NGÔ QUANG TRƯỞNG – CỔ KIM NHƯ DANH TƯỚNG

Phan Nhật Nam

Phi Trường Biên Ḥa nằm im dưới nắng khô rốc như một khoảng sân gạch nung chín, hơi nóng từ phi đạo do những tấm vĩ sắt PSP ghép vào nhau bốc lên lớp khí lung linh hừng hừng như làn khói từ một đám cháy âm ỉ đâu dưới mặt đất. Ngọn núi Bửu Long bên ngoài hàng rào sân bay với hàng cây trên sườn núi, đỉnh đồi, cũng không cho thêm độ xanh tươi, im mát của thiên nhiên, mà chỉ tăng phần trần trụi của khu vực. Gió khô thổi từng chập tung bụi đỏ dọc con đường đất chạy quanh Phi Trường, lay động lật bật những tấm che chắn tháo gỡ từ những thùng giấy, ghép lại với nhau làm lều tạm trú cho đám lính canh giữ ṿng đai an ninh.

Chiếc xe jeep mang phù hiệu Nhảy Dù với con số 5 màu đỏ nơi tấm kiếng chắn gió chạy chậm trên đường ṿng đai là điểm linh động duy nhất của toàn cảnh tượng. Đám lính từ trong những căn lều trạm trú lần lượt hiện ra, đứng nghiêm theo lệnh hô của người chỉ huy, chào tay lên vành mũ sắt, đợi chiếc xe đi tới. Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù ngừng xe xuống mỗi vị trí gác, ông đi thẳng, bước nhẹ, đến trước mỗi hàng quân, chào tay, nói nhỏ với người chỉ huy. Cho anh em nghỉ. Nh́n thẳng mắt vào mỗi người lính, ông hỏi chuyện thân mật như với người thân. Nóng quá, anh em có đem đủ nước uống không, nhớ chùi súng, thông ṇng cho sạch, đừng để bị đất bụi bám vô. Sau khi hỏi thăm đủ đến mỗi người lính, ông lại chào tay trước khi bước lên xe. Chiếc lưng và thân người thẳng đứng, lưng áo tác chiến hoa nhẩy dù bó căng thân thể cao gầy. Do bị thương từ một saut nhẩy dù bồi dưỡng, nay phần thân trên phải chịu bó cứng trong một lớp áo giáp bột thạch cao. Nắng nung khô áo vải hoa dù ny lông như lớp bánh tráng nướng chín, nhưng mỗi ngày hai lần, Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng tự thân đi ṿng quanh Phi Trường để kiểm soát đơn vị đang giữ nhiệm vụ ứng chiến, an ninh.

Chiều hôm nay thứ bảy, sao anh không để ông Phó đi thay, người lại bị bó bột như vậy, nóng chịu sao nổi ? Đại Úy Ngô Xuân Nghị, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 Dù, đơn vị chung chiến đoàn, cùng chịu trách nhiệm an ninh Phi Trường Biên Ḥa tỏ ư ái ngại khi Thiếu Tá Trưởng ghé qua thăm đơn vị nầy (cũng trong ṿng đai Phi Trường Biên Ḥa) sau lần kiểm soát cuối ngày.

Binh sĩ anh em người ta c̣n phải chịu nóng, cực hơn ḿnh nhiều. Thiếu Tá Trưởng ngồi xuống chiếc ghế, gỡ nón sắt đặt xuống bên cạnh. Nét mặt nghiêm nghị trầm tư.

Đến chiều tối, viên sĩ quan trực Tiểu Đoàn 7 khi ghé qua văn pḥng Tiểu Đoàn Trưởng để tŕnh kư văn thư, anh vẫn thấy người Tiểu Đoàn Trưởng đơn vị bạn ngồi ở vị thế và cách thức lúc ban chiều. Chiếc nón sắt đặt bên cạnh, lưng thẳng cứng, sắc mắt nh́n nghiêm lạnh. Chỉ khác, chai Scott để trên bàn đă vơi quá nửa.

Khi đi ra khỏi văn pḥng, gă Thiếu Úy trẻ tuổi có ư nghĩ:

‘’Chắc ông ấy uống rượu là uống cho có vậy thôi, chứ ai ngồi uống với bạn mà im lặng đến thế. Hẳn ông đang gặp điều buồn phiền nhưng không nói ra ?’’ Và có thể, sau này gă sẽ quên đi nhiều chuyện, nhưng sắc mặt nh́n của người ngồi trước ly rượu kia sẽ ghi dấu với gă rất lâu. Viên Thiếu Úy nghĩ thầm, và tin chắc ḿnh đă có nhận xét chính xác.

LẦN GIỮ VỮNG THỨ NHẤT

Bắt đầu năm 1963, t́nh h́nh quân sự Miền Nam đă có những chỉ dấu suy thoái, lực lượng du kích, địa phương cộng sản được thành lập từ hai năm trước với những vũ khí đơn sơ, tự chế tạo như súng ngựa trời, đạp lôi, ḿn bẫy, nay được tăng cường thêm thành phần cán bộ hồi kết, lẫn cán bộ Bắc Việt mới xâm nhập, cùng với những vũ khí mới, hữu hiệu nhất do khối cộng sản viện trợ. Lực lượng nầy biến cuộc nổi dậy của du kích địa phương nên thành một cuộc chiến tranh bán quy ước, chuyển qua giai đoạn chuẩn bị tấn công lật đổ chính quyền hợp hiến Miền Nam.

Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân Khu IV giữ trách nhiệm an ninh quân sự toàn Vùng Châu Thổ sông Cửu Long, nắm quyền Tư Lệnh ngày đầu năm Dương Lịch 1 tháng 1 năm 1963. Tướng Cao nhận nhiệm vụ vốn không hoàn toàn do từ khả năng chỉ huy cần có đối với một Tư Lệnh Vùng, nhưng v́ là người trung tín của Tổng Thống Diệm, lại được ḷng của Tổng Giám Mục Ngô Đ́nh Thục, Giáo Phận Vĩnh Long, nơi đồn trú của Sư Đoàn 9 Bộ Binh, một đơn vị ṇng cốt của Vùng. Hơn thế nữa, Tướng Cao c̣n được ḷng tin của Cố Vấn Chỉ Đạo Ngô Đ́nh Cẩn, bởi gốc người Phú Cam, Huế, đồng hương, đồng đạo với Cố Vấn. Thiếu Tướng Cao cũng là thành viên trong Quân Ủy Trung Ương Đảng Cần Lao do Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu sáng lập, lănh đạo. Từ vị thế vững chắc về mặt ‘’chính trị’’ nầy nên Tướng Cao không mấy quan tâm, năng nổ trong nhiệm vụ điều quân dẹp loạn, mà mục tiêu trước tiên là làm vừa ḷng những người đỡ đầu, quyết định về sự nghiệp, công danh của ông. Thế nên, về phương diện quân sự, ông phải làm thế nào để Vùng trách nhiệm ‘’có được tiếng an ninh’’ trong báo cáo gởi về Dinh Độc Lập, để nơi đây chuyển đến Ṭa Đại Sứ Mỹ làm yên tâm ông Đại Sứ vốn là người bảo thủ (Được dẫn chứng qua giai thoại: Đại Sứ Nolting cho thay thế bức h́nh Tổng Thống Thomas Jefferson nơi pḥng làm việc bằng bức họa Tổng Thống George Wasington, bởi vị Tổng Thống tiên khởi nầy ít có tính chất ‘’tranh biện’’ (1), không muốn nghe những phê phán, chỉ trích. Để tỏ rơ tinh thần, thái độ ‘’bảo thủ tích cực’’ này, trong một buổi họp mặt Phù Luân Hội, Chi Hội Sài G̣n, ông Đại Sứ thay mặt chính phủ Mỹ ở Việt Nam đă tin tưởng tuyên bố: ‘’Quả thật đă có một sự chuyển ḿnh kỳ lạ ở nơi đất nước này, nếu những người hay chỉ trích chính phủ có được quyết tâm phụng vụ cho chế độ (2).’’ Thế nên, Dinh Độc Lập cố gây ấn tượng cho vị Đại Sứ yên ḷng chuyển tiếp những tin tức mà ông đánh giá là ‘’tiến triển tốt’’ về Pḥng T́nh H́nh Ṭa Bạch Ốc, để lại đây, Trung Tâm Chỉ Đạo Chiến Tranh Việt Nam, với J.F. Kennedy vị Tổng Thống đời thứ 35, nhân dáng điển h́nh cho sức mạnh đang lên của Mỹ, căn cứ từ những báo cáo kể trên, có thể nói lên lời thẳng thừng, ‘’Tôi sẽ rút ra khỏi Việt Nam sau 1965 và bất kể phải mang tiếng là người nhượng bộ cộng sản đi chăng nữa…’’ với người bạn thiết, Ken O’Donnell (3).

Nhưng giữa những báo cáo như trên của Ṭa Đại Sứ và ‘’thực tế chiến trường’’ do các phóng viên David Halberstan, Neil Sheehan, Charles Mohr…viết lại theo lời tường thuật từ những viên cố vấn nầy tuổi khoảng 30, 40, tràn đầy năng nổ, tự tin cao độ cách ‘’tự tin có tính di truyền’’ của gịng giống da trắng thượng hạng sau ba Thế Kỷ thống lĩnh thế giới với chủ nghĩa tư bản [Phát xít Đức lẫn cộng sản (cùng mang nhăn hiệu người Đức chứ không của ai khác) cũng chỉ là biến thái quá độ (trở thành hai mặt tương phản) từ chế độ tư bản Tây Âu], nay hiện thực quyền bá chủ thế giới trên tất cả các lănh vực (khoa học-kỹ thuật, kinh tế-tài chánh, chính trị-quân sự), qua tác động quyết định của đồng Đô la Mỹ. Những Cố Vấn Mỹ trẻ tuổi nầy (từ thực lực, vị thế Quân Đội, nhiệm vụ chính trị-quân sự và có cả ư nghĩa một cuộc ‘’cách mạng ư thức hệ’’ mà họ là thành viên đại diện) tự đánh giá bản thân là những nhân vật ngoại hạng (theo những mẫu mực vừa thực, vừa giả, được thông tục hóa, quảng cáo cùng khắp, khắc sâu vào tâm lư đám đông của một ‘’xă hội kỹ thuật-tiêu thụ-giải trí’’ để nên thành một khuôn đúc ‘’y như thực’’, gồm tổng hợp…John Wayne, James Bond, Rambo, Batman…) Và v́ ‘’văn hóa cũng chỉ là một kỹ nghệ’’ được tận dụng tới nơi tới chốn, theo cách định nghĩa của Robert Lekachman (Báo New York Times khi điểm sách ‘’The Culture Consumer’’ của Alvin Toffler, St Martin’s Press, NY 1964), nên loại mẫu mă ‘’y như thực’’ kia qua ‘’kỹ nghệ văn hóa tiêu thụ’’ được tổ chức cao từ lối sống Mỹ đă ‘’biến tướng nên thực’’ theo một diễn tiến tự nhiên, vô cùng ‘’hợp lư’’. Chuỗi biến tướng kia hiện thực qua tập thể viên chức Ṭa Đại Sứ từ cấp cao nhất đến nhân viên điều hành, thành phần Cố Vấn Mỹ ở các đơn vị Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, những chuyên viên B́nh Định, T́nh Báo, Chính Trị thuộc các Pḥng, Sở thuộc quyền điều động bởi Ṭa Đại Sứ ở Sài G̣n, Phóng Viên những nhật báo, tuần báo lớn, Hăng Thông Tấn do tài phiện Mỹ nắm giữ. Tất cả tập họp đông đúc, đa dạng nầy tự động biến tướng nên thành những ‘’nhân vật huyền thoại, loài người có khả năng thay đổi, giải quyết tất cả mọi t́nh huống’’, đi đến mức độ tự cho ḿnh (và cơ quan ḿnh phụ trách) có trách nhiệm, nghĩa vụ mang vác vận mạng của toàn thế giới, của mỗi dân tộc, mỗi con người (những quốc gia và những sắc dân nhận lănh viện trợ Mỹ lại là những xác chứng rơ nét hơn cho quan niệm Americanism nầy). Huống ǵ ở đây, nơi Miền Nam, với một chủng loại người thuộc một dân tộc kém cơi chỉ có thể là ‘’những người t́nh hảo hạng, nhưng không thể là những chiến sĩ can đảm được, tuy nhiên, nếu như được huấn luyện và thúc vào đít th́ có thể khá hơn!!’’ Lời của Cố Vấn John Paul Vann (chỉ là một Sĩ Quan cấp Tá trong thời điểm ấy) nói với David Halberstand về ‘’trị giá’’ của người Việt, người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (nếu muốn nói rơ hơn). Thái độ nầy không khác xa với những ‘’ông quan’’ xuất thân từ Quân Đoàn Viễn Chinh, hoặc Bộ Thuộc Địa Đế Quốc Pháp đánh giá những Kỳ Hào, Tổng, Lư, Cai, Đội khố xanh, khố đỏ người Việt ở Thế Kỷ trước.

Thế nhưng, giữa những người Mỹ khác biệt nhau về chức vụ, công tác, phương tiện diễn đạt, cách thức thực hiện, cho dù họ chỉ nhắm đến một mục tiêu duy nhất, tối thượng: ‘’Bảo vệ quyền lợi của xă hội Mỹ, người lính của Quân Đội Mỹ’’, cách đánh giá cuộc chiến tranh mà họ bày ra ở Việt Nam lại theo những quan điểm hoàn toàn khác hẳn. Điển h́nh cho sự phân hóa này là bản thân Tổng Thống Kennedy cũng đă phải hơn một lần kêu lên với các Phụ Tá: ‘’Có phải các ông đă đến và trở về cùng một nước đấy phải không ? khi đọc hai báo cáo t́nh h́nh quân sự-chính trị-xă hội hoàn toàn đối nghịch trước khi có quyết định chấp thuận, hay gạt bỏ dự mưu lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Và khi cần có chọn lựa chung quyết đối với sự kiện nghiêm trọng nầy th́ vị Tổng Thống được tiếng bản lĩnh, sắc xảo kia phải thốt lời thở than với một người bạn: ‘’Chính phủ của tôi bị vỡ toang ra rồi!’’ khi nghe những ư kiến, đánh giá hoàn toàn mâu thuẫn của những thành viên nội các về cùng một vấn đề, một đối tượng Lượng Định T́nh Thế Việt Nam (4).

Trong t́nh h́nh phân liệt từ thượng tầng lănh đạo đến thành phần chỉ huy trung cấp như vừa kể ra, chính phủ Mỹ nơi chính quốc, chốn xa đất nước Việt Nam nửa ṿng thế giới lại muốn toàn quyền chỉ huy, quyết định về một cuộc chiến dai dẳng, thiệt hại nhất, hao tốn những số lượng tài chánh khổng lồ qua tận dụng, tiêu phí nguồn vật lực, khí tài tưởng như bất tận và điều động một khối nhân lực đắt giá nhất của Quân Sử Thế Giới (chỉ một thứ không được người Mỹ kể ra khi kết toán chiến tranh Việt Nam là sinh mạng dân, lính của Quốc Gia gọi là Việt Nam Cộng Ḥa với những tổn thất không thể nào bồi hoàn đối với toàn dân tộc nầy, nếu tính cả hai miền Nam, Bắc. Lẽ tất nhiên, trách nhiệm về phía người cộng sản lại là một vấn đề khác), mà cho đến nay, gần ba mươi năm sau ngày kư Hiệp Định Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam (27 tháng 1 năm 1973), vẫn chưa có kết luận chung nhất, huống hồ lúc chiến tranh đang được thử nghiệm vào thời đoạn bắt đầu thập niên 60.

Trận Ấp Bắc mở màn ngày 2 tháng 1 1963 là một trận chiến điển h́nh của giai đoạn vừa kể ra trên, mà từ đó, góp phần vào việc thành h́nh những quyết định chính trị, quân sự quan trọng của chính phủ Mỹ, dẫn dắt đến lần chung cuộc của miền Nam vào năm 1975. Cũng nói rơ một điều trận đánh xẩy ra chỉ sau ngày Tướng Huỳnh Văn Cao nhận nhiệm vụ một ngày và cao điểm chiến trường xẩy ra vào ngày cuối tuần, thứ bảy (mồng 5) và chủ nhật (mồng 6) tháng Giêng Dương Lịch, khi Tướng Cao chỉ huy cuộc hành quân truy kích lực lượng cộng sản. Có một yếu tố ít ai để ư, cho dù người nhạy cảm nhất đấy là, ‘’ngày N của cuộc hành quân là 3 tháng 1’’ Sinh nhật Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Không biết phía bên nào đă chủ động giăng ra ‘’cái bẫy hào nhoáng 3 tháng 1’’ nầy, nhưng chắc một điều Ngày N của cuộc hành quân đă không c̣n là một điều bảo mật quân sự.

Được tin Quân Báo khoảng hơn 100 lính cộng sản (của hai đại đội trừ) bố trí dài theo các ấp chiến đấu Ấp Bắc, Tân Thới, thuộc Xă Ấp Bắc, Quận Tân An, Tỉnh Mỹ Tho, khoảng 40 dặm Tây-Nam Sài G̣n, ngày 2 tháng 1 năm 1963, Đại Tá Bùi Đ́nh Đạm, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh sử dụng một Tiểu Đoàn cơ hữu trực thăng vận xuống băi đáp phía Bắc mục tiêu, từ đây đánh vào Ấp Bắc băng qua những khu đồng ruộng trống trăi sau mùa gặt. Lực lượng địa phương gồm hai Tiểu Đoàn Bảo An (sau 1965, cải danh thành Địa Phương Quân) Tỉnh Mỹ Tho do Thiếu Tá Lâm Quang Thơ chỉ huy, di chuyển từ phía Nam làm thành phần chận bít không cho bộ đội cộng sản rút ra hướng nầy. Đại Úy Lư Ṭng Bá điều động Đại Đội 7 Cơ Giới gồm bốn Chi Đội Thiết Vận Xa M-113 (một Chi Đội chỉ huy và ba Chi Đội tác chiến) dự trù tấn công dứt điểm mục tiêu từ hướng Tây. Khoảng đồng ruộng phía Đông được bỏ trống để đánh lừa thành phần bộ đội cộng sản tháo chạy khỏi Ấp Bắc và sẽ là mục tiêu để phi, pháo dứt điểm, tiêu diệt đối phương. Cuộc hành quân đặt dưới quyền chỉ huy tổng quát của Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Quân Khu với ngày ‘’chiến thắng dự trù 3 tháng 1 để dâng lên Tổng Thống một món quà sinh nhật có ư nghĩa’’.

