Trung Quốc đă không cho phép hồi hương số
lượng đáng kể từ bất cứ quỹ đầu tư phương Tây nào kể từ năm 2015.
“Nếu họ muốn phát triển nền kinh tế, họ phải tăng dự trữ, v́ họ phải
giao dịch nhiều hơn với phần c̣n lại của thế giới dựa trên sự tăng
trưởng đó,” Kyle Bass, nhà sáng lập Hayman Capital Management, nói
với tôi vào tháng 1 năm 2019. “V́ thế, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục
sự che đậy này chừng nào họ duy tŕ được con số dương trong tài
khoản văng lai, tức là tiền vào ṛng nhiều hơn tiền ra. Trong 17 năm
qua, Trung Quốc đă tạo ra số dư tài khoản văng lai đáng kể. Bây giờ,
lần đầu tiên kể từ năm 2001, họ sẽ ghi lại một tài khoản văng lai âm
cho năm 2018.”
Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) đă công bố các con số của năm
2018 cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP chậm nhất trong 28 năm, ở mức
6,6%. Do sự thiếu minh bạch của cơ quan này trong nhiều lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế Trung Quốc, nhiều nhà phân tích tài chính
nghi ngờ rằng các con số này dựa trên những sổ sách đă bị luộc.
Như Bass ghi nhận trong một bài xă luận đăng vài tuần sau khi số
liệu của NBS được công bố, “12 tháng qua đă chứng kiến những chỉ số
kinh tế quan trọng của Trung Quốc như sản xuất công nghiệp, doanh
thu xe hơi, doanh thu bán lẻ và đầu tư đều giảm xuống mức thấp trong
nhiều năm trong khi đợt kích thích trước đó giảm dần tác dụng và
gánh nặng nợ của Trung Quốc tiếp tục tạo ra một ṿng xoáy kinh tế đi
xuống.”
Dù nhanh hay chậm, số dư tài khoản âm hoặc giảm dần - kết quả của
thương mại và đầu tư chậm lại - gợi ư sẽ có hai mâu thuẫn căn bản
xảy ra trong ngắn hạn: Thứ nhất, Trung Quốc sẽ cố tạo thêm đầu tư
nước ngoài để duy tŕ tăng trưởng. Thứ hai, Trung Quốc sẽ không nhả
ra bất cứ khoản lợi nhuận nào trên các khoản đầu tư nước ngoài - bất
chấp đó chính là mục đích của việc đầu tư - v́ họ cần đến từng xu Mỹ
mà họ có thể tích cóp được để trả cho sự tăng trưởng.
Nếu nó trông giống như một kế hoạch Ponzi và hoạt động như một kế
hoạch Ponzi nhưng phủ nhận nó là một kế hoạch Ponzi, th́ nó là ǵ?
Trung Quốc..
Và những người đầu tư vào nó?
Họ hoặc là đồng lơa hoặc là nạn nhân. Dĩ nhiên, những kẻ lừa đảo -
những kẻ đồng lơa - dùng thuật ngữ khác cho các nạn nhân. Họ gọi các
nạn nhân là các đích nhắm.
Hay những tên ngốc.
***
THÊM MỘT SỰ KHÁC BIỆT CHÓNG MẶT giữa thị trường tài chính Trung Quốc
và các thị trường phương Tây - một lần nữa nhấn mạnh sự thiếu vắng
thương mại tự do tồn tại ở Bắc Kinh và bản chất Ponzi đầy thủ đoạn
của con quái vật - liên quan đến thói quen áp dụng luật lệ chọn lọc
của Trung Quốc. Ở Hoa Kỳ, nếu IBM phát hành trái phiếu trên thị
trường vốn, số tiền đó thuộc về IBM, và các nhà đầu tư nên tin tưởng
khá chắc chắn rằng số tiền huy động sẽ được dùng để cải tiến công
ty. Dù sao, đă có một ban giám đốc và một tổng giám đốc với những
trách nhiệm ủy thác để bảo đảm công ty đạt được những mục tiêu của
ḿnh. Ở Trung Quốc, khoản vốn mới sẽ hướng đến nơi nào mà ĐCSTQ muốn
nó đến - lần nữa, một điều mà chúng tôi sẽ xem xét chi tiết hơn khi
đi sâu vào những ám ảnh về công nghệ của Trung Quốc.
Nuôi béo kế hoạch Ponzi của Trung Quốc bằng đầu tư của Mỹ cũng tạo
ra thứ rủi ro ba cạnh. Ngành công nghiệp tài chính không chỉ tài trợ
cho sự tăng trưởng của đối thủ toàn trị số một của Hoa Kỳ và có nguy
cơ đánh mất những khoản tiền đó bằng cách biến chúng thành vốn không
thể hoán đổi; mà nó c̣n đang làm cạn kiệt nguồn đô la đầu tư giá trị
ở Hoa Kỳ và các thị trường khác. Nếu quỹ hưu trí của bạn có ngân
khoản đô la bị mắc kẹt ở Trung Quốc mà không thể chạm đến, th́ các
quỹ đó không thể được tái đầu tư để tái thiết cơ sở hạ tầng đổ nát
của nước Mỹ, tài trợ cho các công ty khởi nghiệp tiên phong, hoặc hỗ
trợ những ngành sản xuất vừa được tái khởi động.. Lợi nhuận của Phố
Wall có thể tăng trưởng - tạm thời - nhưng nước Mỹ gặp tŕ trệ.
Là nhà sáng lập một quỹ đối trọng tập trung vào đầu tư toàn cầu dựa
trên các sự kiện, Kyle Bass dành nhiều thời gian để nghiên cứu bảng
cân đối kế toán của Trung Quốc. Ông xác nhận sự đánh giá của Bannon
về sự bất ổn của Trung Quốc.
Trong buổi nói chuyện của chúng tôi hồi đầu tháng 1 năm 2019, Bass
giải mă các con số của Trung Quốc và mô tả một hệ thống kinh tế khép
kín tận dụng đ̣n bẩy vốn quá mức một cách nguy hiểm theo những cách
thức khiến cho Hoa Kỳ trông như là một pháo đài của chính sách tài
khóa chặt chẽ, có trách nhiệm.
Kỳ lạ thay, theo Bass, chiến lược tín dụng của Trung Quốc đi ngược
lại hoàn toàn với cách lập chiến lược dài hạn điển h́nh của ĐCSTQ.
Nhưng có lẽ điều này có ư nghĩa khi ta xét rằng nước này cần tiền
mặt nhanh chóng để triển khai ráo riết các yếu tố của cuộc chơi dài
hạn của họ.
“Cách mà họ đạt được sự ổn định tương đối trên sân nhà là, họ đă mở
rộng bảng cân đối của ngân hàng trung ương và in thêm nhiều nhân dân
tệ hơn bất cứ quốc gia nào từng in tiền trong lịch sử loài người,”
Bass nói..
Khi Bass so sánh thực trạng tài khóa đă làm sụp đổ thị trường Hoa Kỳ
năm 2008 với t́nh trạng hiện thời của nền tài chính Trung Quốc, ông
rùng ḿnh.
“Ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính,” ông nói, “Hoa Kỳ có GDP
khoảng 17 ngh́n tỷ đô la và khoảng 1,3 lần GDP trong tài sản ngân
hàng. Và chúng ta có khoảng một ngh́n tỷ vốn cổ phần ngân hàng. Khi
bạn nh́n vào Trung Quốc ngày nay, họ có một hệ thống ngân hàng với
số nhân dân tệ trị giá 50 ngh́n tỷ đô la, 2 ngh́n tỷ đô la vốn cổ
phần ngân hàng, và nền kinh tế (GDP) là 13 ngh́n tỷ đô la.”
Bass đưa ra các con số của ḿnh dựa trên dữ liệu từ Ngân hàng Nhân
dân Trung Quốc, ngân hàng trung ương quốc gia và các cơ quan khác,
và ông cũng bao gồm những tài sản như sản phẩm quản trị tài sản,
quyền của người thừa kế và những khoản vay tín thác. Ông ước tính
tổng tín dụng của Trung Quốc là 48 ngh́n tỷ đô la, gần gấp bốn lần
tổng sản lượng quốc nội. Để so sánh, Hoa Kỳ nắm giữ khoảng 24 ngh́n
tỷ đô la tín dụng vào năm 2019, nhưng nền kinh tế nước này lớn hơn
Trung Quốc 37%.
Nói cách khác, Trung Quốc có số tiền lưu thông nhiều gấp ba lần Hoa
Kỳ, trong khi tạo ra GDP ít hơn 4 ngh́n tỷ đô la. Ngay cả khi có gấp
đôi số vốn cổ phần ngân hàng của Hoa Kỳ - nhờ kết quả thu nhập dương
từ năm 2001 đến 2015 – các con số đó vẫn đáng sợ. Lư thuyết kinh tế
và các quy luật cung cầu cho rằng việc in những khối lượng tiền
khổng lồ sẽ tự động dẫn đến lạm phát đáng kể. Nhưng cho đến nay,
Trung Quốc vẫn tránh hạ giá nội tệ bằng cách từ chối tham gia thị
trường ngoại hối.
