Nồi chè của Ông Tướng

Tác giả: Khôi An

Năm nay, Fathers Day của nước Mỹ là 19 tháng 6, trùng với Ngày Quân Lực VNCH trước 1975, xin mời đọc bài mới của Khôi An, chuyện ông Tướng mà cũng là chuyện Người Cha. Tác giả từng phải rời bố mẹ vượt biển năm 1983 khi c̣n tuổi học tṛ và là một kỹ sư có hơn hai mươi năm làm việc cho Intel tại tại miền Bắc California. Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2008, cô đă nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013. Sang năm 2015, thêm giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho những nỗ lực bảo vệ, phát huy văn hóa Việt trên đất Mỹ.

* * *

Không hiểu chị tôi đă nghe tin về ông bằng cách nào.

Thời đó, đầu thập niên tám mươi, mọi phương tiện truyền thông đều thuộc về nhà nước Cộng Sản, quanh năm suốt tháng báo chỉ đăng tin “nước ta đang trong thời kỳ quá độ…” Kiểu dùng chữ như vậy mọi người phải chịu đựng măi nên đỡ thấy quái đản. Người đọc cứ tự điền vào chỗ trống thành “nghèo quá độ”, “đói quá độ” hay “láo quá độ”… tùy theo câu.

Vậy mà, một buổi tối, đột nhiên chị tôi nói “Em có biết Tướng Lê Minh Đảo không? Ông tướng đánh trận Xuân Lộc đó. Nghe nói ổng mới chết trong tù rồi! Tội quá, ổng c̣n trẻ lắm!”

Trước ngày miền Nam thất thủ tôi không biết ông Lê Minh Đảo. Sau đó, tôi có nghe loáng thoáng người lớn rỉ tai nhau về trận đánh ác liệt bảo vệ ngơ vào Sài G̣n trong những ngày đầu tháng Tư, 1975 tại Xuân Lộc. Tôi cảm phục những người chiến đấu đến cùng, nhưng điều đó sớm ch́m vào những hỗn độn của cuộc đổi đời. Vả lại tôi c̣n nhỏ quá, chẳng biết nghĩ ǵ hơn.

Cũng như thế, tối hôm đó, sau khi nghe chị tôi nói, chúng tôi chỉ biết nh́n nhau trong niềm xót thương lặng lẽ.

Một thời gian sau, tôi lại nghe một người bạn nói “Ông Lê Minh Đảo c̣n sống. Ổng chỉ bị mù thôi.”

Ở trong tù mà bị mù th́ chắc c̣n khổ hơn chết. Tôi thở dài – trẻ con Việt Nam sớm biết thở dài – rồi thầm đọc một lời cầu nguyện. Cho ông và những người tù chính trị đang bị đọa đày.

*

Đến năm 1993, khi đang ở Mỹ, nghe tin Tướng Lê đă sang theo diện HO và mắt vẫn sáng, tôi ngạc nhiên và vui lắm. Mừng cho ông cuối cùng cũng có những ngày b́nh an sau gần hai thập niên tù ngục.

Nhiều năm sau, khi internet cung cấp mọi tin tức mà ngày trước không dễ kiếm, tôi đă lên mạng t́m xem mặt Tướng Lê và nghe ông nói. Tôi muốn biết về ông. Không phải qua những lời kể, mà bằng cảm nhận của chính tôi.

Và tôi đă gặp được đoạn phim buổi nói chuyện của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo với Việt Dzũng. Buổi phỏng vấn khá dài nhưng tôi nhớ nhất là khi ông nói về sự hy sinh của người lính. Giọng ông hơi lạc đi khi nhắc đến t́nh bạn của hai người lính trẻ và sự đơn sơ, không hận thù trước bờ sinh tử của họ.

Phút nghẹn ngào của Tướng Lê đă làm tôi bồi hồi. Tôi ngỡ tim ông đă cứng và nước mắt ông đă kiệt sau mấy chục năm ngang dọc trên chiến trường và mười bảy năm trong tù. Tôi ngỡ ông sẽ nói nhiều về những chiến công và những đóng góp của ông trong hai mươi năm ǵn giữ miền Nam. Nhưng ông nói về các điều khác, như cái chết của người lính trẻ và sự hy sinh của chiến binh. Hơn hai mươi năm đă qua, ông vẫn tự trách ḿnh, môi ông run run khi nói “…chúng tôi cũng không lo được cho họ một cách đầy đủ…” Có lẽ chưa bao giờ ông ngưng buồn về chuyện đó. Tài làm tướng của ông đă làm tôi phục. Nhưng vết thương mấy chục năm trong ḷng ông mà tôi vừa chứng kiến đă làm tôi quư mến ông.