Nhưng sự thể hoàn toàn không đúng như trù liệu đối với cả hai bên lâm chiến. Về phía cộng sản, lực lượng bố trí tại Ấp Bắc không chỉ là quân số hơn 100 của hai đại đội địa phương như ước tính ban đầu từ phía Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV, Sư Đoàn 7 mà là hơn ba trăm quân cộng sản của hai tiểu đoàn chủ lực 514 và 316 thuộc vùng Tiền Giang, Đồng Tháp. Đạo quân nầy chiếm giữ địa thế thuận tiện dọc theo những bờ kinh, chủ động tổ chức thế trận, kiểm soát toàn bộ ‘’xạ trường-băi đáp’’ của đơn vị Bộ Binh Sư Đoàn 7 được trực thăng vận đến. Theo thuận ngữ quân sự khi băi đáp bị ‘’Hot LZ’’, tức là đă lâm t́nh trạng nguy hiểm bất lợi nhất đối với một cuộc hành quân trực thăng vận. Vào năm 1963, chiến thuật này đang ở giai đoạn thử nghiệm và trận Ấp Bắc lại là một của những lần thao dượt đầu tiên. Và qua báo chí (với đối tượng là quần chúng tại Mỹ) th́ cuộc hành quân trực thăng vận lại được viết lại một cách ‘’tuyệt với’’ như sau: ‘’Đi ra trận (trên trực thăng) giống như ngồi ghế dành riêng cho báo chí dự khám một trận football…Và thế rồi, thấy dưới kia một tên việt cộng chạy loạng choạng, ngả nghiêng trên đồng ruộng…Trực thăng xà xuống đuổi theo…(5) ‘’Cảnh mô tả của Halberstan nhân ngày sinh nhật 28 tuổi, được ‘’ông thầy John Paul Vann’’ cho đi theo dự cuộc ‘’săn người’’, như bọn lănh chúa thời Trung Cổ dùng chó săn tù nhân để giải trí. Trận chiến không cân sức này (v́ một bên chỉ là đám du kích ngu ngơ như vừa mô tả trên), một bên lại được Cố Vấn Mỹ tận t́nh ‘’làm thầy chỉ dạy’’ cách đánh giá của Halberstan về Vann nói riêng, và các Cố Vấn Mỹ nói chung, đồng thời được yểm trợ phi pháo tối đa) đáng lẽ kết thúc mau chóng với thắng lợi dễ dàng, vẻ vang (như cách kể lại của Hallberstan, hoặc như trong combat, bộ phim chuyện chiến tranh dài nhiều kỳ chiếu trên TV, Đài 11 của Quân Đội Mỹ ở Việt Nam), nhưng khi vị sĩ quan Việt Nam chỉ rặc một loại ‘’raggedy-ass little bastard’’, chữ nghĩa của Neil Sheehan, Kư Giả Hăng Thông Tấn UPI (5bis), nên kéo theo lần chết chóc, thất bại cho Cô Vấn, Quân Đội Mỹ, làm hư hỏng ước tính chiến lược chính trị của chính quyền Mỹ.

Và khi trận chiến kết thúc, (th́ tựa như những lời kể lại khác nhau về bi kịch ở Cổng Rashomon của phim ảnh đạo diễn Kurosawa), Tướng Cao báo cáo về Bộ Tổng Tham Mưu và Dinh Độc Lập những chiến thắng to lớn. Tướng Paul Harkins, Tư Lệnh MACV tiếp lời gởi về Ngũ Giác Đài, đến Tướng Maxwell Taylor, Tham Mưu Trưởng Liên Quân và Bộ Trưởng Quốc Pḥng McNamarra những tin tức thắng lợi ‘’có tính khả quan’’. Viên Bộ Trưởng tài gỏi nầy liền ra lệnh Đô Đốc Harry Felt, Tư Lệnh Hạm Đội Thái B́nh Dương đến ngay Sài G̣n hai ngày sau để xét xem sự thực chiến thắng. Vị Đô Đốc đưa ra nhận định: ‘’Đấy là một chiến thắng của Quân Đội Nam Việt Nam v́ quân cộng sản đă bỏ vị trí mà chạy’’ Nhận định được quan chức quân sự, chính khách cao cấp người Mỹ tán đồng, v́ họ cho rằng, theo chiến tranh quy ước (như vừa xẩy ra ở Đại Hàn 1950-1953), khi địch quân (nay cũng là một đối tượng có chung tính chất, phương thức tác chiến như bộ đội cộng sản Bắc Hàn) bỏ vị trí, tức là quân chính phủ đă thắng lợi (6). Nhưng Trung Tá John Paul Vann, Cố Vấn của Đại Tá Bùi Đ́nh Đạm th́ lại có nhận định khác hẳn, và chuyển cho báo chí bản đánh giá của riêng ḿnh về cuộc hành quân: ‘’Đấy là một cuộc tŕnh diễn thảm hại chẳng ra cái đếch ǵ cả…(7)’’. Vài tháng sau, khi bị mất chức, viên sĩ quan nầy tấn công thẳng thừng giới chức Mỹ lẫn Việt, Ṭa Đại Sứ ở Sài G̣n và Washington. Y cho rằng: ‘’Thành phần lănh đạo Mỹ muốn lấp liếm sự thật về chiến tranh Việt Nam, do từ tham vọng quá độ…Muốn dựng nên (một cách giả tạo) thành quả cụ thể chắc ăn’’. Về phía chính phủ Sài G̣n th́ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị cáo buộc: ‘’Cố duy tŕ t́nh trạng bất an ninh để nhận viện trợ Mỹ!!’’ (8). Chẳng biết căn cứ vào đâu, Vann cho rằng: ‘’Thay v́ thả Tiểu Đoàn 1 Dù xuống phía Đông của Ấp Bắc để chận đường tháo lui của lực lượng cộng sản, th́ Tổng Thống Diệm lại ra lệnh thả xuống phía Tây vào lúc trời hoàng hôn, gây nên cảnh giao tranh hỗn loạn giữa hai đơn vị bạn (quân Dù và Sư Đoàn 7 Bộ Binh)’’. Sự nhầm lẫn (cố ư) nầy được Phạm Phong Dinh kể lại trong ‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa Trong Cơn Băo Lửa, trang 118’’.

Đối với những nhân sự trực tiếp tham dự trận đánh cũng có cách tường thuật đối nghịch. Đại Úy Lư Ṭng Bá, Đơn Vị Trưởng Đại Đội 7 Cơ Giới (chiến xa) th́ cho rằng thiệt hại hai bên ngang nhau, Đại Đội của ông mất 8 Xạ Thủ đại liên, phía cộng sản để lại 8 xác chết đếm được. Đại Úy Bá nói thêm: ‘’Sở dĩ các Xạ Thủ đại liên bị thiệt mạng là do Bộ Tổng Tham Mưu không lưu ư phiếu tŕnh của ông về việc thiết trí các tấm chắn đạn trên pháo tháp của xe M-113, cũng một phần địa thế không thuận tiện, nên ông đă phải bố trí các thiết vận xa theo đội h́nh hàng dọc khiến cuộc điều quân bị chậm chạp. (9)’’ Khác với lần đụng tr ận sau nầy (cũng ở Ấp Bắc, đầu năm 1964), ông đă bố trí Chi Đoàn Thiết Vận Xa theo đội h́nh hàng ngang, thêm đơn vị Biệt Động Quân của Đại Úy Sơn Thương tùng thiết, nên ông đă ‘’đấm một quả thôi sơn vào mặt việt cộng’’ với chiến thuật điều quân nhanh chóng hiệu quả (9). John Scanlon kể lại chuyện này cho John Paul Vann. Vann truyền lại cho những ‘’tử đệ’’ thân tín trong báo giới (do chính N. Sheehan hănh diện tự nhận), những gă nầy tiếp đưa lên báo và sau này viết thành sách được giới phê b́nh Mỹ đánh giá: ‘’Một cuốn sách viết về lịch sử (Việt Nam) tuyệt tác nhất’’ Báo Chicago Sun Times đánh giá về ‘’Việt Nam, A History’’ của Stanley Karnow’’.

Nhưng dù có ác tâm, thiên kiến bao nhiêu, những cây viết ‘’trung trực, giỏi gian’’ kể trên của báo giới Mỹ cũng không thể có một lời xuyên tạc nào đối với Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù, đơn vị chịu hoàn cảnh tác chiến bất lợi nhất thả xuống trận địa lúc trời sập tối, không định rơ được địa thế, vị trí quân bạn. Và tất nhiên, cũng chịu thiệt hại lớn nhất, Chết 19, bị thương 33, gồm Đại Úy Nguyễn Trung Hiếu, chỉ huy Đại Đội nhảy xuống đầu tiên và viên Trung Sĩ Cố Vấn Mỹ. Phía Mỹ bị thiệt hại 5 trực thăng và những Phi Hành Đoàn đồng tử trận.

Báo cáo về kết quả trận đánh không chỉ giới hạn trong phạm vi quân sự, những thành phần chống đối chiến tranh Việt Nam, hoặc có hiềm khích với cá nhân Tổng Thống Diệm, vợ chồng Cố Vấn Nhu, nhân cơ hội, nại cớ chính quyền Miền Nam bất lực, thúc dục Tổng Thống Kennedy quyết định loại bỏ người khai sinh nên nền Cộng Ḥa Miền Nam. Tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Sài G̣n tháng 8 năm 1963 bật đèn hiệu cho đánh Tướng Tá để thực hiện âm mưu nhẫn tâm, vụng về nầy mà thật sự đă có mầm mống sâu xa từ nhiều phía. Trước tiên, phải kể đến Averell Harriman, sau nầy là Đại Sứ toàn quyền của chính phủ Johnson (1965), người được đánh giá là một Nhà Ngoại Giao đa năng, tinh không qua chủ trương hoàn hoăn với phe cộng sản (cụ thể với Liên Sô từ những năm 40 khi là Đại Sứ ở đây), và sau nầy, năm 1963, khi thương thảo cùng Liên Sô về Hiệp Ước Ngưng Thử Vũ Khí Nguyên Tử hoặc đồng thuận cùng Trung Cộng về một giải pháp trung lập Lào, có thêm sự tán đồng mạnh mẽ của Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao Chester Bowles với lời nói tin tưởng: ‘’Biện pháp trung lập hóa Lào, là mẫu mực mở rộng cho toàn vùng Đông Nam Á’’ và nhất là Roger Hilsman Thứ Trưởng Ngoại Giao, Đặc Trách Đông Nam Á Vụ. Nhưng bởi Tổng Thống Diệm lại hoàn toàn phản đối quan điểm nấy v́ ‘’trung lập hóa Lào tức là bật đèn xanh cho bộ đội Bắc Việt xâm nhập vào Nam theo đường Hồ chí Minh’’ chạy dọc theo sườn Tây Trường Sơn. Từ Đèo Ngang, Bắc Đồng Hới, đoàn xâm nhập rẽ vào đất Lào, thay bộ đồ xanh của bộ đội Pathét Lào và chiếc nón lưỡi trai, rồi từ đó đi theo hành lang an toàn (do Pathét Lào chiếm đóng, kiểm soát) để về Tchépone, đi sâu xuống vùng Ba Biên Giới (9 bis), chấm dứt nơi điểm hẹn Lộc Ninh, Hớn Quản của miền Đông Nam Bộ. Từ khác biệt quan điểm chiến lược-chính trị đến những hiềm khích mang sắc thái cá nhân, tất cả đồng bùng nổ không che dấu khi có hoàn cảnh thuận tiện. Và trong chính giới Mỹ, sự mâu thuẫn về chính sách lại càng nổi bật qua sự kiện phản ảnh tính cách, phản ứng, quan điểm khác biệt giữa những cá nhân Averell Harriman đă thẳng thừng từ chối chở Đại Sứ Nolting từ Ṭa Bạch Ốc về Trụ Sở Bộ Ngoại Giao sau một phiên họp, v́ vị Đại Sứ đă cực lực chống đối giải pháp thay thế, lật đổ Tổng Thống Diệm (10). Và Roger Hilsman là tác giả bức Công Điện ngày 24 tháng 8 năm 1963 gởi về Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n để nơi đây bật đèn tín hiệu cho đám Tướng Tá giờ quyết định hành động. Bức điện văn tai họa này sau đó chính Tổng Thống John Kennedy phải nhận định lại là một ‘’sai lầm nghiêm trọng’’, v́ lúc ấy ông đang nghỉ mát tại Cape Cod nên nghĩ rằng các Cố Vấn cao cấp như Ngoại Trưởng Dean Rusk, Bộ Trưởng McNamara, Đại Tướng M. Taylor đồng chấp nhận. Hóa ra tất cả chỉ do từ bộ ba Harriman, Hilsman và M. Forrestal, Thứ Trưởng Quốc Pḥng của McNamarra (11). Tóm lại, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm chỉ có ‘’tội’’ do đă thấy điều sai lầm của Hiệp Định về Lào mà Harriman và Hilsman cố công gây dựng để tạo thành quả cho tương lai mai hậu đối với sự nghiệp chính trị của riêng bản thân của họ.

Trở lại vấn đề quân sự của Nam Việt Nam, Hiệp Định đ́nh chiến ở Lào kư kết ngày 23 tháng 7 có ngay hệ quả, từ những nhóm du kích cấp Tiểu Đội, Trung Đội với những vũ khí thô sơ như súng ngựa trời, lựu đạn nội hóa, đạp lôi, chông, ḿn tự chế…lực lượng cộng sản chỉ trong một thời gian ngắn sau khi ‘’đường đi B (Miền Nam) được thông do hiệp định ‘’đ́nh chiến’’ ở Lào tạo điều kiện, hoàn cảnh thuận tiện’’ đă có khả năng phát triển những trận đánh lên cấp đại đội, tiểu đoàn. Trận Ấp Bắc đầu năm 1963 vừa kể trên là một khởi đầu nguy biến, tiếp theo cuộc biến loạn 1.11 ở cuối năm như một đập vỡ tồi tệ với lần giải thể ngay lập tức 2000 Ấp Chiến Lược theo lệnh của Dương Văn Minh đẩy t́nh h́nh quân sự Miền Nam vào thế hiểm nghèo, thụ động. Ngày 1 tháng 11 năm 1964, lần đầu tiên Phi Trường Biên Ḥa bị pháo kích, cũng là một căn cứ quân sự lớn đầu tiên của Miền Nam bị tấn công phá hoại bởi một đơn vị hỏa lực pháo, cối, loại vũ khí của chiến tranh quy ước tháng 12 cùng năm 64.Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân, Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến bị tổn thất nặng bởi rơi vào thế trận phục kích ở B́nh Giả, Phước Tuy (Đông Nam Sài G̣n khoảng 100 cây số đường thẳng) do một trung đoàn cộng sản thực hiện (các trung đoàn nấy sau đó biến chế thành sư đoàn Công Trường 7, thành phần ṇng cốt của lực lượng vũ trang thống thuộc Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Giải Phóng) tháng 6 năm 1965 hai trung đoàn Q762 và Q763 của công trường 7 trên lại thực hiện một cuộc vận động chiến quy mô hơn ở Xă Đồng Xoài, B́nh Dương (Bắc Sài G̣n) gây thiệt hại lớn cho Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Tiểu Đoàn 7 Dù và Tiểu Đoàn 52 Biệt Động Quân. Sài G̣n lẫn Ṭa Bạch Ốc rúng động, bởi chiến trường chỉ cách Thủ Đô Miền Nam không quá 100 cây số đường thẳng. Ấp Nhà Việc Phú Ḥa Đông bên sông Sài G̣n đă là những chiến trường phải dùng đến máy bay dội bom yểm trợ lực lượng bộ binh mới vào được.

Thế nước quả đă đến hồi thật sự nguy ngập. Nhưng trước khi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ kịp phối trí quân để tăng cường pḥng thủ vùng biển Miền Nam th́ đơn vị bách thắng, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù với người chỉ huy Ngô Quang Trưởng đă lập nên kỳ tích hiển hách. Chữ nghĩa không là lời nói văn hoa. Chúng ta hăy cùng sống lại khúc hùng ca với máu mỗi người lính đổ xuống nơi những chiến địa hung hiểm trên từng vùng đất khổ quê hương.