Họ cũng kiểm soát truyền thông, bảo đảm không có tin tức ǵ về t́nh
trạng thiếu hụt hoặc lạm phát hoặc bong bóng nhà ở. Và họ kiểm soát
điểm tín nhiệm xă hội - một hệ thống mới được thiết đặt để theo dơi
hành vi của công dân bằng cách sử dụng công nghệ nhận dạng khuôn mặt
và giám sát dữ liệu để theo dơi xem từng cá nhân có tuân theo những
luật lệ do ĐCSTQ đề ra hay không. Hệ thống mới này tồn tại như một
cách kiểm soát và tưởng thưởng dân chúng. Và như thế, hệ thống kinh
tế khép kín của đất nước và sự đàn áp toàn trị cùng nhau hoạt động
để ngăn chặn lạm phát và củng cố sự ổn định một cách giả tạo.
Địa ốc ảo.
Một ví dụ ư nghĩa về sự thao túng thị trường của Trung Quốc là cách
họ đối phó với một thị trường bất động sản mà nhiều chuyên gia tin
là phải đang sụp đổ. Toàn bộ những thành phố ma đă được dựng lên,
chứa đầy những ṭa chúng cư cao tầng không có lấy một bóng người.
Theo nhiều ước tính, sự thặng dư xây dựng này đă tạo ra hơn 64 triệu
căn hộ trống. Thông thường, khi có một sự thặng dư bất động sản, giá
cả liền sụt giảm. Thế th́ Trung Quốc làm cách nào đảo lộn được quy
luật cung cầu? “Chỉ cần ngăn chặn việc bán nhà,” Bass giải thích.
Ông lưu ư rằng một căn hộ được mua với giá 100.000 nhân dân tệ vẫn
nằm trên bảng cân đối kế toán ở mức giá đó - ngay cả khi những lời
chào mua duy nhất chỉ đưa ra cái giá bằng một nửa.
Thị trường thế chấp cũng dễ nhào nặn trong tay ĐCSTQ. “Một trong
những lư do lớn khiến bạn không nh́n thấy sự sụp đổ nhà ở ngay bây
giờ là v́ họ không thực sự có thuế bất động sản,” Bass nói. Tại Hoa
Kỳ, một nhà đầu tư gánh mười căn hộ bỏ trống sẽ phải trả thuế bất
động sản cũng như phải trả mọi khoản tiền vay mua nhà. Nhưng ở Trung
Quốc, các ngân hàng cho phép người trễ trả tiền vay chỉ cần cộng dồn
vào tổng số tiền vay và xem như đó là tổng số mới. Trong những
trường hợp này, nó trở thành một “khoản vay tiếp,” Bass giải thích.
“V́ vậy giả sử nếu bạn nợ 4.000 đô la trên khoản vay 100.000 đô la
mà bạn không có tiền trả, ngân hàng sẽ chỉ biến khoản vay của bạn
thành 104.000 đô la, và nói, ‘Trả cho chúng tôi khi nào quư vị có
thể.’”
Bass nói cách làm này đă truyền cảm hứng cho một câu nói trong khắp
công ty của ông: “Một khoản vay tiếp chẳng tạo ra mất mát nào.”
Kẻ cướp, hàng nhái và bệnh mù.
Câu chuyện về triệu phú tự thân A. J. Khubani là giấc mơ Mỹ bơm
thuốc kích thích. Nhưng chương mới nhất trong câu chuyện của ông là
cơn ác mộng điển h́nh mà nhiều nhà sản xuất Mỹ đă gặp phải trong
suốt 30 năm qua. Thái độ coi thường luật pháp quốc tế trắng trợn của
Trung Quốc hiện đang đe dọa doanh nghiệp mà ông đă xây dựng từ hai
bàn tay trắng.
Cha mẹ Khubani di cư đến Hoa Kỳ từ Ấn Độ vào năm 1959. Đồng hóa là
chính sách gia đ́nh. “Gia đ́nh tôi hết sức yêu chuộng văn hóa Mỹ,
chúng tôi không được phép nói tiếng nước ngoài trong nhà,” ông nói.
A.J. là một đứa trẻ cần cù. Lớn lên ở Lincoln Park, bang New Jersey,
cậu t́m cách kiếm tiền bằng cách xúc tuyết, cắt cỏ và giao báo. Cậu
làm việc trong suốt thời gian theo học tại trường đại học tiểu bang,
như làm pizza và trông quầy rượu. Đến khi tốt nghiệp, cậu có 20.000
đô la tiền tiết kiệm. Cậu dành số tiền tiết kiệm của ḿnh để nhập
cảng hàng loạt đầu máy phát thanh AM/FM, lấy ra một tờ quảng cáo
trên một tờ báo lá cải, và số phận của cậu thay đổi hoàn toàn kể từ
đó.
Để tóm tắt câu chuyện, Khubani đă dồn 20.000 đô la của ḿnh vào một
công ty - TeleBrands - chuyên thiết kế, phát triển, và cấp phép khai
thác thương mại cho các sản phẩm tiêu dùng độc đáo thường được bán
dưới thương hiệu “As Seen on TV” [tạm dịch: “Như được thấy trên
TV”]. Công ty này đă tạo ra doanh thu hơn 1 tỷ đô la hàng năm trong
một số năm.
Khubani có một giác quan thứ sáu đối với những sản phẩm giải quyết
vấn đề - cầu thang mini giúp thú cưng già và thừa cân đi lại trong
nhà, kính lúp Big Vision, ăng ten truyền h́nh kỹ thuật số cho người
không muốn thuê truyền h́nh cáp - và những vật gia dụng lư thú như
Star Show, chiếu những ngôi sao bằng tia laser lên ngôi nhà của bạn
trong những ngày lễ. Nhưng ông cũng biết cách tạo ra thị trường.
“Những sản phẩm của chúng tôi trở thành phổ biến rất nhanh chóng,”
Khubani nói, “nhờ hàng triệu đô la chúng tôi bỏ ra để quảng cáo.
Chúng tôi tiếp thị chúng trong nhiều năm, chủ yếu qua truyền h́nh.
Sau đó chúng tôi bắt đầu bán cho các chuỗi bán lẻ như Walmart,
Target, Walgreens. Tất cả các nhà bán lẻ lớn trên toàn quốc.”
Trong thập niên 1990, Khubani nhận ra công ty của ḿnh đă trở thành
một mục tiêu của bọn làm hàng giả Trung Quốc: “Đi vào một chợ trời,
bạn sẽ t́m thấy hàng giả của các sản phẩm của chúng tôi. Mọi thứ đều
y hệt, bao b́ y hệt, thương hiệu y hệt.”
Công ty của ông đă bỏ ra khá nhiều nỗ lực trong việc săn lùng và
đóng cửa các nhà kho chứa đầy hàng giả. “Giống như một tṛ chơi đập
chuột không bao giờ kết thúc, hễ bạn đập được một con th́ có mười
con khác bật lên.”
Tuy nhiên, với sự phát triển của internet, vấn nạn hàng giả đă tăng
lên theo cấp số nhân. “Năm 2015, chúng tôi bắt đầu nhận thấy hàng
giả sản phẩm của chúng tôi xuất hiện trên Amazon dưới nhăn hiệu của
chúng tôi, sản phẩm được cấp bằng sáng chế của chúng tôi, sử dụng
ảnh của chúng tôi, sử dụng video của chúng tôi, sử dụng lời giới
thiệu của chúng tôi, sử dụng mọi thứ.”
Có hàng trăm danh mục cho những món hàng giả thương hiệu “As Seen on
TV,” và thường chúng được bán với giá chỉ bằng nửa giá của
TeleBrands hoặc thấp hơn. Khubani đă nhấp chuột vào các mục có giá
thấp và khám phá ra phần lớn các danh mục này là của những người bán
ở Trung Quốc.. Không c̣n ǵ để ngạc nhiên khi ông nh́n thấy doanh số
của ḿnh sụt giảm.
Amazon có hai cách bán sản phẩm cho người tiêu dùng. Một là thỏa
thuận bán lẻ truyền thống mà Amazon gọi là Vendor Central [tạm dịch
nghĩa: “Nhà cung cấp giữ vai tṛ trung tâm”]. Công ty mua sản phẩm
trực tiếp từ một nhà cung cấp, cũng giống như mua từ bất cứ cửa hàng
nào trên phố.. Kênh bán hàng thứ hai được gọi là Amazon Marketplace
[tạm dịch nghĩa: “Khu rao hàng Amazon”] hoặc, mới đây hơn, là Seller
Central [tạm dịch nghĩa: “Người bán giữ vai tṛ trung tâm”]. Chủ yếu
đây là một chợ trời kỹ thuật số rộng lớn, nơi bất cứ ai có một
trương mục thư điện tử và một trương mục ngân hàng đều có thể liệt
kê và bán hàng hóa của họ. Amazon hoạt động như một trung gian tương
tự như eBay, lấy 15% huê hồng cho mỗi thương vụ.