Đầu tháng Tư, 2015 tôi viết lại chuyện của những sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ bốn mươi năm trước. Họ tụ tập tại một chung cư cũ kỹ ở Houston, khắc khoải nh́n về miền Nam đang vuột mất. Người sinh viên năm xưa cứ nhắc đi nhắc lại niềm hy vọng bùng lên khi đám người Việt trẻ theo dơi sự anh dũng của những chiến sĩ Xuân Lộc, dù bị dồn tới chân tường.

V́ thế, tôi t́m xem lại những khúc phim của tháng Tư xưa. Tôi thấy lại khói lửa điêu tàn. Tôi gặp lại các chiến sĩ anh hùng. Và Tướng Lê Minh Đảo, mắt nảy lửa, nghiến răng thề quyết chiến.

Rồi tôi giật ḿnh, nhận ra rằng những người trai dũng mănh ấy nay đă già, và tôi cũng đang già. Mai này khi chúng tôi ra đi, đàn con gốc Việt c̣n biết ǵ về quê cha đất tổ? Phải chăng điều đó tùy thuộc vào những ǵ chúng tôi làm hôm nay?

Thế hệ trẻ cần nghe những điều thật từ những người thật. Sẽ tốt biết bao nếu họ được gặp gỡ những nhân vật lịch sử như Tướng Lê Minh Đảo.

Thế là tôi lần ṃ đi t́m Tướng Lê.

Tôi không có mối quen biết xa gần nào với ông, cũng chẳng có chức tước ở bất cứ hội đoàn nào. Vậy mà tôi thấy chuyện mời ông đến vùng Thung Lũng Điện Tử thật tự nhiên, nhẹ nhàng. Có lẽ tôi linh cảm rằng vị tướng, người sau hơn hai mươi năm vẫn khóc cho lính, rất quan tâm tới lớp trẻ.

Sau hai tuần hỏi thăm nhiều người, cuối cùng tôi may mắn có được sự giúp đỡ tận t́nh của một người chị làm báo. Tôi được một cái hẹn nói chuyện với Tướng Lê. Mười giờ sáng, một ngày đầu tháng Tư, 2015.

Gần tới giờ hẹn, tôi thấy hơi hồi hộp. Thật t́nh tôi sẽ buồn chút thôi nếu Tướng Lê từ chối sang California nói chuyện. Nhưng tôi sẽ buồn nhiều nếu thực tế quá khác với những cảm nghĩ ở trong ḷng.

*

Ông đến San Jose chiều 27 tháng Tư, 2015 trên chuyến bay từ Arizona. Từ xa, tôi thấy ông trong chiếc áo sơ mi kiểu Hawaii màu vàng nhạt có hoa xám, đang dáo dác nh́n quanh.

“Thưa Bác! Con là Kh.A.”

Ông cười. Chúng tôi bắt tay nhau. Giản dị như đă quen từ trước.

Ông cho biết đă lên máy bay ngay sau khi dự buổi lễ kỷ niệm bốn mươi năm miền Nam bị cưỡng chiếm với cộng đồng Việt-Mỹ ở Pheonix, Arizona. Tôi hỏi ông có mệt không, ông nói “Không sao đâu. Bác giờ như một kho sách cũ, chỉ lo không đủ giờ để trao lại kiến thức cho những người đi sau…”

Tối hôm đó, chúng tôi mời ông ghé chơi nhà một người bạn. Khi bước vào nhà, trên salon có một cây đàn guitar kiểu mới, chỉ có khung sắt mà không có thùng đàn. Tôi thấy mắt ông ngời lên một sự thích thú gần như trẻ thơ. Ông bước nhanh tới, nâng cây đàn lạ mắt, vuốt nhẹ lên những sợi dây.

Khi chúng tôi mời ông đánh một bài, ông x̣e bàn tay ra nh́n, cười nhẹ rồi nói:

- Ở tù bị thương, hư tay rồi. Giờ lại già nữa, đánh kém lắm.