Với 100 trực thăng đổ quân và vơ trang yểm trợ, ngày 27 tháng 4 năm 1964 Tiểu Đoàn 5 nhảy xuống Mật Khu Đỗ Xá, vùng Quận Minh Long, Tây-Bắc Quảng Ngăi sát biên giới Kontum, chận đứng kế hoạch điều quân của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B1 (danh hiệu phân chia vùng tác chiến của bộ tổng quân ủy cộng sản Hà Nội Miền Nam Khu ‘’B’’), mưu định cắt Miền Trung nước Việt Nam theo đường hành lang chạy dài từ vùng rừng Kontum xuống bờ biển Quảng Ngăi (như đă thực hiện một lần trong chiến tranh 1945-1954). 15 trực thăng trúng đạn, Tiểu Đoàn chịu tổn thất ngay từ giờ phút đầu tiên xuống băi đáp, bốn Đại Đội tác chiến lẫn Đại Đội chỉ huy liên tiếp chạm địch, nhưng với chiến thuật điều binh tấn công thần tốc, sau ba ngày kích chiến, Tiểu Đoàn phá vỡ căn cứ địa kiên cố bất khả xâm phạm của cộng sản đă xây dựng từ giai đoạn chiến tranh lần thứ nhất 1945-1954. Từ căn cứ địa này, lực lượng cộng sản mới có thể tràn xuống đồng bằng, thành lập những ‘’vùng giải phóng’’ mới. Các chiến khu Ba Tơ, Mộ Đức một thời vang danh là mở rộng từ căn cứ địa Đỗ Xá này. Tiểu Đoàn tịch thu 160 súng đủ lại, kể cả những súng cộng đồng (của phía cộng sản) được t́m thấy đầu tiên ở chiến trường miền Nam (12). Muốn biết tầm quan trọng của trận chiến, ta hăy lưu ư đến chỉ tiêu kỹ thuật: ‘’Theo thống kê của chuyên viên quân sự: Muốn lấy được một vũ khí th́ nhất phải có một binh sĩ bị tử thương, và nếu đă có một binh sĩ tử thương th́ ắt phải có ba binh sĩ bị thương, mất năng lực chiến đấu’’. Đơn vị cấp Tiểu Đoàn Nhảy Dù vào thời điểm kia có quân số hành quân trung b́nh từ 500 đến 600 người, khinh binh chưa được trang bị súng XM-16, một Trung Đội tác chiến chỉ có hai khẩu AR-15. Cần biết như thế để thấy ra sức chiến đấu uy mănh của Tiểu Đoàn 5 đối với một lực lượng địch chắc hẳn phải là cấp trung đoàn chính quy (không kể đơn vị du kích, lực lượng địa phương) mới có được thành quả chiến thắng với số vũ khí tịch thu như trên. Trở lại chiến trường miền Nam, chiến thắng ở Đỗ Xá năm 1964 được lập lại thêm một lần nơi cửa ngơ Sài G̣n, đánh tan lời tự tán dương ‘’bộ đội anh hùng vũ trang mặt trận giải phóng niền Nam. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng’’ của những đơn vị cộng sản vùng miền Đông Nam Bộ. Tháng 2 năm 1965 dọc Quốc Lộ 15, đường đi Sài G̣n-Vũng Tàu, phối hợp với đơn vị bạn. Tiểu Đoàn 7 Dù, làm thành phần nút chận để không cho địch quân chạy qua Quốc Lộ 15, khoảng núi ông Trịnh, Phước Tuy (Bà Rịa), Tiểu Đoàn trực thăng vận nhảy xuống mật khu Hắc Dịch, xong từ trong ḷng địch đánh bung ra. Trận chiến kéo dài từ lúc ngày vừa rạng qua đêm khuya. Khoảng rừng tối tăm dày đặc sau hai ngày tác chiến rụng sạch cành lá bởi đạn pháo, đến sáng thứ ba, lính Tiểu Đoàn 7 thấy qua màn khói đục bóng dáng quân bạn chạy thấp thoáng truy kích tàn binh địch, thực hiện cuộc rượt bắt cá nhân đối với những cán binh cộng sản c̣n lại của trung đoàn thuộc công trường 7.

Tiểu Đoàn 5 không chỉ đánh phụ hận cho đơn vị bạn những Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân bị tổn thất trong trận chiến mùa Đông 1964, Cũng do những kẻ địch chung phiên hiệu công trường 7 kia, cũng nơi vùng rừng B́nh Giả. Tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) nầy. Nhưng đă lập nên thế cân bằng an toàn chiến thuật cho mặt trận Vùng 3 và khu vực Biệt Khu Thủ Đô. Bởi nếu phía cộng sản thắng lợi nơi vùng chiến trường nầy. Đường về Sài G̣n chỉ cần một đêm điều quân (Năm 1975, chúng ta đă chứng kiến hướng tấn công (Sài G̣n) nầy được thực hiện với thời gian chưa tàn điếu thuốc ở những ngày cuối tháng Tư)

Lần cứu nước đầu tiên nầy có mấy ai hay, kể cả những chuyên viên nghiên cứu t́nh h́nh, hoạt động-chính trị quân sự của hai phía Mỹ-Việt ?

Thiếu Tá Ngô Quang Trưởng vinh thăng Trung Tá tại mặt trận, ân thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương vào năm 33 tuổi, chuyển về nhậm chức Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù (đến 15 tháng 12 năm 1965, đơn vị mới biên chế thành cấp Sư Đoàn). Hằng ngày, ông đi lặng lẽ từ Văn Pḥng Tham Mưu Trưởng xuống nhà ăn binh sĩ, qua Khu Trung Tâm Huấn Luyện Tân binh, Huấn Luyện Nhảy Dù. Ánh mắt sắc, nghiêm, nhưng nhân hậu không bỏ sót một h́nh ảnh, sinh hoạt nhỏ nhặt nào dù chỉ là của một tân binh.

Ghi Chú:

1.- Marilyn B. Young the Vietnam Wars 1945-1990 Harper Perenial NY, USA 1999 (p. 92)

2.- Stanley Karnow Vietnam A History Penguin Books NY, USA 1984 (p.280)

3.- Marilyn B. Young (ibid p. 94)

4.- Stanley Karnow (ibid p. 304)

5.- Marilyn B. Young (ibid p 91)

5bis.- Chính Đạo Việt Nam Niên Biểu. Nhà xuất bản Văn Hóa Houston TX, USA. Trang 266.

6.7.8.- Stanley Karnow (ibid p. 278, 279)

9.- Lư Ṭng Bá Hồi Kư 25 Năm Khói Lửa. Nhà xuất bản Tú Quỳnh CA, USA 1995. Trang 78.

10.- Stanley Karnow (ibid p.304)

11.- Robert S. McNamara In Retrospect Random House NY, USA (p. 52-55)

12.- Đoàn Thêm Những Ngày Chưa Quên. Nhà xuất bản Phạm Quang Khai Sài G̣n 1966 (Trích đoạn năm 1965)

LẦN GIỮ NƯỚC THỨ HAI

Bắt đầu mùa Hè 1966, miền Trung dậy nên cơn băo lửa ly khai từ sự kiện Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Vùng 1 (Đà Nẵng) vào Sài G̣n họp Hội Đồng Quân Lực (10 tháng 3) và bị những Tướng lănh Trung Ương (Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Hội Đồng. Nguyễn cao Kỳ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Nguyễn Hữu Có Tổng Ủy Viên Quốc Pḥng) cách chức. Ngoài lư do Tướng Thi ‘’bất tuân thượng lệnh’’ v́ đồng thuận để những nhân vật khuynh tả, phản chiến (lănh tụ Phật Giáo khối Ấn Quang, Trí Quang nhóm Giáo Sư Đại Học Huế, Thị Trưởng Đà Nẵng Bác Sĩ Mẫn, một người du học Pháp về) khuynh loát, giật dây, ông c̣n là một đe dọa chính trị đáng ngại đối với chức Chủ Tịch Hành Pháp (Thủ Tướng) của Nguyễn cao Kỳ, cũng cần tính đến những hiềm khích, đấu đá v́ hành vi tư cách cá nhân giữa hai người. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (Huế) được cử vào Đà Nẵng thay thế Tướng Thi giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn, Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân thay thế Tướng Chuân chỉ huy Sư Đoàn 1.

Ngày 12 tháng Ba, lấy cớ yêu cầu phục hồi chức vụ cho Tướng Thi, phong trào chống đối chính phủ trung ương nổ bùng ở Huế, Đà Nẵng, cũng đồng thời đ̣i chính quyền Quân Nhân (Sài G̣n) giải tán, thành lập một chế độ dân cử, sinh viên, thanh niên vơ trang thuộc Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng dưới quyền điều động của nhóm Tăng Sĩ Phật Giáo quá khích thực sự tiến hành cuộc khởi loạn (trong giai đoạn này cũng như vào thời gian sau, có nhiều xác chứng phong trào đă hoàn toàn bị dẫn dắt bởi cán bộ cộng sản nội thành của những Tỉnh cực Bắc Trung Bộ, Trí Quang sau năm 1975 là một bằng cớ). Chính phủ Quân Nhân ở Sài G̣n tạm thời ḥa dịu, hứa hẹn thành lập Hội Đồng Tư Vấn, soạn thảo Hiến Pháp trong ṿng hai tháng để chuẩn bị bầu Quốc Hội Lập Hiến, sau đó sẽ có bầu Tổng Thống vào năm 1967. Chủ Tịch Hành Pháp Nguyễn cao Kỳ c̣n xác định rơ một thời điểm, 15 tháng 8 sẽ bầu Quốc Hội (sau dời lại tháng 10 năm 1966). Nhưng tất cả chỉ là những giải pháp tạm thời, bề mặt, phe tranh đấu (thành phần chỉ huy của phong trào Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng) tiếp tục biểu dương uy thế và bày ra điều yêu sách cuối cùng: Chấm dứt chiến tranh, người Mỹ ngưng oanh tạc và rút quân khỏi Việt Nam bất chấp chiến thuật khôn ngoan của Trí Quang qua buổi thuyết giáo (18 tháng 4) tại Chùa Từ Đàm: ‘’Kêu gọi Phật Tử ngưng biểu t́nh, Quân Nhân ly khai nộp súng đạn lại cho chính phủ’’. Những cuộc biểu t́nh ‘’chống Mỹ cứu nước’’ ở Huế, Đà Nẵng tiếp theo lan rộng khắp cả nước, tại những Thành Phố quan trọng, nơi có quân Mỹ đồn trú. T́nh h́nh trở nên xấu hơn khi xẩy ra sự kiện một binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ xông vào đám biểu ngữ bài Mỹ (viết bằng Anh Ngữ) trong một buổi biểu t́nh tại Huế. Chính phủ Quân Nhân tại Sài G̣n đợi đến lúc phong trào trở nên quá khích một cách lộ liễu (bài Mỹ chống Công Giáo), để có duyên cớ chính đáng (nhất là giải thích với Ṭa Đại Sứ, dư luận báo chí Mỹ) gởi quân trừ bị ra Đà Nẵng. Lực lượng Quân Đội ly khai phần đông là Quân Nhân thuộc các đơn vị chuyên môn nên không thể nào đương cự với Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân từ Sài G̣n đưa ra. Cuối cùng, đến ngày 16 tháng 9, cuộc binh biến miền Trung hoàn toàn bị dẹp tan. Dẫu Trí Quang dùng đến biện pháp cuối cùng, bày bàn thờ ra mặt lộ ngăn cản hướng điều quân của phe trung ương. Các Tướng lănh chỉ huy những đơn vị Vùng 1 bị đưa ra Ṭa, chịu h́nh phạt quân kỷ và buộc giải ngũ. Trung Tướng Hoàng Xuân Lăm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ binh (Quảng Ngăi) được chỉ định nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I. Đại Tá Ngô Quang Trưởng, Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù giữ nhiệm vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1. Đại Tá Trưởng có Đại Tá Lê Văn Thân Phụ Tá, Đại Tá Thân, một trong Tứ Kiệt của Binh Chủng Pháo Binh. Người đứng đầu nhóm bốn người tuấn kiệt này là Trung Tướng Nguyễn Đức Thắng vị Tướng thanh liêm nhất (theo dư luận chung của quân dân miền Nam mà báo Diều Hâu, Sài G̣n đă phổ biến đề cao).

Đại Tá Ngô Quang Trưởng nhận đơn vị, Sư Đoàn 1 Bộ Binh trong một hoàn cảnh bất lợi toàn diện. Những Quân Nhân giữ chức trọng yếu, kể cả Sĩ Quan chỉ huy trung cấp và Hạ Sĩ Quan (nếu là gốc Phật Giáo) đồng bị tuyên chuyển sang những đơn vị thuộc các vùng chiến thuật khác, người c̣n lại không tin những bạn đồng ngũ mới thuyên chuyển đến (t́nh h́nh tương tự ở các cấp chính quyền, quân sự miền Nam như sau đảo chánh 1 tháng 11.1963). Nhưng Đại Tá Trưởng vững tin nơi bản lĩnh cá nhân ḿnh, cùng khả năng đơn vị, đă được thử sức sau hơn mười năm dài chiến trận miền Nam. Ông cũng rất cậy trông vào vị Tư Lệnh Phó, người có khả năng Tham Mưu, tổ chức cao, tâm chất trung trực, đạo đức, thế nên chỉ sau một thời gian ngắn, Sư Đoàn đă chỉnh đốn lại đội ngũ, phục hồi tư thế chiến đấu như hằng có. Bắt đầu với những sĩ quan trẻ, những sĩ quan cấp Úy thuộc các Khóa 14, 16 đến 20 Vơ Bị Đà Lạt hoặc các Khóa tương đương của Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, đơn vị dần thâu đạt những tiến bộ vượt bực sau một thời gian ngắn ngũi trong ṿng một năm. Chiến trận Mậu Thân 1968, Hành Quân Lam Sơn 719 và cuộc phản kích mùa Hè 1972 sau nầy là những bằng cớ chứng thực. Đơn vị thuộc quyền của Người Chỉ Huy Ngô Quang Trưởng là Sư Đoàn Bộ Binh tác chiến hàng đầu của Quân Lực. Không chỉ với Quân Đội miền Nam nhưng nếu so sánh cùng thế giới, chúng ta vẫn giữ toàn quyền hănh diện. Đại Tướng Abrams sau nầy, khi thay thế Tướng Westmoreland chỉ huy Quân Đội Mỹ tại Việt Nam đă nói cùng những sĩ quan, Tướng lănh của ông: ‘’Sư Đoàn của Tướng Trưởng tác chiến trong rừng giỏi hơn chúng ta’’ (13). Sự biến đổi thần kỳ nầy không là chuyện hoang đường. Trận làng Lương Cổ, Thừa Thiên đầu năm 1967 là một thí dụ điển h́nh của lần vượt dậy hào hùng kia.

Hệ thống các làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc Huyện Hương Trà, Thừa Thiên, Tây-Bắc Thành Phố Huế, kết thành một giải hành lang thiên nhiên mà các đơn vị bộ đội cộng sản từ các mật khu vùng Tây-Nam Huế (A Sao, A Lưới), thường sử dụng để xâm nhập tiếp cận Thành Phố (do cố tránh các tiền đồn thượng nguồn sông Hương, mặt Nam Thành Phố). Những làng nầy từ chiến tranh 1945-1954 đă là những căn cứ địa vững chắc ‘’những chiến khu-vùng tự do’’, mà quân đội Liên Hiệp Pháp không thể nào kiểm soát được, bởi hệ thống kinh lạch của ba con sông, sông Hương, sông Bồ, sông Mỹ Chánh tạo nên một vùng trũng thấp nằm giữa Phá Tam Giang, cửa Thuận An và Quốc Lộ I ngăn cản sức tiến của bộ binh, khả năng cơ động của những người chỉ huy quân sự vùng Thừa Thiên-Huế. Lực lượng cộng sản bám chắc củng cố vùng bản lề nầy bởi đấy cũng là nơi ém quân để mở những chiến dịch quan trọng: Cắt đường số I, chận viện lên mặt phía Bắc (Quảng Trị, Đông Hà và xa hơn, Cồn Tiên, Gio Linh, Khe Sanh…) Đại Tá Trưởng sử dụng một Tiểu Đoàn Bộ binh cơ hữu làm thành phần nút chặn dùng Đại Đội Thám Kích của Sư Đoàn, Đại Đội Hắc Báo và Tiểu Đoàn 9 Dù (tăng phái), hợp cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M-113, đơn vị thống thuộc của Sư Đoàn mở hai mũi dùi tấn công chính vào hệ thống công sự, giao thông hào mà có lẽ đă đào từ ngày bắt đầu cuộc chiến và càng ngày càng củng cố độ dày để chịu đựng nổi pháo binh cùng phi cơ oanh kích. Và cũng có thể đây là lần đầu tiên phía bộ đội cộng sản gặp phải một đối thủ kỳ lạ những địch thủ tiến thẳng vào hàng rào hỏa lực của họ. Trận chiến kéo dài từ sáng sớm kéo qua trưa, phía Nhảy Dù, Bộ Binh, Thiết Giáp đồng bị thiệt hại khá nặng nhưng vẫn không thể tiến vào khu làng qua những cánh đồng ngập nước. Cuối cùng Đại Tá Trưởng chuyển lệnh trực tiếp đến cùng với Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhă, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị tăng phái cho khu chiến thuật: ‘’Đơn vị mới thành lập (do biết rơ khi ông giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Dù), anh lại vừa thay thế anh Huệ (viên Tiểu Đoàn Trưởng vừa tử trận tháng trước trong trận Đèo Ba Giốc, vùng Phi Quân Sự), thế nên tất cả thành bại của đơn vị là ở trận nầy đây.’’ Ông không nói hết lời, nhưng người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng đơn vị Dù tăng phái hiểu được ư: ‘’Đây cũng là lúc quyết định một phần sự nghiệp riêng của chính ông, viên Tư Lệnh chiến trường một Tướng lănh xuất thân từ Binh Chủng Nhẩy dù và cả danh dự Binh Chủng cũng sẽ được chứng thực nơi chiến trường hiểm hóc, xa xôi này’’. Thiếu Tá Nhă chuyển lại lệnh cho các Đại Đội Trưởng tác chiến. Và trên cánh đồng loáng nước, trong ánh sáng chập choạng của buổi chiều diễn ra một cảnh tượng khốc liệt hùng tráng…Những chiếc M-113 theo lệnh của Đại Úy Hóa, Chi Đoàn Trưởng đồng mở bung pháo tháp, các xạ thủ đại liên 50 siết cứng ngón tay vào lẩy c̣ tuôn loạt đạn công phá mở toang các vị trí cố thủ của đơn vị việt cộng, lính Nhảy Dù tùng thiết vượt qua mặt chiến xa, tiến lên thanh toán mục tiêu bằng cận chiến. Những Thiếu Úy Thuận Văn Chàng, Phạm Văn Thành, Chuẩn Úy Nguyễn Thành Văn…xông lên trước hàng quân với lựu đạn mở chốt cầm sẵn ở tay. Thân h́nh họ lảo đảo ngă xuống bờ ruộng xong đứng lên lại với những tiếng hô…xung phong…xung phong ḥa lẫn tiếng đạn súng tay nổ bục trong thân thể, da thịt người v́ đường đạn đi quá ngắn. Đám bộ đội cộng sản cố thủ không lường được thế trận với những người lính đối phương quá đỗi kiên cường, nên đồng loạt đứng dậy khỏi giao thông hào, đưa cao tay đầu hàng. Trận chiến kết thúc với lời khai: ‘’Chúng cháu được lệnh cố thủ vị trí v́ đây là vùng giải phóng, quê nhà của đồng chí Đại Tướng!’’ Hóa ra Đại Tá Ngô Quang Trưởng đă phá vỡ huyền thoại từ đă lâu được phổ biến trong bộ đội cộng sản miền Bắc: ‘’Quân giải phóng đă kiểm soát được ba phần tư lănh thổ miền Nam, nhất là những vùng căn cứ địa cách mạng cũ (trước năm 1954), hoặc cơ sở địa phương, quê hương các đồng chí lănh đạo’’. Làng Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá là quê hương của Nguyễn chí Thanh, nhưng bộ đội miền Bắc đă không vào tiếp thu với ‘’chào đón của nhân dân giác ngộ cách mạng’’, mà bởi những người lính Cộng Ḥa theo một cách thế khác hẳn lời tuyên truyền. Tuy nhiên, trận làng Lương Cổ đầu năm 1967, hoặc lần đánh bật toàn diện hạ tầng cơ sở, đơn vị du kích, lực lượng địa phương của bộ đội cộng sản vùng mật khu Phú Thứ, Tây-Nam Huế, bên trái Quốc Lộ 1 đường đi Đà Nẵng vào khoảng gần cuối năm sau nầy chỉ là phần dạo đầu. Phải đợi đến buổi thử sức toàn diện. Khi cộng sản quyết tâm giải phóng miền Nam bằng cuộc Tổng công kích-Tổng nổi dậy theo lời thúc dục từ Hà Nội, với lời thơ ‘’Chúc Tết’’ của Hồ chí Minh đọc trong đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân 1968. Trận thử sức làm sáng tỏ một điều đơn giản cao quư: Quân đội của bên nào thật sự nắm giữ sắc cờ Nhân Nghĩa của Quê Hương.