Theo như các thiết kế trang của Amazon cho thấy, rơ ràng họ không
thực sự quan tâm liệu họ đang bán một sản phẩm mới qua phương pháp
bán hàng truyền thống Nhà Cung cấp hay phương pháp Người Bán - bởi
v́ họ có thể trưng bày sản phẩm của Nhà Cung cấp, nhưng đồng thời
cũng giới thiệu các đường dẫn đến những Người Bán trên cùng một
trang, bao gồm việc liệt kê các món hàng ở mức giá thấp nhất.
Nhưng Amazon không theo dơi từng món trong hàng triệu danh mục trên
trang nhà của họ để xem chúng có phải là hàng giả hay không. Họ đùn
đẩy trách nhiệm này cho những người bán. Đây là chính sách của công
ty mà tất cả người bán phải chấp nhận:
Đại diện và Bảo hành. Bạn đại diện và bảo đảm rằng: (a) Dịch vụ của
bạn và tất cả các khía cạnh của việc chào bán, bán, và công dụng của
chúng sẽ tuân thủ tất cả các luật lệ hiện hành, bao gồm mọi yêu cầu
thích hợp về cấp phép, ghi danh, hoặc đệ nạp hồ sơ....
Khi TeleBrands khiếu nại với Amazon là có hàng ngàn danh mục người
bán bất hợp pháp, Khubani cho biết công ty của ông được thông báo,
“Chúng tôi không có cách nào để xác minh rằng đây là những mặt hàng
bất hợp pháp. Ông cần phải làm sạch nơi rao bán của ḿnh. Chúng tôi
không có trách nhiệm kiểm tra xem những người bán có liệt kê hàng
giả hay không. Ông cần phải tự truy lùng những kẻ giả mạo này.”
Bực ḿnh, đội ngũ của Khubani đă hỏi tên và thông tin liên lạc của
những người bán đang liệt kê hàng giả, để họ có thể truy lùng bọn
này. Họ được thông báo, “Điều đó trái với chính sách của chúng tôi.
Chúng tôi không thể chỉ rơ họ là ai.”
Đă đành cuộc trao đổi ấy tạo ra bực bội, có hai thực tế khác khiến
Khubani cảm thấy c̣n tức giận và bất lực hơn nữa. Đầu tiên là ngay
cả khi ông có thể xác định được những người bán, ông không có ngả
đường pháp lư nào ở Trung Quốc - chính phủ ở đó đă tuyên bố rơ ràng
từ ba thập niên qua rằng họ sẽ không ngăn chặn hàng giả được sản
xuất hoặc xuất cảng. Nhưng thực tế thứ hai liên quan đến Amazon và
chính phủ Hoa Kỳ.
Amazon là một công ty vận chuyển tuyệt vời. Họ phải như vậy: hiệu
năng tạo thêm lợi nhuận cho họ. Nếu họ không thể vận chuyển sản phẩm
nhanh chóng với chi phí thấp nhất có thể, lợi nhuận của họ sẽ giảm.
V́ vậy, họ t́m cách tối ưu hóa việc chuyển hàng cho chính họ và các
người bán nhằm cung cấp một trải nghiệm tuyệt vời cho khách hàng.
Một cách để thực hiện điều này là với một dịch vụ mang tên
Fulfillment by Amazon [tạm dịch nghĩa: “Hoàn tất thương vụ bởi
Amazon”]. Người bán gửi hàng đến các trung tâm hoàn tất thương vụ
của Amazon và trả tiền cho việc lưu trữ và hoàn tất thương vụ của
từng mặt hàng. Amazon đă mở một số trung tâm hoàn tất thương vụ ở
Trung Quốc. Trong trường hợp của Khubani, sự hiện hữu của những
trung tâm này có nghĩa là Amazon về cơ bản đang tiếp tay cho hàng
lậu và hàng giả - dựa trên những sản phẩm mà ông đă đầu tư hàng trăm
triệu đô la để phát triển, xin cấp bằng sáng chế, và tiếp thị - đi
đến tay người tiêu dùng và phá hủy doanh nghiệp của ông.
“Mọi người đều nghĩ Amazon là công ty tuyệt vời này của Mỹ,” Khubani
nói, đồng thời lưu ư rằng Amazon quả thật đă bắt đầu loại bỏ những
người bán giả mạo sau khi Thượng nghị sĩ Cory Booker từ bang New
Jersey thay mặt ông gọi điện thoại vào Amazon. “Nhưng một phần lư do
giúp họ kiếm được tiền là v́ họ đang trợ giúp và khuyến khích việc
bán các sản phẩm giả. Và không ai biết điều này.”
Nhưng Amazon không phải là tác nhân duy nhất giúp bọn kẻ cướp chuyên
săn mồi này làm ăn phát đạt. Một đối tác thiện chí nhưng có lẽ vô
t́nh đă biến việc vận chuyển hàng hóa bất hợp pháp từ Trung Quốc trở
nên vô cùng hiệu quả về chi phí: Cơ quan Bưu chính Hoa Kỳ. Liên minh
Bưu chính Quốc tế (UPU), thành lập năm 1874, ấn định mức phí chuyển
phát thư cho các bưu cục quốc gia tại 192 nước. Theo một điều khoản
năm 1969 nhằm giúp các nền kinh tế đang gặp khó khăn, Cơ quan Bưu
chính Hoa Kỳ đă đồng ư với một mức giảm giá khổng lồ cho những bưu
kiện gửi ra từ Trung Quốc có trọng lượng dưới 4,4 cân Anh. Mức giảm
giá này lớn đến đâu? Đủ lớn để cơ quan bưu chính nói họ đang lỗ 170
triệu đô la mỗi năm cho thỏa thuận này.
Một ví dụ: sẽ tốn nhiều tiền hơn để gửi một bưu kiện nặng ba cân Anh
đi một chặng đường dài 2,3 dặm từ số 1600 Đại lộ Pennsylvania [địa
chỉ Ṭa Bạch Ốc] ở Washington, DC, đến Điện Capitol [tức ṭa nhà
Quốc Hội] so với gửi cùng một bưu kiện đi 6.925 dặm từ Bắc Kinh tới
Ṭa Bạch Ốc.
Khubani kinh hăi. Chính phủ Hoa Kỳ đang bao cấp cho những chuyến
hàng lậu vốn làm xói ṃn lợi nhuận của công ty ông và đe dọa sự ổn
định của nó. Và ông bó tay trước sự thể này.
“Mỗi một nhà sản xuất hàng tiêu dùng khác mà tôi tiếp xúc đều đang
đối diện với vấn nạn khổng lồ này,” ông nói.
Và đây không chỉ là một vấn đề của Amazon. Yair Reiner là nhà sáng
chế có trụ sở tại Brooklyn của rào ngăn dầu văng Frywall - một vật
h́nh trụ bằng silicone màu sắc rực rỡ được thiết kế để đặt bên trong
một cái chảo nhằm ngăn chặn dầu mỡ sôi sùng sục khỏi văng ra khắp
nơi. Doanh thu của sản phẩm này bùng nổ sau khi Reiner xuất hiện
trên chương tŕnh truyền h́nh Today và làm kinh ngạc các ngôi sao
của Shark Tank, nơi chiếc Frywall mẫu của ông đă dấy lên một cuộc
chiến đấu thầu giữa các doanh nhân của chương tŕnh. Tuy nhiên,
thành công này kéo theo lũ hàng giả đến từ Trung Quốc.
Buôn lậu trên Amazon chỉ là vấn đề nhẹ nhất đối với Reiner. Trên
thực tế, ông đă xác định Amazon là kênh mang về lợi nhuận cao nhất
cho công ty ông, vượt xa mọi phương tiện phân phối khác. Nhưng hàng
nhái Frywall sản xuất tại Trung Quốc - được đặt tên là Frywalls [chỉ
thêm chữ “s”] – đă xuất hiện đầy rẫy trên internet, chẳng hạn như
trong kết quả t́m kiếm của Google, trên eBay, trên các trang mạng cá
nhân được tạo ra chỉ để bán những món hàng giả này.
Reiner, vốn là cựu giám đốc quản trị về nghiên cứu cổ phần tại ngân
hàng đầu tư Oppenheimer & Co., nhận định, “Có đủ mọi loại cơ sở hạ
tầng, một số ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác và một số có trụ
sở ở Trung Quốc, tạo điều kiện cho việc sản xuất, tiếp thị, và phân
phối hàng nhái.”