Chúng tôi không nài ép, chỉ lẳng lặng nh́n ông vừa nói chuyện vừa lơ đăng lướt tay trên cần đàn. Một lúc sau, như hứng khởi, ông hát

“Trùng dương dâng sóng, biển khơi như thét gào. Cuốn đi cánh hoa đào dạt trôi nơi nao… “

Bài hát đó ông sáng tác trong tù, ngày nghe tin người bạn cùng trại mất hết vợ con trên đường vượt biển.

“C̣n sống tôi c̣n khóc, tôi c̣n thương quê hương tôi …”(*)

Giọng ông nhẹ và buồn. Tôi nghe, và nghĩ rằng ông đang nói những điều tận đáy ḷng.

*

Sáng 29 tháng Tư, Tướng Lê bắt tay vào chuẩn bị cho buổi nói chuyện ngay sau ly cà phê sớm. Ông sắp xếp ư nghĩ, soạn phần trả lời cho các câu hỏi các sinh viên đă gởi đến, và ghi xuống một loạt các quyển sách nói về chiến tranh Việt Nam để giới thiệu đến các sinh viên.

Măi tới giờ ăn trưa tôi mới có dịp nói chuyện với ông. V́ có quá nhiều điều muốn hỏi, tôi buột miệng:

- Bác ơi, có bao giờ Bác hối hận đă làm cho các con Bác kẹt lại với Cộng Sản sau ngày mất miền Nam không? Các con Bác có bao giờ trách Bác không?

Nói xong, tôi hơi bối rối v́ đă hỏi một câu khá nặng nề trong lúc ông đang nghỉ ngơi. Nhưng ông trả lời ngay:

- Đó là một quyết định rất đau ḷng, nhưng Bác chưa bao giờ hối hận. Bác ra lệnh cho anh em binh sĩ quyết đánh, gia đ́nh của họ đều ở lại, có lẽ nào Bác lo cho con Bác ra đi? Bác có thể thu xếp cho gia đ́nh ḿnh, nhưng làm sao thu xếp được cho mọi gia đ́nh của những người đang tin vào Bác? Nếu Bác cho vợ con đi trước, lính của Bác biết là giờ chót Bác có thể lên máy bay đi bất cứ lúc nào. Như vậy họ c̣n tin tưởng để đánh hay không? Như vậy Bác có công bằng với họ hay không? Bác chấp nhận định mệnh của Bác và gia đ́nh, nếu có phải chết th́ chết cùng nhau. Bác muốn đối xử công bằng để sau này con bác không phải xấu hổ với con em của những người từng nghe lời Bác mà liều chết. Bác muốn con bác sau này không phải nh́n Bác mà nghĩ ông già ḿnh ngày xưa từng gạt lính.

Trầm ngâm vài giây, rồi ông tiếp:

- Năm 1979, lúc Bác đang bị Cộng Sản đày đọa, nghe tin gia đ́nh đi thoát hết sau năm lần vượt biên bị tù, Bác trút được gánh nặng khủng khiếp trong ḷng. Bác tạ ơn trời đă cho Bác ân huệ được lương tâm yên ổn, được trọn vẹn mọi bề. Từ đó, Bác không c̣n phải lo lắng, đau khổ cho số phận của vợ con trong nanh vuốt của kẻ thù nữa. Bác không sợ kẻ thù dùng các con thơ để khống chế ḿnh nữa. Bác được tự do.

C̣n các con Bác, tụi nó cũng hiểu và không trách Bác. Trong bốn năm kẹt lại, tụi nó đă học được rất nhiều. Những kinh nghiệm sống đó làm cho chúng biết thương người, biết khiêm nhường, biết quư những điều tưởng như là tầm thường. Các con của Bác có thể tự hào rằng ḿnh đă hiểu biết về Cộng Sản và đă vượt thoát khỏi ngục tù của họ. Đó là một tài sản mà Bác nghĩ các con Bác nên hănh diện đă có được.

Tôi uống một ngụm trà, nuốt xuống cái nghèn nghẹn ở cổ. Tôi nghĩ, trước khi tử chiến ở Xuân Lộc, nếu ông lo cho gia đ́nh đi th́ đó cũng là chuyện thường t́nh. Không ai trách được ông. Nhưng Tướng Lê không phải là người làm những chuyện thường t́nh...