27 tháng 2 năm 1968. Những giờ cuối cùng ở Ngũ Giác Đài, McNamara sử dụng quyền lực c̣n lại sau 1558 ngày nắm giữ chức vụ trọng yếu nhất nền Quốc Pḥng Mỹ để phủ quyết yêu cầu của Tướng Westmoreland về đề nghị tăng cường thêm 200.000 nhân sự bổ sung trong các lănh vực Chính Trị, Kinh Tế, Quân Sự và Chiến Tranh Tâm Lư. Hành động ‘’được ăn cả ngă về không’’ gọi là khôn ngoan nầy không phải do trí lực sáng tạo riêng, nhưng ông ta đă họ được từ Dean Acheson, theo cách người nầy đă một lần từ nhiệm chức vụ Thứ Trưởng Tài Chánh khi không đồng ư với chính sách tài chánh của Tổng Thống F. Roosevelt đầu thập niên 1930. Nhưng thật chỉ là một cách nói, bởi McNamara đă giữ chức vụ lâu hơn bất kỳ vị tiền nhiệm nào, lâu đến bảy năm với khả năng quyền lực đặc biệt giành riêng qua hai đời Tổng Thống. Danh tính ‘’McNamara’’ đă được dùng để đặt tên cho một pḥng tuyến căn cứ hỏa lực chạy dài từ Cửa Việt ở biển Đông đến Trại Lực Lượng Đặc Biệt Làng Vei sát biên giới Lào-Việt. Cần nói thêm một điều: Chiến tranh Việt Nam có lúc được giới nghiên cứu chiến lược quốc tế gọi là ‘’cuộc chiến McNamara’’ v́ người này đă ‘’tổ chức’’ hoạt động quân sự ở Việt Nam kia thành một tiến tŕnh tiếp vận khổng lồ với phí tổn đến 4 Tỷ Đô la khởi đi từ 1965, thời điểm lực lượng bộ binh Mỹ bắt đầu tham chiến ở Việt Nam. Sư Đoàn 1 Không Kỵ, lực lượng bộ binh cơ động nhất thế giới với một Sư Đoàn trực thăng hơn 400 chiếc cơ hữu cũng là sản phẩm đắc ư nhất của ông Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới sau lần rời chức vụ. Nhưng bởi không muốn mang danh là người có liên hệ đến một thất bại, nên đang trong lúc cao điểm sôi bỏng nhất của cuộc chiến. Bộ Trưởng Quốc Pḥng Liên Bang Bắc Mỹ, McNamara từ chức.

Một tháng trước lần McNamara từ nhiệm, 36 của 44 Tỉnh lỵ, 5 của 6 Thành Phố, 64 của 242 Thị Trấn, Quận Lỵ Thành Phố Miền Nam đồng loạt bị tấn công bởi một lực lượng 323.500 bộ đội cộng sản gồm 97 tiểu đoàn và 18 đại đội đặc công biệt động. Cuộc tấn công khởi đi từ đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân, đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968. Và không phải Sài G̣n với Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham Mưu, Ṭa Đại Sứ Mỹ dẫu đă là mục tiêu hàng đầu của cuộc tấn công nhưng Huế lại là Thành Phố hứng chịu tàn phá nặng nề nhất của trận chiến kéo dài 26 ngày, và không những chỉ thế, cư dân Huế lại là đối tượng phải thực hiện lần ‘’trả nợ máu’’ theo cách định giá của tập đoàn quân đội cộng sản, những tiểu tổ hành quyết nằm vùng trong những ngày chiếm đóng, khi thua trận rút lui. Món nợ máu mà họ không hề vay nhưng phải trả giá đắt với chính cái chết thảm khốc mà chỉ vào thời Trung Cổ các đội binh xâm lược thường hành xử đối với quân, dân của xứ sở đối phương. Phải chăng là giá máu trong vùng ‘’bị Mỹ-Ngụy tạm chiếm’’ vùng đất mà họ đă sống từ trăm năm xưa cũ, bắt đầu từ Thế Kỷ 17, khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa.

Nhưng cuối cùng, Thành Phố Huế được chiếm lại, phục hồi, đạo binh xâm lược từ miền Bắc, từ các mật khu Tây-Nam Huế, vùng Dăy Phố Buồn Thiu dọc Phá Tam Giang buộc phải rút lui, để lại những chiến tích, những hầm chôn người tập thể tại Trường Gia Hội, Băi Dâu, Khe Đá Mài vùng núi Ngự B́nh, những truông, vực thuộc Thôn Ngũ Tây, Quận Nam Ḥa. Cảnh tượng tàn bạo nầy càng đậm thêm tính ác độc của danh tự ‘’việt cộng’’, cùng mối kinh hoàng do họ gây nên. Một mặt khác, khi người dân nghe tiếng báng súng đập lách cách vào những thân người di chuyển, hoặc âm động ŕ rầm của máy xe thiết vận xa M-113, chiến xa hạng nặng, lời chuyển lệnh ŕ rào từ các máy truyền tin có khoa khuếch đại của bộ binh Mỹ…Họ hé cửa nh́n ra từ những căn nhà mái thấp, sụp vỡ, leo lét ánh đèn dầu, qua hàng rào lá chè loang lỗ trốc gốc, cảnh tượng u tối, đe dọa của thời chiến tranh trước 1950, và th́ thào lời mừng rỡ chưa hẳn tin là thật…Lính tới, lính tới…Lính ḿnh tới…Mỹ tới…Mỹ tới…khi họ thấy chạy thấp thoáng theo đội h́nh, dọc hè phố vươn văi thây người trên gạch ngói đổ nát rơi rớt, những dạng người lính với y trang màu lục đậm (bộ binh), hoặc tác chiến hoa của các Binh Chủng Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến với ba lô nổi gồ trên lưng, khối tṛn quen thuộc của chiếc nón sắt. Tất cả đă trở nên biểu tượng của linh thiêng cứu viện, nguồn hy vọng thiết thân giữa cảnh chết, sau bao ngày đe dọa hung hiểm bởi cái chết bao vây. Và khi Huế được sống lại, qua tiếng lời người dân, danh tính, vị Tướng quân: ‘’Ông Trưởng trong Mang Cá ra Gia Hội thăm đồng bào’’ gắn liền cùng chiến công Giữ Nước-An Dân, như Trần Hưng Đạo đă kiên tŕ bảo vệ Thăng Long (cuối Thế Kỷ 13), của Văn Thiên Tường đời Nam Tống (đầu Thế Kỷ 13) chết cùng Thành Tương Dương, hoặc M. I. Kutuzov trải thân với vận mệnh Moscow trong chiến tranh chống Napoléon năm 1812. Chúng tôi không đặt điều so sánh trong văn chương, chữ nghĩa, nhưng xác chứng với máu, xương của dân, quân đổ xuống qua dài cơn lửa đạn. Và điều nầy sẽ thêm một lần xác chứng ở mùa Hè 1972, cũng với người dân xứ Huế. Nay, chúng ta hăy cùng sống lại những thời khắc hào hùng bi tráng của quê hương. Đêm Xuân đẫm nước mắt năm Mậu Thân, 1968.

Hoạt động của phía cộng sản không chỉ là một chiến dịch quân sự thuần túy, do chiến tranh Việt Nam đă tạo nên một thất lợi tâm lư trầm trọng trong dư luận Mỹ Quốc, từ sự kiện Walter Cronkrite đă có mặt tại Sài G̣n ngay trong tháng Hai, khi trận chiến đang bùng nổ giữa những đường phố, để sau đó trong buổi phát h́nh ngày 27 cùng tháng, người hướng dẫn dư luận quần chúng nầy đă mạnh mẽ xác định: ‘’Hơn bao giờ hết, chúng ta có thể nói rằng kinh nghiệm đẫm máu tại Việt Nam sẽ phải mở ra một lối thoát’’. Lời tiên tri nầy được hiện thực bởi ḥa hội Paris khai mạc vào cuối năm 1968 mà áp lực vốn có từ nhiều năm trước. Cụ thể lời như lời thúc dục của McNamara (lại là Mac chứ không ai khác) với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong lần viếng thăm Sài G̣n từ 1967: ‘’Chúng tôi cần thương thuyết với Hà Nội để cho cuộc tuyển cử sắp tới (trong năm 1968)’’, hoặc của Đại Sứ Bunker tại Sài G̣n: ‘’Dư luận Hoa Kỳ đă trói tay Tổng Thống (Mỹ), thế nên phải có cuộc thương thuyết ḥa b́nh (tại Paris) để chứng tỏ cùng Quốc Hội và nhân dân Hoa Kỳ rằng chúng ta (Hoa Thịnh Đốn lẫn Sài G̣n) đều mong muốn ḥa b́nh’’. Hoặc thái độ bất phục tùng của gia đ́nh David Vandivier ở Khu Spanish Harlem, New York mà người cha vốn là cựu chiến binh Thế Chiến Thứ 2 qua quyết định đưa anh em David và John Vandivier đến Canada cuối mùa Hè 1968 để tránh lệnh trưng binh. Và cho dù những sự kiện vừa kể trên đă là điều thực tế, nhưng Vơ nguyên Giáp sau nầy lại xác nhận với Ban Biên Tập Đặc San NAM, Nhà xuất bản Atlas, Tây Âu: ‘’Ư kiến cho rằng Trung Ương đảng đặt nặng vấn đề về các phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ trong quyết định tiến hành Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa ở miền Nam là một nhận định kém cơ sở’’. Cuối cùng, sự thật chỉ phản ảnh đúng nhất qua phân tích của Khối Quân Sử, Pḥng 5 Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa: ‘’Trận chiến Khe Sanh và cuộc Tổng công kích Mậu Thân, (Hiện thực Nghị Quyết 13 Trung Ương đảng) đồng có những mục đích:

- Dồn mọi nỗ lực để chiến thắng về mặt quân sự (đối với lực lượng Mỹ. Điển h́nh mặt trận Khe Sanh), buộc Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam tương tự quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ (Do dư luận phản chiến tại Mỹ làm áp lực như phần trên vừa tŕnh bày. Tuy không là yếu tố quyết định hàng đầu).

- Làm băng ră Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, chứng minh cùng dân chúng miền Nam cũng như dư luận thế giới về sự lớn mạnh (chính trị lẫn quân sự) của phía cộng sản. Đồng thời dựng nên Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ Ḥa B́nh tại Sài G̣n, Huế với mục đích vận động quần chúng nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa.

- Chuẩn bị, củng cố vai tṛ chính trị Mặt Trận Giải Phóng trước khi hội nghị Paris khai diễn. Nhưng cũng có dư luận cho rằng đây là ‘’đ̣n mật ước’’ giữa Hà Nội và Mỹ (qua trung gian của Liên Xô) để thanh toán hạ tầng cơ sở Mặt Trận (có khuynh hướng thân Trung Cộng), giúp Hà Nội có cớ khuynh loát mạnh mẽ hơn đối với thành phần lănh đạo cộng sản miền Nam, song song với sự kiện về vai tṛ của Nguyễn chí Thanh bị tử trận, thay thế bởi đích danh Vơ nguyên Giáp, sự xâm nhập lực lượng bộ đội chính quy cộng sản miền Bắc vào Nam với khối lượng lớn. Điều nầy vẫn là một ‘’nghi án chính trị’’ chưa soi sáng đủ. Tuy nhiên sau 1975, với lần thanh toán không nương tay cái gọi là ‘’Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam’’ cùng cách sử dụng ‘’tận diệt’’ những binh đội cộng sản thuộc ‘’chính phủ’’ nầy với lối đánh thí quân không thương tiếc do những cán bộ khung đi từ miền Bắc vào sau 30 tháng Tư năm 1975, chỉ huy ở chiến trường Campuchia (1979), đă là những chứng cớ cụ thể về lần ‘’thanh toán quyết định giá trị’’ cuối cùng của những ‘’đồng chí miền Bắc đối với người anh em mặt trận giải phóng miền Nam’’. Một tiểu đoàn bộ binh thuộc tỉnh đội Rạch Giá khi điều lên Campuchia không hề nhận được nhu yếu phẩm sinh hoạt hàng ngày, các gia đ́nh bộ đội (hoàn toàn là cư dân miền Nam) phải tự túc tiếp tế cho con em ḿnh! Tiểu đoàn nầy sau một thời gian ngắn đă hoàn toàn tan ră, c̣n lại không quá 10 người, người sống sót trốn thoát qua Thái Lan bằng đường bộ (lẽ tất nhiên vùng đất dung thân cuối cùng không đâu khác là nước Mỹ). Nghi án chính trị vừa kể trên qua thực tế sau năm 1975 hẳn có mức độ khả thể đáng tin cậy.

TRẬN ĐÁNH

Ngày 20 tháng Giêng 1968, Đại Úy W. H. Dabney chỉ huy Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 26 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiến chiếm đồi 881, cao độ giữ mặt Tây và Tây-Bắc căn cứ Khe Sanh, trên Đường Số 9 hướng biên giới Lào, mở đầu quyết định chọn Khe Sanh làm ‘’diện’’, thu hút và tiêu diệt lực lượng cộng sản trong khuôn khổ hành quân Scotland. 5 giờ 30 sáng ngày 21, những quả hỏa tiễn đầu tiên của phía cộng sản đổ chụp xuống các vị trí pháo binh, băi đậu xe, phi đạo dă chiến, sân trực thăng, hầm pḥng thủ lực lượng đồn trú. Mười ba tấn đạn đại pháo gồm 130 ly, hỏa tiễn 122, súng cối 82 ly đồng rơi xuống cứ điểm mở đầu chiến dịch dứt điểm Khe Sanh với lực lượng xung kích gồm hai sư đoàn bộ binh nặng 325C và 304 theo lệnh điều quân của đích thân Vơ nguyên Giáp, c̣n có một sư đoàn khác làm trừ bị, do chưa điều động vào vùng nên chỉ danh không được xác định.

Trận đánh không hoàn toàn bất ngờ, v́ từ buổi sáng Dabney đă nhận được một ‘’người khách không mời’’, viên Trung Úy bộ đội chính quy Bắc Việt hồi chánh với cây cờ trắng và bản tường tŕnh chi tiết kế hoạch tấn công tiến chiếm Khe Sanh của phía cộng sản: ‘’Từ Khe Sanh, bộ đội cộng sản sẽ điều quân về hướng Đông, dọc theo Đường 9 đánh chiếm Quảng Trị. tiếp theo sẽ là Huế.’’ Nói chắc một ư niệm. Hành quân chiếm đóng toàn bộ phần đất Việt Nam Cộng Ḥa Bắc đèo Hải Vân. Chưa hề thấy trong cuộc chiến lâu dài ở Việt Nam có một trường hợp lệnh hành quân bị tiết lộ một cách chính xác và mau mắn đến như vậy. Sự kiện lại xảy ra từ phía cộng sản, một phe tham chiến hằng từ lâu thực hiện tính bảo mật cao độ và có hiệu quả. Người nầy cũng không quên chi tiết chính xác: Giờ G là 12 giờ 30 của Ngày N 21 tháng 1.1968. (‘’Giờ G’’ của ‘’Ngày N’’: Giờ của ngày quyết định mở đầu diễn tiến hành quân).