Nhưng cơn ác mộng của Reiner bắt đầu ở Trung Quốc, nơi các nhà sản
xuất rao bán Frywalls giả trên Alibaba, trang thương mại điện tử
khổng lồ cho phép đặt hàng số lượng lớn - hăy nghĩ về nó như eBay
dành cho các tiệm buôn - và trên AliExpress, hoạt động như
Marketplace của Amazon và nhận đơn đặt hàng đơn lẻ từ nhiều người
bán khác nhau. Những món hàng này thường được rao bán với giá thấp
hơn 25% so với giá mà Reiner đưa ra cho một chiếc Frywall thật.
AliExpress là một điểm đến mua sắm trực tuyến hết sức ăn khách ở
Trung Quốc và nhiều thị trường khác. Nhưng nó vẫn c̣n tương đối vô
danh ở Hoa Kỳ. V́ vậy, việc bán các sản phẩm bất hợp pháp này cho
người tiêu dùng trong nước Mỹ vẫn diễn ra chủ yếu qua Amazon, eBay
và các trang mạng cá nhân.
“Nói một cách cốt yếu, các đại lư này đang quảng cáo một sản phẩm mà
họ chưa bao giờ sở hữu và thực sự tồn kho,” Reiner cho biết. “Khi họ
nhận được một đơn đặt hàng từ Amazon, eBay hoặc một cửa hàng trên
mạng do họ tạo ra vốn cũng cung cấp hàng trăm sản phẩm ‘hơi nước’
khác, họ chuyển nó đến các nhà cung cấp ở AliExpress và yêu cầu gửi
hàng trực tiếp từ Trung Quốc đến người tiêu dùng ở Hoa Kỳ. Và họ có
thể thực hiện việc này một cách liền mạch, bởi v́ có những công cụ
cho phép họ căn bản là mang danh mục eBay hoặc Amazon của họ hoặc
một trang mạng do họ tạo ra bằng Shopify kết nối trực tiếp với một
nhà cung cấp ở AliExpress.”
Trong khi Reiner tin rằng nhiều danh mục được tạo ra bởi nhà sản
xuất Trung Quốc, thực tế là bất cứ ai ở bất cứ nơi đâu trên thế giới
cũng có thể tạo ra một danh mục và thực hiện được một thương vụ mà
không bao giờ sở hữu món hàng lậu sản xuất ở Trung Quốc cũng như
không cần phải bỏ ra một cắc để chứa hàng tồn kho.
Và nếu hàng được gửi từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ, thỏa thuận UPU 1969
bảo đảm chi phí giao hàng sẽ rẻ hơn bất cứ thứ ǵ Reiner có thể cung
cấp từ văn pḥng của ḿnh ở Brooklyn. Ông tin rằng việc chấm dứt bao
cấp chuyển hàng sẽ chấm dứt tổn thất doanh thu trên mạng của ông =
sẽ không ai trả 15 đô la hoặc 20 đô la để gửi một món hàng từ Trung
Quốc khi nó được chuyển với giá 3,99 đô la bên trong Hoa Kỳ.
Về nạn nhập lậu số lượng lớn mặt hàng nhái Frywalls, Reiner không
xem đó là vấn đề. Mô h́nh kinh doanh của người bán hàng qua mạng,
ông nói, “là làm mọi việc mà không thực sự chịu bất cứ rủi ro nào về
tồn kho. Vận chuyển hàng giả với số lượng lớn sẽ làm tăng rủi ro.
Đầu tiên, bạn phải mang nó đến đây, và sau đó hy vọng bạn bán được
nó mà không bị phát giác và hàng giả của bạn không bị thu giữ.”
Reiner ước tính rằng ông và người đứng đầu bộ phận tiếp thị của ông
dành khoảng 5% thời lượng trong tuần để lùng sục các danh mục hàng
giả và liên lạc với Amazon, eBay và Shopify để loại bỏ chúng, cộng
với hàng ngàn đô la tiền tham khảo luật sư. “C̣n có thêm một loại
chi phí tinh thần cho việc này nữa,” ông cho biết. “Chúng tôi là một
cơ sở rất nhỏ, và chúng tôi cảm thấy ḿnh đang phải đánh liên tục
trận đánh ngược dốc này. Chúng tôi đang cố gắng chiến đấu v́ chính
nghĩa. Chúng tôi đổi mới và tạo ra một sản phẩm tuyệt vời và làm hài
ḷng khách hàng và chịu trách nhiệm cho mọi thứ chúng tôi làm. Nhưng
với tất cả mọi việc chúng tôi làm để xây dựng công ty và sản phẩm,
chúng tôi đang bao cấp cho những tên điếm săn mồi này.. V́ vậy, khó
có thể b́nh chân như vại được. Đó là lư do tại sao kết thúc chính
sách bao cấp sẽ là một bước tiến lớn theo đúng hướng.”
Hụt bước cầu tàu
Khoảng hai trăm triệu container vận tải đă đi qua các cảng của Trung
Quốc vào năm 2017, theo tạp chí Journal of Commerce. Loại container
được sử dụng nhiều nhất là 20’, hay đơn vị tương tương hai mươi foot
TEU, với dung tích bên trong khoảng 1.170 foot khối và trọng lượng
tối đa 67.196 cân Anh. Các tàu chở hàng khổng lồ như New-Panamax và
loại tàu thực sự khổng lồ Ultra Large Container Ship - những chiếc
tàu lớn đến nỗi chúng không thể cập vào hầu hết các cảng của Hoa Kỳ
- chở được lần lượt 14.000 và 20.000 TEU. Việc tổ chức để vận chuyển
mọi loại sản phẩm có thể tưởng tượng ra trên trái đất - từ đồ chơi,
muối và chuối đến ḷ phản ứng hạt nhân, dầu và bẫy chuột - đă được
tiêu chuẩn hóa bởi Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO). ISO đă làm
việc với hơn 160 quốc gia để mă hóa các kích thước chấp nhận được
của các container nhằm làm cho việc bốc dỡ hàng hóa càng đồng nhất
và hiệu quả càng tốt.
ISO 9001 là tiêu chuẩn quốc tế cho một hệ thống quản trị phẩm chất
để tuân thủ các quy luật về vận chuyển. Được chứng nhận ISO 9001 có
nghĩa là một công ty đă tuân theo các hướng dẫn của tiêu chuẩn này,
đáp ứng các yêu cầu riêng của họ, đáp ứng các yêu cầu theo luật định
và quy định, và duy tŕ hồ sơ. Các công ty được cấp chứng nhận theo
nhiều phương diện kinh doanh khác nhau - kỹ thuật, sản xuất, v.v. -
sau khi hoàn thành một cuộc kiểm toán chính thức. Có chứng nhận này
được cho là mang lại tính hợp pháp cho công ty: các sản phẩm của họ
an toàn, ổn định, và sẽ không bị vỡ khi mở.
Khoảng 12 triệu TEU được vận chuyển từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ mỗi
năm, tính trung b́nh gần 33.000 container mỗi ngày. Hoa Kỳ chỉ được
phép cử bốn thanh tra vận tải sang làm việc ở Trung Quốc. Nghĩa là
mỗi thanh tra viên sẽ phải kiểm tra khoảng 8.250 container sắp lên
đường tới Hoa Kỳ mỗi ngày. Nhưng tất nhiên điều đó bất khả thi, v́
có ít nhất 20 cảng ở Trung Quốc được sử dụng cho vận tải quốc tế và
không ai trong số bốn thanh tra viên này có thể xuất hiện ở năm nơi
cùng một lúc.
Ngay cả khi Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ có 20 hoặc 2.000 thanh tra
vận tải, các container này vẫn không được xem xét một cách có ư
nghĩa, bởi v́ các thanh tra viên không được phép thực sự kiểm tra
các container. Tất cả những ǵ họ có thể làm là nh́n vào các tờ khai
- nghĩa là, họ nh́n vào danh sách những món hàng các công ty khai là
có chứa trong container. Một container có thể chứa 200 đôi vớ nằm
trên 5.000 cân Anh fentanyl [một chất ma túy tổng hợp], nhưng nếu tờ
khai nói có “20.000 đôi vớ thể thao màu trắng” được một công ty có
chứng nhận ISO 9001 vận chuyển, th́ không cần phải kiểm tra.
Container được bốc xếp lên tàu và chở đi.
ISO 9001 nên được coi là sự chứng nhận tự động gần như vô nghĩa ở
Trung Quốc, không phải là sự xác nhận về phẩm chất tạo thêm sự tin
cậy. Phụ trách 50% số cuộc kiểm toán và xác nhận kết quả là việc của
một công ty thuộc sở hữu của ĐCSTQ, và ĐCSTQ hoàn toàn không muốn
làm chậm các hoạt động sản xuất, bán hàng, hoặc xuất cảng có thể
mang đô la về. Ngoài ra, các kiểm toán viên bị mua chuộc dễ dàng.