Thời vừa bị chiếm, mạng sống của người miền Nam rất nhỏ, thêm dịch bệnh hoành hành làm trẻ con chết rất nhiều. Nếu chỉ một trong chín người con ông có mệnh hệ nào, nỗi dằn vặt sẽ ám ảnh ông suốt đời. Nhưng Thượng Đế đă ǵn giữ gia đ́nh ông vẹn toàn. Cám ơn Thượng Đế, Tướng Lê cần và xứng đáng với ơn huệ của ngài.

Hôm sau, ngày 30 tháng 4, 2015, ông và người thông dịch miệt mài chuẩn bị cho buổi nói chuyện lúc 6 giờ chiều. Trưa đến, tôi nhắc ông đi ăn nhưng ông dùng dằng măi vẫn chưa đứng lên được. Thấy vậy tôi đành khuân về mấy ổ bánh ḿ thịt nguội. Ông gặm bánh ḿ, uống beer và cười nói vui vẻ, hài ḷng v́ buổi nói chuyện được chuẩn bị chu đáo.

Cuôc gặp gỡ với sinh viên diễn ra thành công và cảm động. Tướng Lê đă nhắn nhủ lớp trẻ bằng những điều ông đúc kết suốt nửa cuộc đời trong chiến tranh cộng với mười bảy năm trong tù ngục. Những chia sẻ của ông thiết tha, sâu sắc nhưng cũng rất thực tế, phù hợp với tâm hồn và đời sống của giới trẻ.

Buổi họp kết thúc khá trễ nên chúng tôi chỉ ghé tiệm kem ăn tráng miệng rồi về.

Măi đến đêm, tôi mới chợt nhận ra rằng bữa ăn “đàng hoàng” nhất của Tướng Lê ngày hôm đó là ổ bánh ḿ. V́ ông đă không đụng đến đĩa thức ăn do các em sinh viên mời lúc chiều, ông nói muốn tập trung để nói chuyện với các em.

*

“Con gián làm mồi câu tốt lắm, con à.”

Buổi chuyện tṛ của tôi và Tướng Lê ngày hôm sau bắt đầu bằng câu chuyện đời thường như thế. Ông kể thời ông ở Cần Thơ, ông thường bắt gián ở đằng sau một tiệm ăn ở gần nhà rồi đem ra bến Ninh Kiều câu cá.

Biết rằng lúc đó ông đă lên tới cấp Tá, tôi hỏi:

- Chắc Bác câu cá cho vui hả Bác?

- Câu cá về ăn chớ! Nhà Bác đông con, lương của Bác th́ khá so với lính, nhưng chẳng dư dả ǵ đâu, con. Lính ḿnh hồi đó cực lắm con à, một tháng lương mua được một tạ gạo. C̣n lương Bác cũng chỉ tạm đủ lo cho vợ con.

Hoàn cảnh lính và những hy sinh của gia đ́nh lính th́ không nói sao cho xiết, con à. Gần một triệu người đă chết và bị thương trong cuộc chiến, c̣n số người chịu mất mát sau lưng họ th́ không biết đếm bằng cách nào! Bác cứ nghĩ con người ta ai cũng bằng xương bằng thịt, nếu Bác chết trận, mười người trong gia đ́nh Bác đau đớn bao nhiêu th́ những cái chết trong gia đ́nh lính cũng đau bấy nhiêu. Hồi ở Chương Thiện, có một người lính đi phục kích, vợ con bị địch câu pháo trúng vô nhà, chết hết. Anh ta về, ngồi gục mặt trước đống gạch nát, Bác đứng đó mà chỉ biết đặt tay lên vai anh ta, không t́m được lời nào an ủi. Vậy mà hai bữa sau, anh ta trở lại đơn vị, tiếp tục đánh giặc…

Cái nhíu mày của ông làm tôi nghĩ ruột ông đang thắt lại, nên tôi chuyển qua đề tài khác:

- Thời Bác ở trong quân đội, di chuyển nhiều nơi, cả nhà đều đi theo hả Bác?

Nụ cười nhẹ làm những vết nhăn trên trán ông dăn ra.

- Ờ! Bác bận rộn quá nên đi đâu Bác cũng cố gắng đem gia đ́nh theo để được ở gần càng nhiều càng tốt. Khi nào có dịp nghỉ, Bác dắt vợ con đi chơi. Nhưng sau này, Bác ở đóng quân ở Long B́nh th́ tụi nhỏ đi học ở Sài G̣n, cuối tuần nếu Bác không đi hành quân th́ mới được gặp. Có một lần Bác dắt tụi nhỏ đi coi chiếu bóng về, tụi nó than đói bụng. Ở tỉnh lỵ đâu có hàng quán ban đêm, Bác lại không muốn sai lính nên tự nấu chè cho tụi nó ăn. Nấu nước sôi, đập vô một củ gừng, quậy đường cát, rồi xé bánh tráng bỏ vô. Bánh tráng mà ḿnh hay ăn đồ cuốn đó. Bánh tráng coi mặn mặn vậy mà nấu chè ngon lắm! Bữa nào con làm thử đi!