Không chậm trễ, để đối lại, phía Mỹ huy động toàn bộ hệ thống hỏa lực gớm ghê của họ để ‘’Khe Sanh không thể là một Điện Biên Phủ’’ với kế hoạch đánh bom mang bí danh Niagara, mà chỉ trong ṿng 24 giờ của ngày 21 tháng 1, đă có đến 600 phi vụ do phi cơ Hải Quân và Không Lực Hoa Kỳ hiệp đồng thực hiện thêm với 49 phi xuất B-52 đến từ Thái Lan và Đảo Guam. Khi trận đánh kết thúc, chuyên viên hỏa lực không yểm chiết tính ra số liệu chính xác: Trong 77 ngày Khe Sanh bị vây hăm, Không Lực, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đă thực hiện 24.000 phi vụ chiến thuật với 350 phi cơ gồm các loại A. 4, 6, 8 Skyhawk và F.4C Phantom. Đồng thời B-52 chiến lược cũng đă tham dự với 2700 phi xuất. Chúng ta nên biết thêm chi tiết: Mỗi chiếc B-52 trung b́nh mang 108 quả bom, mỗi quả nặng 245 kư lô.

Tổng kết, sau 77 ngày chiến trận, chung quanh cứ điểm có chiều dài hai, chiều ngang một cây số gọi là Khe Sanh kia, trên những vị trí (có rất nhiều điểm chỉ là nghi ngờ) của hai sư đoàn 325C và 304 bộ binh Bắc Việt, đă có đến 110.000 tấn bom thả xuống. Không kể đến hỏa lực trực thăng vơ trang và các giàn pháo 105, 175 ly của bộ binh Mỹ. Nhưng Khe Sanh chỉ là một ‘’diện’’ của thế trận là ‘’cái cớ’’ thu hút quân đội của các phe tham chiến trên chiến địa. Nỗi ĐAU Mậu Thân. Điểm thật thực sự xẩy ra ở những nơi khác, với những người dân. Người thường dân của miền Nam nước Việt. Huế được chọn lựa làm địa điểm dấy lên vũng lửa cảnh xương máu chập chùng lớn nhất.

Đêm Giao Thừa 1967 sang 1968, đài Hà Nội phát ra lời ‘’Thơ Chúc Tết’’ của Hồ chí Minh có nội dung:

“Xuân nầy hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà.
Nam-Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta.”

Pháo Sài G̣n, các Thành Phố miền Nam nổ nhiều hơn tất cả mọi năm. Hiện tượng pháo nổ ḍn dă bày ra điều cay đắng: ‘’Chiến tranh và tất cả đau thương, khốn cùng của nó là một ‘’thực thể’’ cần được tiêu trừ. Con người luôn cầu Ḥa B́nh đồng thời cũng sẵn sàng thực hiện Chiến Tranh’’. Nương theo tiếng pháo nầy, bộ đội chính quy miền Bắc, lực lượng vũ trang giải phóng, du kích địa phương cộng sản miền Nam đồng nổ súng hiện thực lời ‘’Thơ Chúc Tết’’ trên. Cảnh tượng bi thảm xẩy ra cùng lần trên 44 Tỉnh lỵ miền Nam với những ghi nhận đầu tiên: Vùng 1 Chiến Thuật, bao gồm những Tỉnh cực Bắc của miền Nam, từ sông Bến Hải, Quảng Trị đến Đèo B́nh Đê, địa giới thiên nhiên giữa Quảng Ngăi và B́nh Định với trận Quảng Trị, 4 giờ đêm và mặt trận Huế bắt đầu lúc 2 giờ sáng mồng 1 rạng mồng 2 Tết Mậu Thân (30-31 tháng 1 năm 1968). Trận đánh được bảo mật tối đa với những cán binh, bộ đội vũ trang, bằng giấy tờ giả mạo xâm nhập trước ngày, giờ khởi sự vào các Thành Phố, Tỉnh lỵ, Thị Trấn, nơi đă có sẵn những cán bộ nằm vùng cơ sở lo việc tiếp đón, tiếp tế. Đặc biệt quan trọng là những đơn vị đặc công nội thành, thành phần cốt cán, mở đợt công phá đầu tiên vào những mục tiêu, dẫn đường cho lực lượng vơ trang chính quy. Từ cuối năm 1967, Hà Nội cũng đă cho xâm nhập vào miền Nam hơn 300 cán bộ gồm thành phần giáo sư, giảng sư đại học, kỹ thuật gia điện ảnh, văn nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ chuẩn bị phụ trách công tác trí vận. Nhóm chuyên viên nầy được phân đều cho các Tỉnh để làm nồng cốt xây dựng mặt trận văn hóa-chính trị sau khi cuộc Tổng công kích quân sự thành công. Trận đánh cũng hoàn toàn ‘’bất ngờ và bảo mật’’ đối với những đơn vị, cá nhân thuộc lực lượng cộng sản tham dự tác chiến. Đa số, nếu không nói là hầu hết, chỉ là những thiếu niên nông thôn miền Nam hoặc những bộ đội nhỏ tuổi miền Bắc. Những người trẻ tuổi gọi là ‘’bộ đội giải phóng’’ nầy trên đường xâm nhập vào Thành Phố, Thị Trấn miền Nam đă được ‘’học tập’’ một điều phấn khởi: ‘’Vào tiếp thu những Thành Phố miền Nam, nơi bọn Mỹ-Ngụy đang dẫy chết và nhân dân đă nổi dậy cướp chính quyền dưới lănh đạo của cán bộ cơ sở đảng.

Huế, Thành Phố cổ hơn trăm năm, Kinh Đô của nước Việt thuở hưng thịnh, đêm mồng một rạng mồng hai Tết Mậu Thân lặng ch́m vũng tối. Sự im lặng cô đặc đến nỗi tiếng pháo nổ mất hút giữa tầng khối dăy tường đá tảng bất động vây quanh con sông thẫm màu với lớp dân cư nhiều thế hệ sống đời dài không chút đổi thay. Nhưng, bất th́nh ĺnh, cảnh tượng b́nh lặng nầy bị xé rách bởi tiếng đạn súng cối, hỏa tiễn rít ngang bầu trời nháng lửa soi bóng dáng chập chờn những h́nh người mang lá ngụy trang lẫn lút nương theo màn đêm trên những lối đi dưới tàng cây, lề đường kín cửa. Bộ đội cộng sản xâm nhập tiến chiếm Thành Phố. Lực lượng cộng sản đánh Huế phối trí trận địa theo kế hoạch:

- Đoàn 5 do Nguyễn Vạn chỉ huy gồm những đơn vị K4A, K4B, K10 và tiểu đoàn 12 đặc công phối hợp với thành đội Huế từ vùng núi thượng nguồn Sông Hương hành quân bôn tập tấn công những cơ sở chính quyền, chiếm lĩnh vùng dân cư hữu nghị con sông, phía Nam Thành Phố.

- Đoàn 6 gồm có các tiểu đoàn K1, K2, K6 và 12 đặc công với bốn đại đội cơ hữu 15, 16, 17, 18 tăng cường một đại đội súng pḥng không, toàn bộ lực lượng địa phương thuộc hai Quận Hương Trà, Phong Điền và hai đại đội biệt động có nhiệm vụ tấn công từ hướng Bắc vào các mục tiêu: Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh đóng tại Mang Cá, sân bay Tây Lộc, Đại Nội Hoàng Thành Huế.

Hai lực lượng trên được chi viện thêm các tiểu đoàn 416, 418 thuộc đoàn 9 xuất phát từ vùng núi thung lũng A Sao Tây-Nam Huế. Đơn vị nầy trước chiến dịch mang danh hiệu Cù chính Lan, tên một thủ trưởng đă chỉ huy đoàn nầy trong chiến dịch Ḥa B́nh Bắc Việt 1951. Vào giai đoạn sau của chiến dịch, lực lượng cộng sản được đoàn 8 (hậu thân của trung đoàn sông Lô) tăng cường, bôn tập về Huế từ mật khu hướng Tây-Bắc.

Mũi tiến công chính do thủ trưởng đoàn 6 Nguyễn trọng Dần chỉ huy đánh chiếm tất cả cơ sở quân sự trú đóng trong khu thành nội một cách nhanh chóng, ngoại trừ sân bay Tây Lộc, các cơ sở trên đều bị chiếm đóng dễ dàng bởi chỉ do các đơn vị chuyên môn, không tác chiến pḥng thủ. Đoàn nầy c̣n có nhiệm vụ lớn, ‘’bắt sống Tướng Trưởng’’ giải về Bắc.

Tổng số quân cộng sản tham chiến gồm khoảng 7500 người cộng với lực lượng đặc công thành đội Huế. Cuối chiến dịch, phía cộng sản thiệt hại 1042 người, trong số có một cán bộ cấp trung đoàn, 8 cán bộ tiểu đoàn, 24 cán bộ đại đội và 72 trung đội trưởng.

Trong quá tŕnh chiếm giữ Thành Phố Huế, phía cộng sản khoe đă bắt theo 600 thanh niên ṭng quân, chiếm kho bạc lấy 4 triệu (khoảng 400.000 đô la theo thời giá), giải thoát 1800 phạm nhân. Nhưng quan trọng hơn hết là h́nh thành Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Ḥa B́nh, gồm có những thành phần: Chủ Tịch Lê văn Hảo, ủy viên bà Tuần Chi, Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, huy động được một số lượng quần chúng trong những ngày chiếm đóng. Nhưng, tất cả thành quả chính trị, vật chất nầy hoàn toàn trở nên là điều vô nghĩa khi ta xét đến cuộc phản công của phía Cộng Ḥa, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ và những đau đớn tàn nhẫn mà lực lượng cộng sản đă thực hiện lên những đối tượng mà họ luôn nại đến trong sự nghiệp ‘’giải phóng’’. Những người dân bị thảm sát cực độ vô ích phí phạm.

Trận phản công Liên Quân Việt-Mỹ đă diễn ra rất mực hào hùng v́ chiến trường nầy đă có mặt từ trước những đơn vị ưu tú nhất của hai Quân Lực: Sư Đoàn 1 Bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa với Đại Đội xung kích trinh sát lừng lẫy Hắc Báo, Chiến Đoàn I Nhẩy Dù tăng phái gồm các Tiểu Đoàn 2, 7, 9 dưới quyền của Trung Tá Lê Quang Lưỡng. Về phía Mỹ có Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến với Chi Đoàn thiết vận xa cơ hữu. Chiến Đoàn Đặc Nhiệm X Ray do Tướng Foster Lahue, cựu chiến binh của Thế Chiến II và Triều Tiên chỉ huy gồm ba Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Ngoài ra phải kể đến hai lực lượng mạnh, hai Lữ Đoàn 1 và 2 thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù 101 đóng tại Phú Bài và một Lữ Đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) chiếm giữ vùng núi Tây-Nam Huế, ứng chiến cho chiến trường Khe Sanh. Tất cả lực lượng quan trọng tinh nhuệ nầy đă hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc theo diễn tiến sau:

Đại Đội Hắc Báo, thành phần xung kích, Trinh Sát Sư Đoàn I Bộ Binh (đơn vị Đại Đội Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa có huy chương tuyên công nhiều nhất từ hai chính phủ Việt-Mỹ, kể cả những đơn vị biệt lập của Quân Lực Đồng Minh), có nhiệm vụ trấn giữ Khu Đại Nội, Điện Thái Ḥa, nơi thiết triều của các Vua Triều Nguyễn. Trước mặt Điện là sân chầu lót đá tảng, tiếp Cửa Ngọ Môn, biểu tượng uy quyền không những của Hoàng Tộc mà là quốc thể nước Nam. Kỳ Đài đối diện Cửa Ngọ Môn về hướng Nam, nơi là cờ hồn thiêng sông núi hằng tung bay. Nhưng Đại Úy Phan Gia Lâm với quân số thiếu hụt (do số lớn binh sĩ đă về nhà ăn Tết) không thể nào chống cự nổi mũi tiến công một tiểu đoàn (một trong ba nỗ lực chính, thuộc đoàn 6 bộ đội cộng sản) vào khu vực Đại Nội. Sau năm giờ cầm cự, 5 giờ sáng ngày mồng 2, Đại Đội của Lâm phải rút ra khỏi Khu Cấm Thành để cố thủ Kỳ Đài, nhưng cuối cùng, lúc 8 giờ sáng, ổ kháng cự Kỳ Đài cũng đành lâm chịu thất thủ và lá cờ ba màu vàng, xanh, đỏ được bộ đội cộng sản kéo lên trên nền trời mù sương xứ Huế ngày mưa phùn.

Nhưng lần mất Sân Bay Tây Lộc, Đại Nội chỉ là những tai nạn ắt có đầu tiên phải gánh chịu, phía Việt Nam Cộng Ḥa lập tức phản công với những đơn vị chưa hề thất bại. Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù đơn vị từ lúc mới thành lập 1965, do Thiếu Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy đă đánh những trận mở đầu ở Bà Điểm, ngoại ô Sài G̣n 1966, vùng Phi Quân Sự 1967, để nên thành đơn vị được xuất sắc tuyên công chỉ sau ba năm thành lập. Đêm mồng 1, từ Quận Quảng Điền, Đông Bắc Thị Xă Huế, đơn vị đă hành quân cấp tốc chạy qua hàng cây số với tất cả với tất cả sức nặng ba lô vũ khí trên lưng người lính. Nhưng lần chạy việt giă băng đồng khó nhọc nầy không hoàn toàn b́nh an v́ quân cộng sản đă phục kích ngay trên đoàn đường độc đạo từ Quận lỵ đổ ra Quốc Lộ I ở An Lỗ, trên cầu sông Bồ. Tiểu Đoàn Phó Nghi bị tử thương cùng một số binh sĩ, nhưng Tiểu Đoàn cũng đă kịp đến cầu An Ḥa, (cửa ngơ đường lên phía Bắc, hướng Quảng Trị), hiệp đồng với đơn vị bạn, Tiểu Đoàn 7 Dù, đánh qua mục tiêu làng Đốc Sơ, chiếm giữ đầu cầu, cắt đường tiếp vận về những căn cứ, mật khu cộng sản thuộc vùng Phong Điền, An Lỗ, Cổ Bi, Hiền Sĩ. Những căn cứ địa vùng Tây-Bắc Thừa Thiên-Huế đă nổi tiếng từ chiến tranh 1945-1954 là những an toàn khu bất khả xâm phạm. Từ Cầu An Ḥa vào đến Đồn Mang Cá, Bản Doanh Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh chỉ hơn cây số đường chim bay, nhưng hai Tiểu Đoàn Dù 2 và 7 phải mất một ngày sau mới vào tới được. Nơi nầy, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng đang đích thân chỉ huy cuộc chống đỡ với nón sách, áo giáp, súng cá nhân như một khinh binh. Hai đơn vị Dù đi hết đoàn đường ngắn ngủi kia với hơn hai mươi bốn giờ tác chiến liên tục, với kết quả số thương vong hao hụt hơn một nửa quân số cơ hữu. Điển h́nh, Đại Đội 74 mất gần trọn Đại Đội với Đại Đội Trưởng Nguyễn Lô bị thương nằm dưới hai lằn đạn, một ngày sau mới được kéo về như một xác ma. Một xác chết gần nghĩa đen nhất v́ Lô phải giả chết hơn hai mươi bốn giờ qua, giữa những binh sĩ tử trận, trên nghĩa trang người chết từ lâu cùng những người hấp hối mới hôm qua. Trưa mồng 4, Tiểu Đoàn 9 Dù, đơn vị đă chạm địch từ đêm Giao Thừa ở mặt trận Quảng Trị với trung đoàn 812 cộng sản Bắc Việt, tuy đă đánh bật được những đợt tấn công của địch trong suốt hai ngày mồng 2 và mồng 3, bảo vệ được ṿng đai pḥng thủ Thị Xă, nhưng đơn vị nầy cũng đă bị thiệt hại đến trăm binh sĩ, cụ thể như với Đại Đội 94, đơn vị trấn giữ Khu Nhà Thờ Tri Bưu (chịu hướng tấn công nặng nhất mặt trận Quảng Trị) đă mất hẳn năng lực chiến đấu, bởi Đại Đội Trưởng Hổ, Lộc tử trận. Nhưng dù với quân số thiếu hụt nầy, Tiểu Đoàn 9 chỉ sau một ngày đến Huế, sáng mồng 5, đơn vị đă phải xuất quân chiếm lại Cửa Chánh Tây, đường thông về phía những mật khu trong Trường Sơn. Trường Thành Huế, khối đá, gạch, vuông vức mỗi chiều khoảng hơn hai cây số với những chồng gạch được ghép chặt vào nhau bởi vôi trộn mật mía, cao năm thước, trên có lối đi để binh lính tuần tra, xe ngựa di chuyển. Nhưng khối đá tảng kiên cố nầy trong những ngày đầu Xuân hôm nay đă là những chốn nguy nan khôn cùng với những tổ tam-tam (tổ chức theo ‘’tam chế- 3 đơn vị một’’) bộ đội cộng sản. Mỗi tổ tam đều có đủ trung liên, B-40 và AK cá nhân, nơi những ngă tư, điểm chốt chận đường đi đến các Cửa Thành đồng được các tổ thượng, đại liên trấn giữ. Chúng ta hăy nghe lại lời tường thuật đơn giản của một người lính trong cuộc chiến ngày ấy ‘’Khi đến gần Cửa Chánh Tây, tôi thấy rất nhiều địch đội nón cối, tay cầm xúng AK-47, B-40, đi qua đi lại trên bờ thành. Chúng tôi chờ trời tối cho kinh binh lén leo lên, dùng lưỡi lê đánh cận chiến, chiếm được một góc Thành làm đầu cầu cho Đại Đội nhào lên bắn ào ạt, khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách nầy tuy tổn thất nhiều, nhưng v́ quân địch đă chiếm lợi thế bờ Thành cao hơn 5 thước, nếu không liều mạng xông vào hang cọp, th́ không sao bắt được cọp con. Sau hai ngày tác chiến, Tiểu Đoàn (9 Dù) mới chiếm được Cửa Chánh Tây, bàn giao lại cho Sư Đoàn 1, trở ngược ra sau đánh Cửa Đông Ba (Cửa Chính Đông của Thành Nội Huế). Tại đây, có một cây thượng liên đặt trên Cửa Thành cao, rất kiên cố. Chúng tôi thử xung phong nhiều lần mà không lên được. Trung Đội tôi lúc ấy c̣n 21 người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và Cửa Chánh Tây vừa rồi nên rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo binh dập nát khẩu thượng liên cả Trung Đội vừa bắn vừa hô xung phong tiến nhanh lên chiếm Cửa Thành. Thấy tên xạ thủ thượng liên chết nằm trên súng, hai chân bị khóa bằng giây xích.