C̣n đối với các thanh tra viên Trung Quốc làm việc tại các bến cảng,
thái độ cảnh giác và việc khám phá ra những chuyến hàng chứa những
sản phẩm lậu hoặc không kê khai sẽ bị họ nhăn mặt. Mở một container
và lục soát cần thời gian. Và thời gian là tiền bạc. Các thanh tra
viên có thể bị phạt v́ tŕ hoăn việc bốc xếp và giờ khởi hành của
một chuyến tàu.
Thế cho nên đây là cách nào và tại sao thị trường Mỹ lâu nay tràn
ngập hàng giả. Không có sự kiểm tra lẫn nhau ở Trung Quốc để bảo đảm
kiểm soát phẩm chất. Không có cơ quan bảo vệ người tiêu dùng, không
có cơ quan bảo vệ môi trường, văn pḥng cấp bằng sáng chế hoặc nhăn
hiệu, không có FDA [Cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm] hoặc
IRS, không ai quan tâm đến việc bảo đảm rằng các sản phẩm không gây
hại và rằng có sự bảo vệ bản quyền, khả năng bị truy cứu trách
nhiệm, và sự quản trị tốt. Nếu lốp xe phát nổ, nếu túi khí không mở,
nếu một cảm biến phanh hết hoạt động sau 100 dặm, nếu không thu được
một khoản phí cấp phép, nếu sản phẩm chứa chất độc, th́ có sao đâu?
Các sản phẩm đă biến mất. Thương vụ đă hoàn tất. Kế tiếp!
Gián điệp thương mại 2.0
Những vụ gián điệp thương mại và trộm cắp tài sản trí tuệ hiếm khi
được nói tới.
Nếu một cửa hàng trang sức hoặc một viện bảo tàng bị cướp, cảnh sát
được gọi. Báo chí đưa tin về vụ cướp và nói về giá trị của những ǵ
bị đánh cắp. Nó trở thành một sự kiện có thể định lượng - “vụ trộm
trị giá 2 triệu đô la” hoặc “bức tranh trị giá 10 triệu đô la.” Ai
nấy nói về tội ác tại nơi làm việc, trên Twitter, trên các chương
tŕnh truyền h́nh giờ khuya. Khi nghi phạm được xác định, một cuộc
săn lùng diễn ra.
Nhưng với nạn gián điệp thương mại và trộm cắp tài sản trí tuệ của
các công ty, thường chỉ có sự im lặng. Nếu thực hiện giỏi, một vụ
trộm thương mại là vô h́nh. Nó bao gồm sao chép các tài liệu, bản kế
hoạch kỹ thuật, công thức hóa học, mă máy tính, dữ liệu thô. Nó khác
với đánh cắp một bức Picasso trên tường viện bảo tàng. Tuy nhiên,
hăy tưởng tượng ra việc đánh cắp bức tranh và thay thế nó bằng một
bức tranh giả xuất chúng, giả mạo giỏi đến nỗi phải sau cả năm mới
có một chuyên gia phát giác bản gốc đă biến mất. Loại phản ứng
“chúng ta đă bị trộm” chậm trễ này xảy ra quá thường trong thế giới
doanh nghiệp, nhưng nó cũng là phản ứng bị hăm thanh. Báo cáo vụ
trộm có thể làm giảm niềm tin của nhà đầu tư, làm tổn thương tinh
thần nhân viên công ty, và tiết lộ tin tức cho các đối thủ cạnh
tranh.
Một số công ty kiểm toán và kế toán nổi tiếng – Ernst & Young,
Deloitte, PricewaterhouseCoopers, KPMG - thực hiện các cuộc điều tra
tư nhân về nghi án gián điệp thương mại. Mức độ các cuộc tấn công do
ĐCSTQ tài trợ mà các công ty này t́m thấy dao động từ mức căn bản
nhất - hối lộ nhân viên để sao chép tài liệu, đặt sinh viên vào các
viện nghiên cứu và áp lực để họ đánh cắp - đến những cuộc đột nhập
tinh vi có sự tham gia của nhiều tin tặc và cả những chiến dịch gián
điệp toàn diện.
Năm 2014, chủ tịch một quỹ đối trọng lớn gửi cho tôi một báo cáo
được thuê thực hiện riêng về hoạt động bất hợp pháp của Trung Quốc
trong các tập đoàn Mỹ. Bản báo cáo gây choáng về phạm vi và chi
tiết. Và thông tin chứa trong đó đă làm lung lay thế giới quan của
tôi đến tận nền tảng.
Những trang minh họa gây lo ngại nhiều nhất mô tả một cuộc tấn công
để giành quyền kiểm soát công nghệ độc quyền mà một công ty đang lên
đă phát triển. Phương pháp tấn công khiến tôi nhớ đến sự tinh vi của
một chiến dịch không kích. Nó được đạo diễn một cách hoàn hảo để
đánh lạc hướng một cách tinh tế và khai thông mục tiêu cho cuộc tấn
công chớp nhoáng. Chiến dịch này nêu bật nguồn lực khổng lồ mà ĐCSTQ
sẵn sàng dành ra để phá hoại các đối thủ kinh doanh hầu giành quyền
kiểm soát thứ công nghệ họ muốn theo đuổi. Sau đây là những ǵ đă
xảy ra.
Một công ty hóa chất Mỹ, sở hữu bởi một công ty cổ phần tư nhân, đă
được cấp bằng sáng chế cho một công nghệ xanh đột phá và đang phát
triển với tốc độ ổn định. Chủ nhân của nó bắt đầu phát triển một kế
hoạch 5 năm để bán cổ phần ra công chúng.
Nhưng đột nhiên, công ty bắt đầu không bắt kịp các mục tiêu thu nhập
của ḿnh. Vấn đề dường như nằm trong khâu bán hàng - số đơn đặt hàng
sụt giảm - và trong khâu hậu cần, bộ phận phụ trách ḍng chảy của
các sản phẩm. Người phụ trách khâu bán hàng bị sa thải, nhưng hiện
tượng mất máu tiếp diễn. Các chủ nhân họp với đội ngũ lănh đạo và
cảnh cáo họ phải khắc phục các vấn đề, bởi v́ những bước hụt liên
tiếp sẽ đe dọa kế hoạch IPO. Không lâu sau đó, công ty nhận được một
lời chào mua không chờ đợi từ một công ty Trung Quốc. Lời chào mua
khiến các chủ nhân bị sốc - giá chào mua thấp hơn 30% so với giá trị
mà công ty đáng có, nếu không đuổi hụt các mục tiêu thu nhập. Ban
quản trị th́ choáng váng: Làm cách nào mà phía chào mua đưa ra được
một sự định giá chính xác như vậy mà không nắm dữ liệu của công ty?
Có vẻ như họ đă biết rơ những tổn thất mới đây.
Các chủ nhân bèn thuê người điều tra. Họ khám phá ra không chỉ công
ty hóa chất đă bị tin tặc tấn công, mà cả công ty cổ phần tư nhân sở
hữu nó cũng bị. Bọn tin tặc nắm được các mục tiêu thu nhập của công
ty và những lằn ranh đỏ được xem là không thể chấp nhận được đối với
các chủ nhân.
Vụ phá hoại đạt mức độ sáng chói, xét trên b́nh diện chuyên môn của
nghề gián điệp. Các máy chủ điện thư đă bị tấn công có chọn lọc, để
mỗi khi công ty gửi thư chào mua ra ngoài, bọn tin tặc sẽ xóa thư
trước khi thư được gửi đi. Tương tự, khi đơn đặt hàng gửi vào, một
số đă không bao giờ vào tới hộp thư của đội ngũ bán hàng - v́ bọn
tin tặc đă chặn thư. Sự phá hoại có chọn lọc này vừa đủ để phương
hại doanh thu nhưng chưa đủ để dẫn đến một cuộc điều tra.
Trong khi đó, bọn tin tặc cũng phá hoại khâu hậu cần ở sân sau. Khi
một đơn đặt hàng gửi vào mua, giả dụ như: 1.000 đơn vị, bọn tin tặc
sẽ thay đổi số lượng thành 900. Khi sự thiếu hụt được khám phá ra -
thường là sau khi đợt hàng đă được gửi ra hoặc sắp được gửi ra - một
đơn đặt hàng thêm sẽ được tạo ra. Chi tiết tế nhị này tạo thêm phí
tổn cho các khâu lao động, giao hàng, v.v. và tác động đến lợi
nhuận.
Một điệp vụ táo bạo. Tinh tế, gần như không thể nào nhận ra. Thực
thể duy nhất có những nguồn lực và tŕnh độ để tiến hành một âm mưu
phức tạp như thế hẳn phải là nhà nước.