Ông vừa nói vừa gật đầu để thêm phần… thuyết phục. Tôi tṛn mắt nh́n ông. Chỉ là một kỷ niệm vui, không màu mè, bóng bẩy, nhưng ông làm tôi cảm động lẫn ngạc nhiên. Một vị Tư Lệnh tự nấu chè cho con ăn khuya? Nồi chè mà tôi không cần thử cũng biết là không thể ngon. Nhưng nó làm tôi thương người cha ở trong ông, và tự hào v́ quân lực VNCH đă có một vị chỉ huy như ông. Ôi, nồi chè của ông Tướng!

Càng nói chuyện với ông, tôi càng thấy ông rất “không thuờng t́nh”. Ông không dè dặt, thận trọng như thường thấy ở những người từng chứng kiến nhiều mưu mô, tráo trở. Ông không có cái trầm ngâm, chán chường của một người nếm quá nhiều đau thương. Ông nhiệt t́nh, hăng hái, và thật. Như thể cuộc đời ông chưa từng bị dập vùi, như thể ông c̣n rất trẻ và c̣n tin tưởng rất nhiều vào con người.

Và, ông hoàn toàn không có cái xa cách của người xem ḿnh là quan trọng. V́ thế, tôi đă hỏi ông một câu mà trước khi gặp ông tôi không nghĩ là ḿnh dám hỏi:

- Bác ơi, ngày 30 tháng Tư 1975, sau khi miền Nam thất thủ, Bác có bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát hay không?

- Lúc đó, mỗi người có một quyết định riêng, không ai đúng ai sai. Riêng Bác, Bác không có ư định tự tử. Các con Bác đă mất quá nhiều, Bác không muốn chúng phải mất cha. Nếu bị giặc Cộng giết, Bác chấp nhận nhưng Bác không tự ḿnh làm điều đó với các con. Hơn nữa, Bác không có cái uất ức, đau khổ của một bại tướng v́ Bác chưa bao giờ nghĩ là ḿnh thua. Ḿnh chỉ tạm thời khó khăn v́ những thế lực quốc tế đẩy ḿnh tới đó, nhưng Bác muốn sống để xem mọi sự xoay vần tới đâu.

*

Nếu chỉ được dùng một từ để diễn tả Tướng Lê, tôi sẽ chọn “lăng mạn”.

Những quyết định cực kỳ cứng rắn, những hành động hết sức can đảm của ông đều bắt nguồn từ những t́nh cảm sâu xa. Chỉ có người rất lăng mạn mới đủ tin yêu để làm những điều phi thường như ông đă làm. Ông để vợ con cùng ở lại đương đầu với Cộng quân là v́ ông yêu sự “công bằng” mà ông đă nhắc đến mấy lần trong câu trả lời ngắn. Ông tử chiến v́ ông hết ḷng tin vào sứ mạng ǵn giữ miền Nam. Ông không sợ chết v́ ông không muốn phụ ḷng những người lính đă nằm xuống và những người lính đă dựa vào ông mà đứng lên từ những căn nhà cháy ra tro của họ.

Cống hiến của ông cho đời giống như những viên kim cương, tuyệt sáng và tuyệt cứng. Nhưng chúng đă được hun đúc từ phần lơi là những t́nh cảm tinh tuyền, và những giọt nước mắt. Sẽ không có kim cương nếu không có phần lơi đó.

Lịch sử Việt Nam có Tướng Phạm Ngũ Lăo gạt nước mắt, chia tay mẹ già đi đánh giặc. Có Tướng Trần Khánh Giư bỏ gánh than, từ giă đời ở ẩn để trở về cứu nước. Có biết bao chuyện nhờ dân gian ghi lại mà ngày nay chúng ta được biết.