Kiểm điểm lại Trung Đội chỉ c̣n mười người nguyên vẹn. Mười một mạng người chết và bị thường để đổi lấy Cửa Thành nầy đây. Lính Nhẩy Dù trả nợ máu cho Quê Hương miền Nam, lấy lại b́nh an cho đồng bào xứ Huế. Gần 30 năm sau, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm giác cay cay đau đớn khi đứng trên Cổng Thành đổ nát, ngày mùa Xuân năm xưa. Mùa Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương’’. Hồi Kư Trương Dưỡng Một Cánh Hoa Dù, 1997 CA, USA.

Khi Huế bị đánh, về phía Mỹ không có một lực lượng tác chiến nào trong Thành Phố, ngoài Bộ Chỉ Huy MACV ở sát cạnh Tiểu Khu Thừa Thiên. Măi đến chiều ngày mồng 3 Tết (2.2.1968) mới có một Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến đầu tiên đến tăng cường giữ MACV. Liên tiếp trong ba ngày 1, 2, 3 tháng Hai, lực lượng của Tiểu Đoàn 2/5 Thủy Quân Lục Chiến như trên đă nói mới vào vùng hành quân với mục tiêu là Khu Đại Học Huế và Bộ Chỉ Huy MACV. Thủy Quân Lục Chiến Mỹ có đại bác ONTOS sáu ṇng có khả năng công phá mục tiêu, công sự nặng. Họ đánh mỗi ngày một mục tiêu, mỗi đường phố, đến tối rút về khu MACV, thế nên, diễn tiến hành quân hóa nên tŕ chậm, không phát triển được thảnh quả ưu thế hỏa lực và tính cơ động của đơn vị. Những ngày sau, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tiếp tục truy kích, chiếm đóng Khu Đường Lê Lợi, ngang Viện Đại Học và trước mặt Nhà Ga. Khai triển thành quả, lực lượng Mỹ đẩy lui địch ra khỏi khu vực Phú Cam, khiến địch phải phân tán mỏng rút về phía Nam Giao. Hồi 16 giờ chiều ngày 10 tháng Hai, một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận tăng viện cho Tiểu Đoàn 2/5. Tuy thời thiết rất xấu, nhưng cuộc chuyển quân cũng hoàn tất, trong cùng lúc một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khác được đưa từ Phú Bài vào Huế bằng xe. Chính quyền và dân chúng đồng ḷng nô nức trước lần tăng viện mang lại phấn khởi nầy.

Giai đoạn quyết định giải tỏa mặt trận Thành Phố Huế được đánh dấu bởi lần thay thế Chiến Đoàn A Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam. Chiến Đoàn nầy được không vận từ Sài G̣n đến sân bay Phú Bài, từ đây di chuyển đến cầu tàu hữu ngạn sông Hương, dùng thuyền đổ bộ lên Bến Bao Vinh để tiếp xâm nhập vào Thành Nội Huế. Chiến Đoàn A gồm 3 Tiểu Đoàn bộ chiến do Thiếu Tá Hoàng Thông chỉ huy. Sáng ngày 18 tháng Hai, Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Thiếu Tá Phan Văn Thắng chỉ huy, Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Phạm Văn Nhă Tiểu Đoàn Trưởng xuất phát từ Thành Nội Huế, để từ đây mở rộng ra hướng Cầu Bạch Hổ. Trận chiến ở Khu Vực Thủy Quân Lục Chiến được mô tả như sau dưới mắt nh́n của Nguyễn Tú, Phóng Viên Niên Trưởng của làng báo Sài G̣n ba mươi năm trước ‘’Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Úy Nguyễn Xuân Ṭng chỉ huy, anh chỉ cho tôi hướng tiến quân: Địch đang ở trong cái chùa cách chúng ta 30 thước và cách trường học phía bên trái 60 thước…’’ Bất ngờ tiếng nổ ầm cách chúng tôi khoảng mười thước, ném tung đất bùn lên đám lính đang ngồi thấp chờ lệnh. Phía cộng sản bắn hỏa tiễn vào đội h́nh của đoàn quân. Trung Úy Ṭng gọi máy về Bộ Chỉ huy để xin chiến xa tăng cường yểm trợ cuộc tiến quân. Khoảng ba phú sau, ba chiếc tăng không biết từ đâu ùn ùn chạy đến. Đại Bác chiến xa đồng khai hỏa, tiếp loạt đạn đại liên 50 ly chém gẫy cây lá, lá rơi tơi tả. Đạn súng đă bắn ra mà tiếng dội c̣n vang vọng trong sương mai lạnh lẽo. Trung Úy Ṭng ra lệnh cho toán quân Chuẩn Úy Nhựt tiến chiếm ngôi chùa. Nhựt dẫn đầu toán lính, vừa bắn vừa chạy, tản rộng hai bên bọc lấy những bức tường của ngôi chùa, sau đó tiếp tục đánh vào mục tiêu thứ hai, khu trường học, nơi những địch quân vừa từ chùa chạy về cố thủ. Phản lực được gọi đến yểm trợ, những trái bom rơi gần chỉ trong khoảng cách 100, 150 thước, những mảnh gang văng tới tận khu chùa, đen ś, nóng bỏng như vừa được lấy từ ḷ đúc. Qua máy truyền tin, tôi được biết có một toán Thủy Quân Lục Chiến vừa thanh toán được một hầm cố thủ mà toán việt cộng trong ấy khoảng 15 tên đă hoàn toàn bị tiêu diệt. Tôi muốn chạy sang bên ấy để chụp h́nh th́ người lính bên cạnh đă ngăn cản: ‘’Không được, ông chạy qua bên ấy dễ ăn kẹo vi xi lắm, đợi chúng tôi dọn sạch cái nhà và ngôi trường, hơn nữa phải đào hầm lên mới chụp h́nh được chứ’’. Tôi nghe hợp lư nên ngồi lại. Bỗng một tiếng la lớn: ‘’Chết cha, Chuẩn Úy Nhựt chạy trước ḱa… Đâu có lệnh cho lên ?!’’ Người lính chưa kịp dứt lời th́ tràng đạn ‘’tắc, tắc’’ nổ ḍn…Một bóng người ngă gục trên khoảng đất trống, cách chùa mười lăm thước…Có ai đó đă lấy một tấm pông-sô phủ lên h́nh hài Chuẩn Úy Nhựt. Một người lính nói với tôi ‘’Ông biết không, Chuẩn Úy Nhựt hăng lắm. Đại Đội 4 chúng tôi trong trận Cai Lậy lấy được nhiều súng nhất đến 95 khẩu đủ loại’’. Vô t́nh người lính đă đọc một bài điếu văn giản dị, đơn sơ mà bao giá trị bao ư nghĩa.

Gần chỗ cỏ xanh loang máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn Úy Nhựt ngă xuống cho lần giải phóng Thành Nội Huế, một chiếc nón sách nằm trơ, ngửa lên bầu trời vẫn mây xám, mưa phùn, gió rét. Hai bên nón sắt có gịng chữ và chữ kư ngang tàng, phóng túng: ‘’Sống bên em, chết bên bạn’’ của người lính đă chết trong buổi đầu Xuân. Người lính c̣n rất trẻ.

Mặt trận Thành Phố Huế chấm dứt với lần tham chiến của hai Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân có nhiệm vụ tảo thanh Khu Gia Hội, vùng cư dân nằm dọc theo Sông Đào và Sông Hương. Vùng nầy nhà cửa ít bị thiệt hại nhưng đầy đặc những hầm xác người bị thảm sát do lần rút đi trong thất bại của lực lượng cộng sản sau 26 ngày chiếm đóng. Bốn giờ chiều ngày 24 tháng Hai năm 1968, h́nh ảnh bi tráng linh thiêng của chiến tranh Việt Nam hiện thực: Người Huế, những người lính chiến đấu ở Huế bật khóc khi Lá Cờ Vàng Ba Sọc lên cao trên Kỳ Đài giữa mù sương và mưa bay. Và cũng như lần chào cờ đầu năm cách đó 26 ngày, Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh toàn thể lực lượng giải tỏa Thành Phố Huế suốt khoảng thời gian dài kia đă không hề nghỉ ngơi, với trang bị nón sắt, áo giáp như một người lính ở đầu tuyến. Ông đi tới vị trí pḥng thủ của binh sĩ tiền trạm Lữ Đoàn I Dù (gồm những lính yểm trợ, tiếp vận), cùng những đơn vị lính chuyên môn (Quân Y, Quân Xa, Truyền Tin…) của Sư Đoàn 1 những ‘’đơn vị tác chiến’’ đầu tiên mà ông vận dụng được để chống cự đợt tấn công cường tập đầu tiên của binh đội đặc công E 6 do thủ trưởng Nguyễn trọng Dần đích thân chỉ huy. Ông có mặt nơi Trung Tâm Hành Quân, theo dơi các vụ ném bom, phản pháo, cố thủ những vị trí tái chiếm, điều quân tăng viện. Ông đến đầu giường của thương binh vừa được chuyển về Quân Y Viện, ông có mặt với những ca mổ nghiêm trọng, an ủi thân nhân binh sĩ thiệt mạng. Ông đă là Tướng lănh độc nhất của Quân Lực Miền Nam sống trọn vẹn với chiến trường, với mỗi người lính, khi cần có những quyết định khẩn cấp, hiệu quả kể từ ngày khởi đầu trận đánh, để đến hôm nay trong buổi oanh liệt, chỉ huy lễ thượng kỳ. Khuôn mặt khắc khổ chĩu nặng ưu tư của người chỉ huy chiến trường lặng xuống trong khoảng khắc.

Quân và Dân đă một lần bật khóc
Khi lá Cờ Vàng Ba Sọc
Lừng lững lên cao
Giữa mù sương xứ Huế mùa Xuân nào…

LẦN GIỮ NƯỚC THỨ BA

Mùa Hè 1972, tháng Ba, từ ngày Bắc quân khởi cuộc đại tấn công miền Nam. Thêm một lần Quảng Trị, Thừa Thiên, hai vùng đất trước tiên hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn. Và người dân lại thêm một lần lập lại t́nh cảnh thương tâm, tay bế con, lưng cơng cha mẹ già xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất hay mối hy vọng cuối cùng Người Lính. Lính Cộng Ḥa ơi, cứu bà con…lính cộng ḥa ơi…!! Trên đoạn đường máu La Vang, Hải Lăng, Mỹ Chánh dọc Đường Số I giữa Quảng Trị và Huế không phải đôi ba người trong cùng t́nh thế riêng biệt nào đó, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế một lần. Họ gọi với hơi thở cuối, mồm há hốc, mắt trợn đứng, khi máu chảy, nằm xuống giăy dụa, tay lần chuỗi hạt, mắt nhắm nghiền, trên đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi, nổ tàn ác…Đạn nổ không bỏ sót một phần đất, không quên một thân người. Lính Cộng Ḥa ơi! Người dân rất nhiều lần kêu lên như thế. Nhưng hôm nay, tháng 5.1972 người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đă ra Huế! Ông Trưởng đă tới ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở, tin tưởng thúc dục nói cùng nhau và những chuyến hàng Đà Nẵng-Huế bắt đầu trở lại với hành khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thịt da người phía Nam La Vang, lối ‘’về ngoài mền…’’ thấp thoáng từng toán người gồng gánh chạy theo đoàn quân…Mền (ḿnh) về Quảng Trị thôi bà con ơi, ông Trưởng đă vô ở trung (trong) Mang Cá giư (như) kỳ Tết Mậu Thân với mền rồi bà con nè…

Chiếc xe jeep mang cờ hiệu Tư Lệnh màu đỏ với ba ngôi sao trắng chạy chậm dọc Đường Trần Hưng Đạo hướng Cầu Gia Hội. Vị Tướng Quân khẽ liếc về hai bên, che dấu cảm xúc trong ánh mắt u uất, cố giữ vẻ b́nh thảm, ông đưa tay lên vành nón sắt tỏ ư nhấc khẽ để đáp lễ những người dân kính cẩn chào ông với cách nh́n hàm ân, trân quư. Chợ Đông Ba ngầu đục váng vất những đường khói nhỏ bốc mùi khét và loang lỗ vết nám đen trên lớp tường sơn vôi vàng nhạt, dấu vết của lần hỗn loạn hai ngày trước, 30 tháng 4.1972 khi mặt trận Quảng Trị tan vỡ và đám lính phẫn nộ tràn vào Thành Phố với những người dân đang nháo nhác rùng rùng di tản. Quảng Trị mất. Mất chưng hửng tức tối. Biệt Động Quân nương nhau dọc Quốc Lộ về Nam, Thủy Quân Lục Chiến co lại, Tiểu Đoàn này đỡ Tiểu Đoàn kia rút gần xuống Mỹ Chánh về phần Sư Đoàn 3 Bộ binh, không phải lỗi ở lính, cấp chỉ huy không gian, cũng có thể không do Tướng Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn (chưa có thể kiểm chứng rơ), đă ră ngũ một cách mau chóng, phi lư, dẫu ba Trung Đoàn bị thiệt hại từ ngày cuối tháng 3 đầu tháng 4, nhưng vẫn c̣n đủ quân số, vũ khí, phương tiện liên lạc, yểm trợ, bỗng nhiên như viên đá nhỏ tan trong ly nước bốc khói, một đại đơn vị diện địa mất hẳn khả năng chiến đấu trong bất ngờ kinh ngạc, xua đẩy dân và lính Tiểu Khu Quảng Trị hỗn loạn đua nhau tháo chạy về Huế như cơn nước lũ từ nguồn cao băng qua bờ đê cát nhỏ. Và tiếp theo, dưới cơn ép kinh hoàng của Quảng Trị, Huế nổ bùng tan nát như ánh lửa điên loạn bốc cháy Chợ Đông Ba chen tiếng súng của đám quân không người chỉ huy gồm những thành phần lao công đào binh nhân cơ hội chạy trốn, đám phạm nhân từ các trại dân sự, quân đội thoát ra và tất nhiên không thiếu những tổ đặc công, cơ sở nằm vùng cộng sản lợi dụng t́nh thế đồng khởi động phá hoại. Huế mau chóng lâm cơn hấp hối cũng bởi ảnh hưởng, tác động kinh khiếp của Mậu Thân mà dấu vết vẫn c̣n rất mới. Từ đêm Giao Thừa 1968 nối tiếp, mở rộng thấm sâu ấn tượng bi thảm của lần thất thủ Kinh Đô 1885, mà nay vẫn hằng lưu trong tâm hồn người Huế, với cảnh sắc u uẩn của hệ thống chùa, miếu, am luôn mờ mịt những dấu hương cháy đỏ vào đêm đến hoặc những ngày rằm, mồng một Âm Lịch, rải rác cạnh những con đường nhỏ hẹp, âm âm bóng cây che kín. Giặc vào và hiện thực cảnh tượng nhà tan, cửa nát, người chết hằng hằng lớp lớp. Gần một thế kỷ qua kể từ năm tháng bi thảm kia, mối đau không hề giảm bớt, mà lại càng tăng thêm sắc độ khốn cùng, thương tâm. Chỉ một điều khác biệt: Thực Dân Pháp năm 1885 khi tiến đánh Kinh Đô Huế, không có được ‘’ư niệm chính trị tiến bộ của kẻ ngụy danh cách mạng giải phóng’’ sau nầy, họ chưa biết cách thực hiện, không hề có cơ tâm tàn nhẫn thực hiện kỹ thuật giết người rẻ tiền và im lặng của quần lũ gọi là ‘’bộ đội nhân dân’’ chôn sống những đồng bào, đồng loại ḿnh, Huế hoảng hốt kinh hoàng do đă có kinh nghiệm về thành tích tàn bạo của những toán bộ đội cộng sản và đám người cuồng khấu địa phương mang huy hiệu lá cờ đỏ (hoặc chiếc băng vải đỏ) sục sạo khắp cùng những căn nhà, ngơ ngách, đường hẻm để t́m địch giết Ngụy. Thế nên người người hớt hăi xuôi Nam hướng Đà Nẵng, rần rật chen chúc lên tất cả mọi phương tiện di chuyển. lại một lần bỏ quê hương chạy giặc. Đấy là cảnh tượng của những ngày cuối tháng 4 năm 1972. Nhưng, nay t́nh thế đă hoàn toàn khác hẳn. Bởi, Quân Lệnh Thứ Nhất của Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng 1 Chiến Thuật loan báo khẳng định:

Tất cả Quân Nhân các cấp Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trong lănh thổ Khu 11 Vùng 1 Chiến Thuật (kể cả thành phần tăng phái, thuộc dụng hành quân), quân phạm, lao công đào binh phải trở về tŕnh diện đơn vị, hoặc tại địa điểm quân sự gần nhất trong ṿng 24 giờ kể từ ‘’Không Giờ’’ ngày 2 tháng 5.1972.