Quỷ kế này kết tinh mức độ chiến tranh kinh tế mà Trung Quốc đang
tiến hành. Nó không chỉ là trộm cắp - sao chép tài liệu của một công
ty tương đương với đập phá và trộm hàng hóa trong một cửa tiệm. Đây
là một vụ lừa đảo chiến lược trên nhiều cấp độ. Tại một thời điểm,
ĐCSTQ đă đặt ra chính sách công nghiệp và đưa công nghệ xanh lên
hàng ưu tiên. Một khi đă xác định được đích nhắm là công ty hóa chất
mới khởi nghiệp của Hoa Kỳ, một người nào đó đă khởi xướng một chiến
dịch đ̣i hỏi cả kế hoạch t́nh báo, hoạt động tin tặc của Quân đội
Giải phóng Nhân dân, và sự giám sát cũng như phân tích do một doanh
nghiệp quốc doanh phụ trách. Mục tiêu là phá hoại và hạ giá một công
ty Mỹ để mua nó với giá thấp hơn thị trường, hầu thủ đắc công nghệ
mà ĐCSTQ coi là quan trọng. Đó không là ǵ khác hơn một cuộc tấn
công được chính quyền cho phép nhằm vào một công ty Mỹ.
Khi tôi tham gia Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, vào năm 2014,
tôi chia sẻ báo cáo này với gần như mọi người tôi gặp tại Ngũ Giác
Đài. Phản ứng lúc nào cũng như nhau: “Chúa ơi, điều này thật kinh
khủng!” Sau đó, họ sẽ nói, “Đó không phải là công việc của tôi.” Và
tất nhiên, về mặt giữ đúng nhiệm vụ truyền thống của quân đội, thái
độ đó hoàn toàn hợp lư. Công việc của quân đội là lên kế hoạch chiến
đấu, chuẩn bị cho cuộc chiến, tiến hành cuộc chiến, hoặc duy tŕ
trật tự. C̣n việc bảo vệ các công ty Mỹ? Chẳng liên quan ǵ tới
chúng tôi!
Nhưng với tôi, đây là hành động chiến tranh rơ rệt. Đây là sự thù
địch, là hành vi săn mồi, vi phạm luật pháp quốc tế. Và nó nhằm mục
đích làm tổn hại quốc gia của chúng ta.
Tôi đă đến Bộ Tài chính và Bộ Thương mại. Tôi đă gặp giới chức Bộ
Ngoại giao. Tôi nhận được một câu trả lời chung hết sức khôi hài:
“Trung Quốc không phải là đối thủ của chúng ta, họ là bạn của chúng
ta. Chúng ta hợp tác với họ.” Tôi nh́n họ và nghĩ, “Nhưng tôi vừa
cho quư vị xem những nghiên cứu chứng minh rằng họ không phải là bạn
của chúng ta.”
Tôi đi đến kết luận là sẽ không ai làm bất cứ một điều ǵ đối với
vấn nạn gián điệp thương mại và chiến tranh kinh tế của Trung Quốc.
Đó là đề tài nhạy cảm, và không ai muốn chạm vào nó. Cuối cùng tôi
t́m thấy một đồng minh trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Tôi
không muốn nêu tên ông, nhưng tôi coi ông như một vị anh hùng. Không
như nhiều sĩ quan cao cấp khác, ông hiểu rằng chiến tranh kinh tế,
trên thực tế, chính là chiến tranh và quân đội có nhiệm vụ bảo vệ
những biên thùy mới. Và ông cho phép tôi tiếp tục nghiên cứu những
hoạt động kinh tế thù địch của Trung Quốc và phát triển chiến lược
để ứng phó với các vấn đề.
Khi tôi nói với mọi người về công việc tôi đang làm, phản ứng thường
gặp là một câu hỏi đầy nghi ngờ: “Tại sao anh lại để mắt tới điều
này?”
Câu trả lời của tôi: “V́ không ai khác để mắt tới.”
Khuynh đảo thương trường
Phá hoại và gián điệp chỉ là hai cách để làm đảo lộn một thị trường.
ĐCSTQ cũng dựa vào nhiều chiến lược khác để kiểm soát và chiếm lĩnh
thị trường, từ hạ giá nuốt trửng thị trường và nhử món này bán kèm
món nọ đến bắt nạt kiểu truyền thống.
Hăy bắt đầu với việc bắt nạt. Trung Quốc là nhà sản xuất hải sản
hàng đầu thế giới, tạo ra gần bảy mươi triệu tấn trong năm 2017. Họ
sử dụng khoảng một triệu người trong ngành công nghiệp cá đông lạnh,
cũng lớn nhất thế giới. Xuất cảng thủy sản Trung Quốc lên tới 19,3
tỷ đô la trong năm 2016.
Đáng chú ư là cá hoang dă đánh bắt trong các vùng biển của Trung
Quốc trong chín tháng đầu năm 2017 đă giảm 11,9%, nhưng theo Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ, cá đánh bắt ở vùng biển của các nước khác tăng 14,2%
so với năm trước đó.
Nói cách khác, Trung Quốc, nước chiếm hơn 60% sản lượng hải sản nuôi
trồng toàn cầu, không thể duy tŕ sản lượng hải sản hoang dă bằng
cách dựa vào sản phẩm khai thác từ vùng biển ven bờ của ḿnh. Thế
th́ họ làm ǵ? Họ phái các tàu đánh cá của ḿnh đi khắp thế giới để
càn quét các vùng biển ven bờ của các quốc gia yếu hơn, thường xuyên
xâm lấn các quốc gia không có hải quân mạnh hay thậm chí không có
một lực lượng hải quân nào.
Cần xác định rơ, việc đánh bắt cá trong vùng biển quốc tế là hoàn
toàn hợp pháp. Tuy nhiên, việc khai thác sự giàu có, chẳng hạn, của
quần đảo Galapagos thuộc Ecuador - nơi, vào tháng 8 năm 2017, hai
mươi ngư dân Trung Quốc bị phát hiện với một mẻ đánh bắt gồm 6.600
con cá mập - là vi phạm luật pháp quốc tế. Theo Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật Biển, các vùng đặc quyền kinh tế để đánh bắt cá trải
rộng 200 hải lư từ bờ biển của một quốc gia.
Ở Nam Mỹ, tàu Trung Quốc bị bắt gặp đánh cá trong các vùng biển
Argentina, Chile, Peru và nhiều quốc gia khác. Vào tháng 3 năm 2016,
lực lượng tuần duyên Argentina phát giác một tàu Trung Quốc, chiếc
Lu Yan Yuan Yu, đánh cá trong vùng biển của họ và bắn một phát súng
cảnh cáo để ngăn chặn.. Tàu Lu Yan Yuan Yu đă thử đâm vào tàu
Argentina nhưng hành động này phản tác dụng; phía Argentina nổ súng,
và tàu cá ch́m. Ngày nay, nhiều tàu cá Trung Quốc biết tự trang bị
những bộ phận đệm có thể dùng để đâm vào tàu khác và ngăn các tàu
khác tới gần.
Trong khi Trung Quốc tuyên bố họ đang giám sát gắt gao t́nh h́nh,
các tàu cá Trung Quốc vẫn được thấy xuất hiện ở xa tận Nam Phi.
Chèn ép những quốc gia nhỏ hơn để đánh cắp tài nguyên thiên nhiên
của họ là một chiến thuật.. Cung cấp những thỏa thuận phát triển hào
phóng bên trong ẩn chứa những điều khoản cắt cổ là một chiến thuật
khác. Trung Quốc hiện đang trong tiến tŕnh triển khai sáng kiến cơ
sở hạ tầng toàn cầu Vành đai và Con đường trị giá nhiều tỷ đô la để
thống trị ngành vận tải hàng hóa trên khắp hành tinh. Chúng ta sẽ
t́m hiểu sâu hơn về ư nghĩa và mục đích của Vành đai và Con đường
trong một chương sau, nhưng do chúng ta đang đề cập đến vấn đề kiểm
soát thị trường, có hai điều đáng lưu ư: kiểm soát vận tải là một
phương pháp nắm huyết mạch của ḍng chảy thương mại, và xây dựng cơ
sở hạ tầng cho các quốc gia đang gặp khó khăn về kinh tế là một diệu
kế để giành lấy đ̣n bẩy kinh tế tại các quốc gia mà bạn được cho là
“đang giúp đỡ.” Các sáng kiến này, theo một nghĩa nào đó, chính là
nợ và bẫy tiếp cập thị trường.
Một ví dụ mới đây về cách Trung Quốc phù phép biến một cuộc “viện
trợ nước ngoài hữu ích” thành ra sự “kiểm soát” là dự án cảng
Hambantota khổng lồ ở Sri Lanka. Đây là một quốc gia bị chiến tranh
tàn phá không nằm cao trong danh sách đối tác thương mại của bất cứ
nước nào trong nhiều thập niên. Nhưng trong giai đoạn mười năm Tổng
thống Sri Lanka Mahinda Rajapaksa tại vị, công ty quốc doanh China
Harbor Engineering Company đă đạt được những thỏa thuận khổng lồ về
hiện kim và tín dụng để xây dựng cảng nước sâu trị giá nhiều tỷ đô
la ở cực nam của ḥn đảo.