Cho nên, tôi muốn ghi lại nồi chè bánh tráng của Tướng Lê Minh Đảo. Ghi lại lúc ông chấp nhận để các con ông cùng chung số phận với gia đ́nh lính. Ghi lại ḷng thương yêu và quư trọng vô bờ của ông với binh sĩ và vợ con của họ. Về lời ông nói, đùa mà rất thật “nếu trời cho sống đến hơn trăm tuổi, tôi vẫn muốn cống hiến thời giờ và sức lực cho Việt Nam tới phút cuối.”

Năm nay Tướng Lê đă tám mươi ba. Vinh, nhục, yêu, ghét, thăng hoa, đày đọa … ông đều đă trải. V́ thế, tôi viết bài này không phải cho ông. Mà để lưu lại vài mẩu chuyện về Ông Tướng Lăng Mạn cho mai sau. Để góp một chút tin yêu bởi v́ làm người Việt Nam rất buồn. Để cho chính tôi nhớ gương của Tướng Lê, lạc quan trong khó khăn và cố gắng làm những điều tốt đẹp nhất trong khả năng của ḿnh, hầu mong mai sau con cháu không phải ngần ngại nhận ḿnh là Việt.

Khôi An

 


VĂN CHƯƠNG

Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


Giấc mộng kinh hoàng  
Hồi Kư của vợ người tù “cải tạo”  
Viễn thám
Trong bóng hoàng hôn
Tâm sự cùng Nữ Sĩ Dư Thị Diễm Buồn  
Phản bội Đồng Minh hay thay đổi chiến lược chống CS
Cái áo Jacket Không Quân
Ánh sáng cuối đường hầm
Sức mạnh của đồng tiền  
Di chúc tuyệt mệnh  
Rồi tôi sẽ hạnh phúc  
Anh không chết đâu anh  
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?  
Nồi chè của Ông Tướng  
Người cha trăm tuổi  
Hai ngày gác ở Nghĩa Trang Quân Đội
Dự lễ Phật Đản  
Từ mặt đường dậy sóng ...  
Viết cho một người lính  
Mặt trận Tân Cảnh, Kontum 1972 
Nghĩa Quân 
Chia sẻ với các em của chị
Có những chuyến tàu
Những mảnh hồn phiêu bạt ...
Cho nhau cuộc đời  
Cha và con với biển và cá  
Kẹt cứng gọng kềm

Người tù binh hồi chánh bên bờ sông Ba  
Cái bóng của vị thầy tu  
Cái nón sắt của người lính VNCH  
Trăm ngh́n nhánh khổ  
Sài-G̣n miền đất địa linh nhân kiệt
Triết lư nhân sinh - Luận về mộng mơ qua Văn chương và Triết học  
Tấm thẻ bài  
Tung cánh chim t́m về tổ ấm  
T́nh nghĩa Vợ, Chồng khi kẻ mất, người c̣n đời sống sẽ ra sao?  
Viết cho Nguyễn Viết Dũng  
Việt cộng - Việt cộng
Tháng Ba chôn súng  
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt 
Tiểu Đoàn 9 TQLC - Trận chiến sau cùng  
Một lần chào cuối cùng của đời quân ngũ !  
Mất Đà Nẵng  
Sự quan tâm của vị Tướng  
Saigon xưa ...cái thời xé tiền để .. thối lại !  
Giọt nước mắt của lính
BTL/HQ/V4 DH – Di tản với 3000 đồng bào  
Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 30 tháng Tư  
Bàn thờ hai mặt  
Ngôi nhà thờ cổ bên ḍng sông Saigon 
Ṿng tṛn nhân quả  
Bạn tôi người lính trẻ
Nhớ kỉ niệm .…
Một lần mất mát  
Chuyện buồn người vợ tù  
Nhẩy Dù tử chiến tại mặt trận Quảng Trị 
Ngô Quang Trưởng - Cổ kim như danh tướng 
Khai bút đầu Xuân Bính Thân 2016 - Sát cộng nô hịch

Về thăm quân trường cũ 
Xuân đă tàn chưa?

Tưởng như … Mùa xuân không c̣n nữa 
Táo quân về trời 
Đi chợ... Tri thiên mệnh  
Điều bố không dặn lại

Một đời lận đận chiến tranh  
Gió mùa xuân  
Viên đại bác cuối cùng nơi phà Cát Lái 
Người vợ là một vĩ nhân

Chưa tu đă thành Phật  
Tướng Ngô Quang Trưởng - Cô kim như danh tướng

Bắc Kỳ 9 nút - Bắc Kỳ 2 nút