Các trường hợp vắng mặt bất hợp pháp tại đơn vị coi như đào ngũ trong thời chiến, khi đối diện địch quân, sẽ bị truy tố ra trước ṭa án quân sự mặt trận với trường hợp khẩn cấp.

Tất cả hành vi cướp giật phá hoại, khủng bố sẽ bị trừng phạt, xử bắn tại chỗ do các đơn vị Quân Cảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa toàn quyền áp dụng, thi hành.

Huế hồi sinh từ những những gịng Quân Lệnh mạnh mẽ và sự hiện diện uy nghiêm của vị Tướng Quân Tư Lệnh. Và người Huế, Quảng Trị trở về.

PHẢN CÔNG

Để mở đầu cho ngày 28 tháng 6, khai diễn chiến dịch giải tỏa toàn thể Quảng Trị, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă chuẩn bị, thực hiện những điều kỳ lạ kể từ ngày nhậm chức Tư Lệnh ngày 1 tháng 5, chỉ hơn một tháng trước. Những điều kỳ lạ nầy không do phía người Việt chủ quan tự định đặt, nhưng hiện thực trong báo cáo của Tướng Fred Kroesen, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn I với Đại Tướng Abrams: ‘’Ông ta đă làm cho Ban Tham Mưu hoạt động chưa từng có ở Quân Đoàn I. Tướng Trưởng đă đẩy bộ máy kia chạy với một cách thế khẩn cấp không bao giờ thấy từ trước đến nay (13). Và Tướng Abrams đă không lầm đối tượng khi trao trực tiếp đến những người bạn vũ khí tối hảo mà ông vừa nhận được: Hai mươi dàn phóng hỏa tiễn chống tăng TOW được gởi ngay đến mặt trận Vùng 1 cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn Dù với lời bảo chứng của riêng Tướng Ngô Quang Trưởng (14). Những vũ khí mới mẻ, công hiệu, chiến thuật linh động sáng tạo phối hợp nhau nên thành một thế trận liên hoàn dưới tấm thảm lửa yểm trợ của phi cơ chiến lược B-52 từ Guam, giàn hải pháo, phi cơ của Hải Quân Mỹ từ Hạm Đội 7, phi cơ Mỹ, Việt từ Đà Nẵng, Chu Lai đă kết nên sức tổng lực của Lôi Phong mà những sư đoàn 304, 308, 324B và 325 tổng trừ bị của miền Bắc đă phải chôn vùi phiên hiệu lẫn khả năng chiến đấu. Sau đây là những trận đánh khai cuộc điển h́nh trước buổi oanh liệt quyết định với mục tiêu Cổ Thành Đinh Công Tráng nơi Thị Xă Quảng Trị.

Sau cuộc lui binh oan nghiệt, hỗn loạn, rời bỏ Đông Hà, Quảng Trị, căn cứ Ái Tử và những vị trí quan yếu Bắc Sông Thạch Hăn, kể từ ngày 1 tháng 5, pḥng tuyến cực Bắc của miền Nam dừng lại ở Sông Mỹ Chánh. Con sông rộng không quá một trăm thước chiều ngang kia thật sự không thể là tuyến pḥng thủ thiên nhiên hữu hiệu, hơn thế nữa, đường tiếp cận trong Trường Sơn, qua ngă thung lũng A Sao, A Lưới để về Huế đă hoàn toàn thuận lợi khi các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ hỏa lực các binh đoàn cộng sản chiếm được những căn cứ hỏa lực Bastogne, Checkmate, cửa vào Thành Phố Huế từ ngơ Tây-Nam. Nếu lực lượng cộng sản tiếp tục lấn chiếm được đoạn phía Nam Huế (đường đi Đà Nẵng), và cắt Đường Số I ở khoảng An Lỗ, theo chiều ngang của Sông Bồ th́ Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến nơi pḥng tuyến Mỹ Chánh nầy đă nằm gọn trong một chiếc túi bị thắt chặt cả hai đầu Nam lẫn Bắc, không cần bị tấn công cũng sẽ phải rút đi, mà chắc ǵ thoát được về Đà Nẵng (Chiến trận tháng 3.1975 sau nầy là minh chứng cụ thể của ư niệm vừa tŕnh bày). Đoạn Mỹ Chánh-Huế chỉ khoảng 50 cây số, và sau Huế là Đà Nẵng với hơn 100 cây số c̣n lại. Chiến dịch tấn công miền Nam của bộ tổng quân ủy miền Bắc với tên hiệu Nguyễn Huệ ắt sẽ trở thành hiện thực với cuộc ‘’Nam tiến ngụy danh giải phóng’’ nếu như pḥng tuyến Mỹ Chánh vỡ từ đầu những ngày tháng 5.1972. Nhưng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến của Đại Tá Bùi Thế Lân (Đại Tá Lân thay Trung Tướng Lê Nguyên Khang giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn cùng ngày 1 tháng 5) với những Lữ Đoàn 147 và 258 Thủy Quân Lục Chiến dẫu bị tổn thất nặng trong suốt trận chiến kể từ tháng 3 nơi những căn cứ hỏa lực Holcomb, Sarge, Núi Bá Hổ, Mai Lộc Nam Sông Bến Hải, đă không để mưu định kia nên hiện thực. Hơn thế nữa, đơn vị trấn đóng tuyến Mỹ Chánh trên Quốc Lộ I, điểm tấn công chính của Bắc quân nếu muốn mở đường về Huế kia lại là Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến ‘’Trâu Điên’’ của Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn thượng thặng của Binh Chủng, cũng là đơn vị lừng lẫy nhất của Quân Lực Cộng Ḥa. Thế nên, bộ binh miền Bắc không thể nào vượt qua được bảy mươi thước sông bề ngang mong manh này. Chắc chắn không thể được. ‘’Một thằng ‘cháu của bác’ nào qua đây, tôi sẽ ‘biệt phái’ nó đi gặp bác nó ngay’’. Trung Tá Phúc, ‘’Robert Lửa’’ đă nói như thế với những phóng viên báo chí tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn ở Đồi Đức Mẹ cạnh Sông Mỹ Chánh trong buổi họp báo bỏ túi ngày 1 tháng 5. Chung quanh xác chết những đặc công cộng sản (đơn vị đánh thăm ḍ, mở đường qua cầu, hướng về Huế) nằm rải rác đến cây cầu vừa bị giật sập c̣n bốc khói. Từ pḥng tuyến mong manh này, với ḷng tin cậy đối với những đơn vị tăng phái hành quân. Trung Tướng Trưởng trả lại quyền điều động đơn vị cho Đại Tá Lân trong khu vực trách nhiệm. Lần đầu tiên kể từ ngày thành lập, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được sử dụng hết sức mạnh tổng hợp đúng kích thước của một Sư Đoàn. Biết như thế để hiểu tại sao đă có những thiệt hại oan uổng, vô lư ở trận B́nh Giả, vùng rừng miền Đông Bộ tháng 12.1964 (15) với Lam Sơn 719, cũng nơi đất Trị-Thiên nầy. Đấy là do khi các Tiểu Đoàn bị xé lẻ và nguy hại hơn nữa nếu các Đại Đội tác chiến phải phơi thân đơn độc nơi những căn cứ hỏa lực, dưới cơn mưa lũ của đạn pháo cộng sản qua những ngày dài chịu đựng, để đến một kết thúc không tránh khỏi khi các đơn vị ấy cạn đạn dược, không được tải thương, tiếp tế, không phi pháo yểm trợ. Trận đánh nơi những cao điểm ‘’C-Charlie’’ ở chiến trường Tây Nguyên, Kontum với Tiểu Đoàn 11 Dù trong những ngày giữa tháng 4 vừa qua là một đau thương c̣n quá mới. Nay, người lính giành lại thế chiến đấu và tất nhiên họ phải chiến thắng. Nói lại thêm một lần cũng chưa đủ. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đă trả lại cho người lính ở mặt trận Trị-Thiên sức chiến đấu thần kỳ của họ.

Từ pḥng tuyến Mỹ Chánh, một đơn vị Viễn Thám Thủy Quân Lục Chiến ban đêm men theo bóng tối vượt qua sông chiếm cứ một đầu cầu để ngày mai, 12 tháng 5 cuộc hành quân Sóng Thần 5.1972 khai diễn có vị trí đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Với đoàn trực thăng cơ hữu CH-53 của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ từ Quân Vận Hạm Okinawa bay vào, hai Tiểu Đoàn 3 và 8 Thủy Quân Lục Chiến trực thăng vận đột kích chớp nhoáng xuống bờ biển phía Tây Quận Hải Lăng, Nam Quảng Trị khoảng 10 cây số. 9 giờ sáng, cuộc đổ bộ hoàn tất 1200 chiến sĩ Cọp Biển tràn lên trận địa, dạng h́nh những chiếc áo rằn màu xanh xô tới như sóng biển. Quân tiến như qua chỗ không người, đám bộ đội trở tay không kịp bởi phía chỉ huy Bắc quân chỉ đề pḥng cuộc tấn công từ mạn Nam lên, nơi pḥng tuyến Mỹ Chánh. Nhưng thật cũng có một cánh quân tiến lên từ phía Nam. Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến vượt sông gh́m chặt trung đoàn 66 Bắc Việt cả hai mặt Bắc-Nam. Đơn vị cộng sản phân tán mỏng rút lui để lại 240 xác chết đếm được. Chúng ta nêu lại yếu tố kỹ thuật trận liệt đă một lần bàn đến, quân số thiệt hại ắt hẳn phải gấp ba lần xác chết để lại trên chiến địa kia. Ba Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến tổn thất nhẹ, rút về lại pḥng tuyến Mỹ Chánh trong buổi chiều cùng ngày, để lại một trực thăng CH-53 trúng đạn đă được phá hủy tại chỗ. Phía Tư Tưởng mặt trận B2 (của Bắc quân) kể từ khi khai diễn chiến dịch Nguyễn Huệ Tổng tấn công miền Nam bị khựng lại với câu hỏi: Phía quân Nam sẽ đánh vào đâu ? Như thế nào ? Chiến dịch Nguyễn Huệ sau nầy được giới nghiên cứu quân sự thế giới đánh giá là cuộc tổng tấn công lớn thứ hai của khối cộng sản kể từ lần xâm lăng Nam Hàn năm 1950 ở bán đảo Triều Tiên với 300.000 ngàn chí nguyện quân Trung Cộng (16). Điểm khác biệt là vào thời điểm ấy, Danh Tướng Mac Arthur có dưới tay 365.000 quân (Mỹ và Liên Hiệp Quốc), được cả thế giới yểm trợ và tâm lư quần chúng, Quốc Hội Mỹ phấn khởi, tự tin sau thắng lợi Thế Chiến Thứ Hai đồng thuận (kể cả thái độ giám tiếp của Liên Sô) để chính phủ Mỹ áp dụng những biện pháp quân sự mạnh mẽ, mà cũng đă phải rút lui về bán đảo Pusan trong giai đoạn đầu cuộc chiến. Này, trận chiến mùa Hè 1972 hoàn toàn không có Bộ Binh Mỹ tham dự và Không Quân Mỹ thực hiện lần cứu viện cuối cùng cho Đồng Minh trước khi bị Tu Chính Án Frank Church ḱm giữ hẳn (17). Trong ‘’Vietnam A History’’, với tính vô liêm sỉ tàn nhẫn cao độ, Stanley Karnow tŕnh bày chuyện kể về Việt Nam hoàn toàn cố ư nhảy qua đoạn chiến sử năm 1972 này. Y ta chỉ khai tác đề tài Mậu Thân Huế, 1968 với yếu tố ‘’Phía Việt Nam Cộng Ḥa cho người lẻn vào ‘’khu giải phóng khu vực do phía cộng sản tạm chiếm’’ giết những người ‘’t́nh nghi đă cộng tác với bộ đội cộng sản’’, xong ném vào chung hố với những nạn nhân do cộng sản chôn sống để vu oan là ‘’cộng sản giết người!!’’ (18). Y chứng minh điều trung thực của câu chuyện qua trích dẫn bài hát Trịnh Công Sơn: ‘’Chiều đi qua Băi Dâu, vỗ tay trên những xác người’’ Đoạn viết nầy hàm ư ‘’những xác người nầy do phía Việt Nam Cộng Ḥa sát hại rồi đổ tội cho việt cộng’’. Và ‘’nếu như có thật’’ một số người bị chết bởi tay bộ đội cộng sản, th́ cũng chỉ là do ‘’việt cộng từ du kích cộng sản miền Nam’’ trả thù những kẻ ‘’có nợ máu đối với nhân dân’’, chứ bộ đội miền Bắc hoàn toàn vô can trong vụ Tổng công kích và thảm sát người ở Huế. Sau 1975, tạp chí Nationnal Geographic có đăng bài viết của Trần Văn Đỉnh, vốn là nhân viên ngoại giao cao cấp của Việt Nam Cộng Ḥa, qua phỏng vấn của người nầy, viên bí thư thành ủy Huế đặc trách ngoại vụ, Nguyễn văn Diêu (kẻ tên Nguyễn văn Diêu nầy là ai ?) có ư kiến về cuộc thảm sát năm 1968 như sau: ‘’Lê Minh, viên chỉ huy quân sự mặt trận Huế trong thời đoạn ấy đă xác nhận: ‘’bộ đội của anh ta có phạm tội ác’’. Nhưng lời thú tội được biện hộ ngay liền: ‘’Lê Minh viết tiếp: Bởi chúng tôi không kiểm soát được những ‘hành vi tán ác của cá nhân binh sĩ’. Nhưng dẫu sao là người chỉ huy, bao gồm cá nhân tôi phải chịu trách nhiệm’’. (18 bis) Quư hóa quá, cũng có lúc cán bộ cộng sản thú tội giết người! Nhưng tên Lê Minh là tên thật hay giả của một anh cán bộ loại tép riu nào ? Hắn ta là ai ? Một tội ác lớn chôn sống hàng ngàn người theo một kế hoạch hiểm độc tinh vi thoắt được giải thích và giải quyết bởi lời thú tội từ một tên tuổi bá vơ nào đấy được gọi là Lê Minh ?! Nhưng anh ta cũng không hẳn phạm tội v́ đấy chỉ là ‘’tội ác cá nhân’’ của những tên bộ đội vô danh nào đó mà thôi! Hằng năm cho đến những năm đầu Thế Kỷ 21 nấy, đảng cộng sản vẫn ra chỉ thị làm lễ kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân. Lẽ tất nhiên, buổi lễ có kể lại ‘’chiến công vĩ đại’’ Tết 1968 ở Huế. Vậy ‘’thành tích chiến thắng đánh Mỹ, diệt Ngụy’’ được kể ra kia với ‘’hành vi tàn ác cá nhân của một tên bộ đội’’ dưới quyền Lê Minh có khác ǵ nhau ? Nhưng Tường, dạy học ở Huế, một trong những kẻ gọi là ‘’văn nghệ sĩ, trí thức yêu nước cách mạng, bạn chiến đấu của nhạc sĩ Sơn’’, trong tập băng truyền h́nh ‘’Vietnam A History’’ thẳng thừng trả lời ‘’Chúng tôi giết chúng như giết loài rắn độc’’. Cộng sản Hà Nội đến cỡ của Tố Hữu cũng không thể trân tráo, ngang ngược xuẫn động hơn những con người với những sự việc vừa nêu trên. Chúng ta tạm rời bỏ những xảo trá đê tiện chính trị để trở lại chiến trường với những người lính của quê hương. Không để cho phía cộng sản có được thời gian chuẩn bị cuộc phản công. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ thị đến hai Tư Lệnh Chiến Trường. Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và Đại Tá Bùi Thế Lân. Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến phải thanh toán hai gọng kềm Tây-Nam và Đông-Bắc Huế trước lần tổng phản công lên mặt Bắc. Mặt trận Tây-Nam được thực hiện theo diễn tiến như sau: 9 giờ 15 ngày 14 tháng 5.1972 tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 1 Bộ Binh, Tướng Phú nhận được báo cáo mới nhất của cánh quân Trung Đoàn 3, đơn vị đánh chiếm lại căn cứ Bastogne (bị mất từ tháng 3) từ mạn Bắc. Bastogne là tên do các đơn vị Mỹ đặt để nhắc lại trận đánh lừng lẫy của Sư Đoàn Nhẩy Dù 82 trong Thế Chiến Thứ Hai do Tướng Maxwell Taylor chỉ huy, nay Sư Đoàn I đặt lại với một danh tự đầy cảm xúc Thuận Hóa tên cũ của Thừa Thiên-Huế từ ngày Chúa Nguyễn vào Nam mở nước, Thế Kỷ 17. Người Quảng Trị, Thừa Thiên dựng nước và mở nước từ đất Ái Tử, Thuận Hóa, nên người lính Sư Đoàn I phải trở lại Thuận Hóa v́ ở đấy không chỉ là một mục tiêu quân sự, nhưng là biểu tượng sức chiến đấu của đơn vị, tấc ḷng dân, quân tha thiết với phần đất cha ông. Trận đánh từ sáng sớm đến xề chiều vẫn chưa có kết quả quyết định dù phía Trung Đoàn 3 đă báo cáo: ‘’Chúng tôi vượt qua hàng trăm xác của địch nhưng bởi hệ thống chốt của chúng (Đào theo h́nh chữ A) quá dày đặc nên không thể nào thanh toán mau chóng được. Thành phần bộ đội giữ chốt lại bị xích chân vào súng, nên chúng không thể chạy trốn, quân ta phải thanh toán từng chốt một cho đến gă lính cuối cùng bị tiêu diệt, và v́ thế cuộc tiến quân phải tŕ chậm lại. ‘’Báo cáo chính xác cuối ngày dừng lại với con số 346 địch chết tại chỗ và 100 súng đủ loại bị tịch thu, phần đông là thượng liên và đại liên pḥng không, những chốt lớn c̣n có súng cối do một tiểu đội (10 người) trách nhiệm cố thủ. Trên đỉnh ‘’T-Bone’’, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Tướng Phú nói cùng với phái đoàn báo chí và phóng viên điện ảnh từ Sài G̣n đến: ‘’Nội trong đêm này, Sư Đoàn I sẽ trở lại Bastogne. Trở lại Bastogne để chứng tỏ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa thừa sức để tái chiếm bất cứ vùng đất nào mà trước đây tạm bỏ’’.