Rajapaksa thất cử tổng thống năm 2015, để lại cho các lănh đạo mới
một núi nợ từ các thỏa thuận của ông với Trung Quốc. Và Trung Quốc,
hành động giống như một kẻ cho vay nặng lăi hơn là một đồng minh
nhân từ, đă từ chối giảm nhẹ các điều khoản đă được đàm phán. Năm
2017, chính phủ Sri Lanka đành bàn giao quyền kiểm soát cảng
Hambantota và 15 ngàn mẫu đất xung quanh cảng trong 99 năm.
Trung Quốc giờ đây có một cảng vừa sát sườn vừa đi ṿng qua Ấn Độ,
đối thủ cạnh tranh sản xuất lớn nhất của ḿnh. Và trong khi hợp đồng
thuê Hambantota cấm Trung Quốc sử dụng cảng cho các mục đích hải
quân, có mối lo ngại đáng kể là họ sẽ cố gắng đàm phán các điều
khoản đó hoặc đơn giản là làm ngơ chúng, như họ rất thường làm với
mọi vấn đề pháp lư.
Tuy nhiên, xét về ư đồ và mục đích, rơ ràng Trung Quốc đă không thực
sự giúp đỡ Sri Lanka cải tiến cơ sở hạ tầng - Trung Quốc chỉ khiến
nước này ch́m trong nợ nần và đến nay đă giành quyền kiểm soát kinh
tế đáng kể đối với quốc gia đang gặp khó khăn nhưng có vị trí chiến
lược.
Đưa ra những thỏa thuận ngọt ngào cho những quốc gia có nền kinh tế
tŕ trệ trên thực tế là quy tŕnh hoạt động thông thường của một số
công ty được ĐCSTQ hỗ trợ. Và những điều kiện kèm theo có thể không
phải lúc nào cũng rơ ràng. Trung Quốc đă cực kỳ năng động ở châu
Phi. Năm 2018, Chủ tịch Tập cam kết viện trợ 60 tỷ đến 80 tỷ đô la
cho các quốc gia châu Phi. “Trung Quốc không can thiệp vào các vấn
đề nội bộ của châu Phi và không áp đặt ư chí của ḿnh lên châu Phi,”
Tập nói. “Những ǵ chúng tôi đánh giá cao là việc chia sẻ kinh
nghiệm phát triển và sự hỗ trợ mà chúng tôi có thể cung cấp cho sự
thịnh vượng và hồi sinh quốc gia của Châu Phi.”
Nhưng nhận tiền của Trung Quốc sẽ kéo theo nhiều vấn đề. Nếu Trung
Quốc xây một mạng điện thoại, họ sở hữu tài sản trí tuệ. Nếu một
công ty Trung Quốc xây một nhà máy điện, công ty ấy sở hữu các kế
hoạch và hoạt động. Và các dự án này, giống như cảng của Sri Lanka,
có thể là bẫy nợ. Việc kiểm soát cơ sở hạ tầng quan trọng cho phép
Trung Quốc sử dụng áp lực trong những lĩnh vực khác. Nhiều bản tin
ghi nhận các chính phủ châu Phi đă bị áp lực không công nhận Đài
Loan. Chắc hẳn họ cũng sẽ bị áp lực phải giữ im lặng trước việc
Trung Quốc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ, Tây Tạng và những người ủng hộ
tự do ngôn luận. Theo cách này, tiền viện trợ có thể được biến thành
cái có thể gọi là bẫy tự do.
Trong một thời gian ngắn đáng chú ư, Transsion Holdings, một công ty
ở Thâm Quyến được thành lập năm 2006, đă chiếm được thị trường điện
thoại di động châu Phi và hạ bệ người khổng lồ toàn cầu Samsung của
Nam Hàn. Kẻ mới đến có một số sáng chế dành riêng cho Châu Phi, như
khe cắm cho nhiều thẻ SIM, cho phép chia sẻ điện thoại giữa những
người dùng có số điện thoại và nhà cung cấp dịch vụ khác nhau. Nhiều
kiểu điện thoại được thiết kế để pin có tuổi thọ dài hơn, v́ điện là
mặt hàng hiếm ở nhiều vùng của lục địa này. Nhưng công ty đă thu hút
được khách hàng bằng cách hạ giá thấp hơn thị trường; có tin tức cho
biết họ đang bán điện thoại với giá xuống tới 50 đô la.
Như thế Transsion Holdings đă thành công qua việc cách tân và hạ giá
mạnh tay. Việc định giá ấy có được bảo lănh bởi Ngân hàng Trung Quốc
hay không? Ai mà biết được? Các khách hàng mới này có nên cảm thấy
thoải mái về sự riêng tư cho dữ liệu của họ hay không? Họ có lư do
để lo lắng. Với hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc, nguy cơ can
thiệp của ĐCSTQ luôn là một khả năng. Như đă lưu ư trong một đoạn
trước, mọi tập đoàn Trung Quốc phải có một đảng viên ĐCSTQ trong hội
đồng quản trị. Và một quốc gia châu Phi bị Transsion chiếm lĩnh hoặc
bất cứ quốc gia nào phụ thuộc vào viễn thông Trung Quốc - một ngày
nào đó sẽ gặp nguy cơ dữ liệu của người dân bị lạm dụng cho những
mục đích kinh tế hoặc để duy tŕ kiểm soát xă hội.
Robert Spalding
Carl Trần chuyển ngữ
Video về quân cách lễ nghi
Cách thức đeo dây
biểu chương...
Lễ nghi
quân cách - Vị trí các lá cờ và toán quốc quân kỳ
Quân phục, cấp hiệu,
huy hiệu... QLVNCH
Tiến
tŕnh h́nh thành Quốc Kỳ & Quốc Ca VN
Tim hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Lịch sử Hướng Đạo Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
Phù hiệu, huy hiệu, huy chương QLVNCH - Michael Do
và Trường Trung Học Vơ Khoa Thủ Đức
Đệ nhất Cộng Hoà - Ngày Quốc Khánh 26 tháng 10
Vài Nét Về
Quân Lực VNCH Và Sự H́nh Thành Ngày Quân Lực 19.6
Cuộc triệt thóai Cao Nguyên
Kỷ niệm thành lập binh chủng Nhảy Dù
Quân sử
VNCH Phần 1 -
Phần 2
- Phần 3
- Phần 4
Giấy
chứng tử của TT Ngô Đ́nh Diệm
4 Vùng chiến thuật
VNCH
H́nh ảnh xưa hiếm quư
T́m hiểu về ngày Quân Lực VNCH 19-6
Abrams Tapes 1968-1972 -
Excerpts on ARVN
CIA and the
house of Ngo
Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập
Cố
Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Tham vọng của Tướng
Đôn...
Luận về chính sách
thuế khoá
Tướng Mac Arthur và cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
Những ngày cuối của QLVNCH
Cảnh Sát hoá
Cuộc chiến vô h́nh
Tet Offensive 1968
Áo dài Việt Nam: thăng trầm theo vận nước
Không quên biến cố 1 tháng 11 năm 1963
Những điều cần biết khi đến tuổi hưu
Nh́n lại biến cố lịch sử 19 - 8 - 1945
The tragedy of the Vietnam war
Quảng Trị 1972 - Trận địa lịch sử
KBC của QLVNCH
Gươm lạc giữa rừng hoa
“ Triều đại “ Tổng Thống lạ lùng nhất lịch sử Hoa Kỳ
Sắc lệnh về
quần đảo Hoàng Sa
Vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ
Giờ phút cuối cùng của một thành phố – Tháng 3 - 1975
Từ chiến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
5 điều có thể bạn chưa biết về lá cờ Hoa Kỳ
Sự ra đời của chữ
quốc ngữ...
Nh́n lại cuộc Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953
Lời phản biện tại buổi tŕnh chiếu sơ lược
phim the Việt Nam War
Không quên biến cố kinh hoàng 11 tháng 9 – 2001 !
140
chữ với mẹo nhớ Hỏi, Ngă & chính tả
Cuộc tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ngày 19/8/1945 tại
VN
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Tổng Thống Abraham Lincoln
Video về quân cách lễ nghi
VNCH 10 ngày cuối cùng...
Bảo
vệ an toàn cho công dân Hoa Kỳ khi ở Việt Nam
Lễ Hùng
Vương
Cần bảo trọng niềm tự hào dân tộc
Luận về Tậm Lư
Chính Trị
Từ chến trường Khe Sanh đến chiến dịch Tết Mậu Thân
Cố Tổng Thống Ronald Reagan và… H.O.
Diễn tiến cuộc đảo chánh lật đổ Ông Ngô Đ́nh Diệm
Tại sao có cuộc đảo chánh lật đổ ông Ngô Đ́nh Diệm
Ai ra lệnh giết Ông Ngô Đ́nh Diệm? Tại sao?
Một tài liệu 42 năm cũ
Dựng
Lại Quốc Kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ
Quốc Kỳ chúng ta giương cao khắp nơi
Tài liệu về Hải chiến Hoàng Sa năm 1974
Những điều nên biết về
Medicare 2016
Remember C-Rations?
Ai đă bắn nát chân Tướng Nguyễn Ngọc Loan?
Tướng lănh VNCH
Bài phỏng
vấn cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Hồi kư về Tướng Lê Văn Hưng và trận An Lộc
Sư Đoàn 23 Bộ Binh và cuộc quyết chiến Ban Mê Thuột
tháng 3, 1975
Đại Tá
Nguyễn Văn Cư
Trường Sa: Băi Cỏ Mây
Thiên Thần
Mũ Đỏ ai c̣n ai mất
Tổng Thống Trần Văn Hương những ngày cuối tháng Tư 1975
tại Sài G̣n
Chuyện của một
ngôi trường
Luận về khoa bảng
Liên Hiệp Quốc và vấn đề: Bảo vệ nhân quyền
Phiếm luận
về mộng mơ qua văn chương và triết học
Chính sách
thuế khóa
Cách viết hoa
trong tiếng Việt
Đoàn
thể Xă hội và Sinh hoạt Chính Trị
Học Viện Quốc Gia Hành
Chánh
John Paul Vann, một viên tướng CIA
Văn hóa
ảnh hưởng ngôn ngữ như thế nào?
Một vài nét về văn hóa
Việt Nam
Tiếng Việt ba miền -
Tiếng nào là ‘chuẩn’ ?
TT
Ngô Đ́nh Diệm đă từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?
HCM đă âm mưu
bán nước từ năm 1924
Vài nét
về hoạt động của Biệt Kích Dù tại Bắc Việt
Hải
chiến Midway
Adm
Chester Nimitz
Nguồn gốc thuyết âm dương tám quẻ...
SĐ Nhảy Dù và cuộc
hành quân Lam Sơn 719
Những trận đánh đi vào quân sử
Nguyên nhân xụp
đổ VNCH 1975
Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông Dương
Tưởng
Niệm Vị Tướng Của Mùa Hè Đỏ Lửa
Thuyết bất biến
Chương tŕnh
chiêu hồi của VNCH
Chiến tranh
Việt Nam (1945-1975)
50 năm đọc và coi lại clip cuộc đảo chánh 1963
An Lộc anh dũng
Nguyên do chính khiến VN bất tử
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Trận Ấp Bắc: Thực tế và
huyền thoại
Vài nét hoạt
động của Biệt Cách Dù tại Bắc Việt
Cảnh Sát Dă Chiến
VNCH
Trung
Đoàn 44 trong Mùa Hè Đỏ Lửa ở Kontum
QLVNCH - 1968-1975
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Đại đội 72,
TĐ7 ND mất tích trên chuyến bay định mệnh ngày 11 tháng
12 năm 1965
Nhảy Dù và
Cổ Thành Đinh Công Tráng
Nhân chứng lịch sử:
Mậu thân Huế
Trận KAMPONG
TRACH 1972
Trả lại sự thật v/v
Sư Đoàn 3BB lui binh...
Thống Tướng Lê Văn
Tỵ
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tôi
Những ngày cuối cùng của QLVNCH
Tướng Dư Quốc Đống
Dư âm Cửa Việt
Tướng NGÔ
QUANG TRƯỞNG...
Lịch sử Cảnh Sát
Quốc Gia VNCH
Người Nhái VNCH
Mùa hè đỏ lửa 1972
Không Quân
VNCH và Chiến trường An lộc
NT Nguyễn Mạnh Tường
Tưởng niệm Quốc
Hận 30 tháng 4
Bậc thầy vĩ đại
Quân Dù tiến về
thành nội Tết Mậu Thân
Một ngày với Đô Đốc
Chung Tấn Cang
Tr/T Huế, chiến binh
anh dũng và trung thành với Tổ Quốc
Sinh Vi Tướng, Tử Vi Thần -
Trung Tướng Dương Văn Đức
Viễn thám
Hổ Cáp - Gia đ́nh 9 Kỵ Binh cuối
tháng tư 75
Cố Thiếu Tướng
Trương Quang Ân
Sống anh dũng, chết
hiên ngang
Chuyến công tác cuối
cùng
Cái chết của Cố Thiếu Tá
BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ
Chuyện một người
chiến binh...
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
Tháng 3 buồn hiu...
Người Lính Ǵà
Không Bao Giờ Chết
Thành h́nh của Quân Lực VNCH
Hăy thắp cho anh
một ngọn đèn
Những ngày cuối cùng của
Truờng Bộ Binh
Một chuyến đi toán phạt
Những NT Vơ Khoa TQLC
Tôi nh́n đồi 31 thất thủ
Ngày tàn cuộc chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù - Trấn
thủ B́nh Long; thượng kỳ Quảng Trị
Quân trường
Những người lính bị
bỏ rơi
Tết với người lính cũ
Thái Dương - Nguyễn Văn Xanh
Phi vụ Tống Lệ Chân
Trên đỉnh Chu Pao
Trung Tá Nguyễn Văn Cư
Vài biến cố đàng
sau mặt trận Tây Nguyên 75
Trận đánh phi
trường Phụng Dực...
Sinh nhật thứ 58 - Trường
BB/TĐ
Trung Sĩ Vũ Tiến Quang
Mũ Đỏ, mũ Đen
Chân dung người Chiến Sĩ
CIA và các ông Tướng
Dựng Cờ
Bức tượng Thương Tiếc
Kẽm gai bọc thây anh
hùng
Lịch sử h́nh thành
QLVNCH
Văn tế Chiến Sĩ Trận
Vong
Người lính
VNCH trong mắt tôi (video)
Cà-fê nha, Chuẩn Úy?
Chân dung người
lính VNCH
Chiến thắng An Lộc 1972
Quảng Trị - Mùa hè đỏ lửa
Trương Văn Sương - Người tù
bất khuất
Chết trận Đồng Xoài
Ư nghĩa ngày QL 19/6
Viết cho ngày QL 19/6
Sự h́nh thành QL 19/6
Nhân ngày QL 19/6
Tâm t́nh ngày QL 19/6
Bối cảnh
chính trị quân sự trước 19/6
VNCH bị bức tử
Thủ Đức... gọi ta về
Chân dung người lính
VNCH
Sự thật về cái chết
của Tướng Lê Văn Hưng
Người lính không có số
quân
Giày Saut trong tử địa
Chuyện tháng 4 của những
chàng BK
Trung Tá CSQG Nguyễn
Văn Long
Những v́ sao thời lửa đạn
Mùa hè đỏ lửa: Phần 1,
Phần 2,
Phần 3
Lịch sử chiến tranh VN từ
1945...
Thời chinh chiến
Tiểu Đoàn 5 Dù
Tưởng niệm Tướng Trần Văn
Hai
Vài kỷ niệm với Tướng Lê Nguyên
Vỹ
Tiểu Đoàn 42 BĐQ - Cọp Ba Đầu Rằn
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
QLVNCH
Những người trở về
với đại gia đ́nh dân tộc
Khe Sanh trong ṿng vây
Vietnam,
Vietnam
Từ Mậu Thân 68 đến mùa hè đỏ
lửa 72...
Trận đánh Đức Huệ
Lam Sơn 207A - Khe Sanh
Trận chiến Khe Sanh
Mật trận Thượng Đức -
1974
Người cha đẻ
hành khúc "Lục Quân Việt Nam"...
Quốc Kỳ và Quốc
Ca Việt Nam
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Vua Duy Tân
Lịch pháp bách Việt
Cái chết trong tù
CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát
Sự đáng sợ cuả nước
Mỹ
Oan hồn trên xứ Huế
Sau 42 Năm, Nh́n Lại Vụ Tết Mậu Thân
Mưa Đồng Tháp Mười
Chăn gối với kẻ thù
Ông Lộc Hộ - Anh hùng vô danh
Cải cách ruộng đất...
Giờ thứ 25
Biến động miền Trung
Người Mỹ phản bội
chúng ta
cs nằm vùng
Những ngày cuối
của TT Nguyễn Văn Thiệu ở SG
T́m hiều về h́nh Tiếc
Thương và Vá Cờ
Tháng Tư đen
Giờ phút hấp hối Thành
Phố Đà Nẵng
Ai giết đức thầy Huỳnh Phú
Sổ
H́nh ảnh VN từ 1884-1884
Thổn thức cho VN
Valentine trong di
sản Chiến Tranh
Hoàng Hậu Nam Phương
Thảm sát ở Tân Lập
Hố chôn người ...
T́nh h́nh nhân quyền
ở VN năm 2007
Người Việt xây thành Bắc
Kinh