Nhưng dự định của Tướng Phú và quyết tâm của người lính Sư Đoàn I không thực hiện đúng hẹn được, bởi hai tiểu đoàn K5 và K9 cộng sản quyết liệt chận đứng cánh quân Trung Đoàn 3, chủ yếu là tại đỉnh 100 (cách Bastogne 800 thước), đơn vị chốt tại đây tử chiến tuyệt vọng, không khoan nhượng. Nửa đêm, rạng 14 qua 15, Tướng Phú vào máy truyền tin dă chiến nói chuyện trực tiếp với người chỉ huy Trung Đoàn 3: ‘’Chỉ trong đêm nay, hay ngày mai, chứ không thể là 22 hay 29 tháng 5, mấy đứa con đầu của anh (các đơn vị tấn công tiến phương) có vào được hay không ? Đừng nói ḷng ṿng…Các anh đừng làm hổ danh Sư Đoàn I’’ (19) Sáng sớm ngày 15, Tướng Phú sau lần tiếp xúc mật với Tướng Trưởng, có ngay quyết định táo bạo: ‘’Dùng một đơn vị Trinh Sát nhảy xuống Bastogne xong từ trong trong đánh ra ngoài, liên kết với lực lượng của Trung Đoàn 3 từ ngoài tấn công dứt điểm’’.

Cuộc trực thăng vận dự trù lúc 10 giờ, đợi cho trời bớt sương mù theo yêu cầu an phi…10 giờ, 11 giờ, 12 giờ…từng giờ một phải được kéo lùi v́ khu trục không nh́n thấy mục tiêu để đánh dọn băi cho quân bạn. 13 giờ 30 Giờ G của chiến dịch đột kích bắt đầu. 18 pháo đội 105 ly và 155 ly đồng tập trung hỏa lực trút xuống Bastogne vũng lưới lửa. Mỗi pháo đội có 6 khẩu súng, tức 108 ṇng đại pháo cùng lần tác xạ, mỗi pháo đội nhận được lệnh ‘’pháo đội 10 tràng’’, có nghĩa số lượng đạn bắn đi nhân lên 10 lần số súng kia. Pháo Binh chấm dứt để khu trục vào vùng. Đoàn khu trục của Phi Đoàn 518 từ Biên Ḥa ra tăng phái mặt trận giới tuyến từ đầu tháng 4, những chiếc phi cơ AD-6 thật ra đă thuộc loại ‘’bỏ đi’’ của Không Quân lẫn Hải Quân Mỹ chỉ dùng để huấn luyện, v́ quá giờ bay sau Đệ Nhị Thế Chiến 1945, nhưng khi vào tay Phi Công Việt Nam với những ‘’người sinh ra để bay Skyraider’’ loại khu trục cánh quạt có khả năng mang số bom nặng hơn trọng lượng của nó như Nguyễn Văn Cừ, Phạm Phú Quốc (thế hệ đàn anh) hoặc Trần Thế Vinh, Phạm Văn Thặng, Nguyễn Du, Nguyễn Văn Phong…hôm nay, chúng trở thành một vũ khí tấn công, yểm trợ tiếp cận cho bộ binh tuyệt hảo. Chỉ từ một tuần từ 2 đến 9 tháng Tư, Trần Thế Vinh đă hạ 21 chiến xa với những trái bom đặt dưới cánh phi cơ của anh. Sáng ngày 15 nầy cũng thế, những trái bom rơi từ phi cơ AD-6 của Phi Đoàn 518 như đặt vào những trái bóng nhỏ vào những chiếc lỗ khít khao, bật tung toàn bộ hệ thống cố thủ của các chốt chung quanh và Trung Tâm Bastogne. Sau đợt dội bom cường tập, Trung Đội Trinh Sát của Thiếu Úy Hiệp nhẩy xuống mục tiêu khi c̣n nguyên mùi bom, lửa cháy trên đất đá. 9 giờ sáng ngày 16 tháng, đại quân Sư Đoàn I chiếm lính tất cả các cao độ quanh Bastogne. Từ trên cao nh́n xuống, lá Cờ Vàng của Thuận Hóa, Bastogne đổ nát sáng rực giữa chập chùng màu xanh của rừng với hơi khói đạn chưa tan.

Sau thất trận thê thảm ở cửa ngơ vào Tây-Nam Huế, nơi thung lũng A Sao, sư đoàn 324B phải rút về Lào để tái bổ sung, biến mất khỏi chiến trường Trị-Thiên. Nhưng thất bại quân sự của phía cộng sản không chỉ dừng lại với sư đoàn 324B mà c̣n kéo dài, mở rộng hơn với ảnh hưởng sâu xa đối với toàn thể mặt trận phía Bắc nói riêng và sách lược của cuộc tổng công kích mùa Xuân 1972 trong tầm cỡ rộng lớn tổng quát. Chúng ta hăy theo dơi tiếp sức mạnh vô địch của Lôi Phong.

Do một tính toán sai lầm tai hại (sau này giới nghiên cứu chiến lược, quân sử Mỹ, Việt, kể cả phía cộng sản đồng xác nhận đấy là sai lầm của chính Vơ nguyên Giáp) (20), Bắc quân mở trận đánh phục thù vào ngày 21 tháng 5 bằng đội h́nh mở rộng trên trận địa với chiến xa và bộ binh tùng thiết theo chiến thuật cổ điển của chiến tranh quy ước ở một vùng chiến trường mà họ đánh giá là có ưu thế. Trên vùng lau sậy bạt ngàn dọc Phá Tam Giang song song với bờ biển, bộ binh và chiến xa cộng sản dàn đội h́nh theo trục lộ 555 (con đường nối Quận Hải Lăng cực Nam Quảng Trị về Quận Phong Điền, Bắc Thừa Thiên) Kiểm soát được tuyến đường tức là nối được trục tiếp vận Bắc-Nam của vùng đồng bằng thuộc hai Tỉnh địa đầu mà không cần phải phụ thuộc vào Quốc Lộ I, hiện tại không thể vượt qua được chốt Cầu Mỹ Chánh (do Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ, phần trên vừa tŕnh bày). Lực lượng cộng sản thoạt tiên được tấn công các Đồn Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, thành phần nầy được lệnh rút bỏ vị trí, lui về pḥng tuyến của Thủy Quân Lục Chiến. Nương theo đà thắng lợi ban đầu, Bắc quân thọc sâu về phía Nam định bao vây, bọc hậu hai Tiểu Đoàn 3 và 9 Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng hai đơn vị nầy đă áp dụng một kế sách tuyệt diệu: Bỏ trống trận địa không cho địch ưu thế chọn lựa chiến trường, để dành lại tư thế, khả năng thủ thắng cuộc giao tranh theo kế hoạch hành quân của ḿnh, bằng cách lui binh sâu về phía Nam 5 cây số lập pḥng tuyến mới. Khi binh đội cộng sản tiến vào khu vực bỏ trống (của hai Tiểu Đoàn 3 và 9 Thủy Quân Lục Chiến vừa rút khỏi) th́ cơn mưa lũ lửa, sắt, thép của hàng trăm phi cơ Việt-Mỹ cùng đổ xuống (nơi những vị trí đă sẵn yếu tố tọa độ tác xạ, dội bom). Nhưng nhất quyết không chịu rời bỏ mục tiêu đă dự trù chiếm lĩnh, sáng sớm ngày 22, lực lượng cộng sản tập trung hai mươi chiến xa c̣n lại mở đợt tấn công lần hai vào vị trí Tiểu Đoàn 3 và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 369, nhưng cố gắng này hoàn toàn phá sản, bởi những giàn phóng hỏa tiễn TOW do Thủy Quân Lục Chiến sử dụng đă khai triển, vận động hết hỏa lực đáng sợ của nó, bắn hạ 10 chiến xa T-54 ngay trong đợt phản công đầu tiên, có chiếc bị cháy chỉ cách hầm chỉ huy Lữ Đoàn khoảng 400 thước. Thế trận Bắc quân hoàn toàn tan vỡ, thiệt hại 542 xác đếm được mà theo ước tính phải thêm một trung đoàn nữa bị loại ra khỏi ṿng chiến. Như cơn điên mê của loài thiêu thân tuyệt vọng, Tư lệnh mặt trận B2 cộng sản lại chuyển mũi dùi tấn công sang phía Tây, vùng trách nhiệm của Lữ Đoàn 258 Thủy Quân Lục Chiến và Liên Đoàn I Biệt Động Quân. Cách đánh thí quân nầy không gây thâu đạt một kết quả nhỏ nào mà c̣n để lại hơn hai trăm xác nằm chật trên những bờ băi lau lách màu đỏ thẫm. Màu đỏ vốn có do từ nước cặn phèn nay thêm sẫm màu bởi máu đọng vũng. Không để cho địch quân có th́ giờ dưỡng thương, Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến sử dụng Lữ Đoàn c̣n lại đánh dập toàn bộ những mũi tấn công của binh đoàn cộng sản cố lấn sâu xuống phía Nam Sông Mỹ Chánh. Kế hoạch tấn công dứt điểm được h́nh thành với cuộc hành quân Sóng Thần 1972 để đưa Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến vào trận.

Có thể nói rằng, đây là một cuộc hành quân Thủy-Bộ được tổ chức cao nhất từ trước đến nay của chiến tranh Việt Nam do phối hợp nhịp nhàng, vận dụng hết khả năng cơ động của Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam, kỹ thuật khoa học quân sự hiện đại tinh vi của Quân Đội Mỹ, cùng sức mạnh ghê hồn của hỏa lực phi pháo. Ngày 23 tháng 5, Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến kín đáo rời pḥng tuyến bố quân để ra bến tàu Tân Mỹ, năm cây số Đông-Bắc Thị Xă Huế, Tiểu Đoàn xuống tàu nhỏ ra Hạm Đội 7 đậu ngoài khơi, chờ giờ vượt tuyến tấn công mà đến lúc nầy cấp chỉ huy mới phổ biến cho binh sĩ biết. Cần mở một giải thích quan trọng về địa thế của chiến trường được chọn. Từ lúc chiến tranh Đông Dương Thứ I (1945-1854), vùng đất thuộc eo biển miền Trung dọc Phá Tam Giang, nằm giữa Quốc Lộ I và bờ biển nầy là một vùng cấm kỵ của lực lượng quân đoàn viễn chinh Pháp, bởi địa thế quá hẹp, trống trải, nhưng là vùng śnh lầy không thuận tiện đối với việc điều động cơ giới, bộ binh di chuyển khó khăn, lại không có chướng ngại thiên nhiên để che dấu khi tiếp cận mục tiêu hoặc ẩn tránh nếu xảy ra trận đánh. Tháng 7.1953 Tướng Navarre (thay thế Tướng De Latter giữ chức Tư Lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương từ tháng Năm 1953) vừa cầm quyền được hai tháng, đă mở cuộc hành quân Camargue với một lực lượng Thủy-Bộ đến 30 tiểu đoàn cốt để đánh bật trung đoàn 95 cộng sản ra khỏi vùng, giải tỏa áp lực địch mạn Bắc Huế, vẫn là một địa danh có giá trị tinh thần, tác động chính trị đối với tâm lư người Việt những người vẫn c̣n ḷng ngưỡng vọng một ông Vua với danh hiệu Quốc Trưởng, với những danh xưng, nghi lễ ‘’hoàng thượng, bệ hạ’’. Nhưng dù khoa trương rầm rộ, cuộc hành quân phải chấm dứt vài ngày sau v́ số thương vong do ḿn bẫy quá cao, và không có một đụng độ đích đáng như dự trù. Và dù trận liệt đă báo cáo bắt được 387 tù binh, 182 địch bị hạ, nhưng trung đoàn 95 kia vẫn hoạt động, và tiếp tục chiến đấu ở thời gian sau. Từ đấy, binh đoàn viễn chinh Pháp gọi địa danh đáng sợ này với một tên hiệu thê thảm ‘’Dăy Phố Buồn Thiu’’, và Học Giả người Pháp Bernard Fall đă dùng làm tiêu đề cho một Biên Khảo của ông về chiến tranh Đông Dương Lần Nhất (1945-1954). Thế nên, địa danh trở nên quen thuộc với giới nghiên cứu quân sự và người viết nên cuốn sách kia cũng đă thiệt mạng do ḿn bẫy khi theo Quân Đội Mỹ hành quân trên vùng đất nầy vào năm 1967. Nhưng nay, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến phá tan huyền thoại âm u kia lẫn lời tán tụng: ‘’sư đoàn ‘nặng’ 325 tổng trừ bị quân đội Bắc Việt là một đơn vị quân đội nhân dân anh hùng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng’’. Với một phối hợp đồng bộ tuyệt hảo, Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam đặt trên Soái Hạm USS Blue Ridge cùng với Ban Tham Mưu Hạm Đội điều hành, chỉ huy cuộc hành quân đưa Tiểu Đoàn 7 trở lại bờ biển bằng tàu đổ bộ của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Khi đoàn quân cách bờ khoảng ba cây số, giàn hải pháo của Hạm Đội 7 sử dụng những đại pháo có đường kính 16 inches hay 406 mm như của Thiết Giáp Hạm New Jersey đổ một màn lửa và mảnh thép công phá xuống các băi đáp dự trù, sau cơn băo nhân tạo do các hải pháo, phi cơ Hạm Đội xuất kích với Sky Hawk của Hải Quân hoặc F-4C Phantom. A-7F Corsair của Thủy Quân Lục Chiến, tiếp dọn sạch các mục tiêu và cuối cùng, con bài chủ lực B-52, vũ khí cột trụ của Lôi Phong được gọi tới trải tấm thảm lửa hung hăm suốt chiều dài băi biển dọc theo Hương Lộ 555. Lửa cuồn cuộn tung hoành đỏ rực sóng biển, hắt ánh hồng át mặt trời vừa bắt đầu b́nh minh. Từ khoảng cách hai cây số, (khoảng an toàn tối thiểu đối với B-52, vốn là phi cơ oanh tạc chiến lược), hai đợt tàu đổ bộ gồm mỗi đợt 40 chiếc đưa Tiểu Đoàn 7 ào vào vào bờ như những cơn sóng biển…Mà thật sự là một biển người đồng loạt xông lên bờ cát âm âm mùi bom lửa. Đơn vị cộng sản cố thủ bờ biển trong chớp mắt phân tán mỏng chạy về Quốc Lộ I t́m đường sống sót. Một đại đơn vị chỉ c̣n 10 (đúng con số 10) tù binh ngơ ngẩn v́ quá sợ hăi đưa cao tay đầu hàng lính Thủy Quân Lục Chiến. Nhưng đơn vị cộng sản tháo chạy hướng Quốc Lộ I (để vào vùng núi phía Tây), hoặc về phía Bắc (hướng Sông Thạch Hăn) cũng không c̣n hy vọng được trốn thoát lần cuối, v́ hai Tiểu Đoàn 6 và 4 đă nhảy xuống giao điểm nút chặn (của Hương Lộ 555 hướng Nam-Bắc và Hương Lộ 602 hướng Đông-Tây) với cuộc trực thăng vận thần tốc thực hiện đúng vào lúc Tiểu Đoàn 7 đổ quân. Hai Tiểu Đoàn 4 và 6 đụng độ ngay tại băi đáp với trung đoàn 18, đơn vị thuộc sư đoàn 325, mà bộ chỉ huy đă thoát khỏi trận địa từ sau những thiệt hại từ giữa tháng 5. Sau bảy ngày ‘’chà láng’’ mật khu ‘’Dăy Phố Buồn Thiu’’, Lữ Đoàn 147 trả khung cảnh im ĺm cho khu vực đúng như tên gọi, rút lại về pḥng tuyến Mỹ Chánh, Quân Đội Cộng Ḥa rút đi cùng lần biến mất khỏi trận địa những đơn vị từng là huyền thoại của bộ đội miền Bắc. Hai trung đoàn mang danh số 66 và 88 của quân đội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa hoàn toàn mất dấu khỏi hồ sơ trận liệt kể từ ngày, tháng nầy. Chỉ trong ṿng một tháng 5, trong vùng trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến đă có tới hai ngàn xác đếm được, hơn ngàn vũ khí bị tịch thu, 60 chiến xa bị loại khỏi ṿng chiến, có chiếc khi bị ‘’bắt sống’’ c̣n nguyên vũ khí, số đạn cấp phát: Binh sĩ những Tiểu Đoàn 6 và 8 Thủy Quân Lục Chiến của Trung Tá Đỗ Hữu Tùng, Nguyễn Văn Phán đă không cho xạ thủ những chiếc tăng nầy bắn được một viên đạn (21).

Sau 27 tháng Bảy, Thủy Quân Lục Chiến thay thế Nhẩy Dù để ‘’dứt điểm’’ Cổ Thành Quảng Trị. Thật ra, kể từ 25 tháng 7, Tiểu Đoàn 5 Dù đă bám được bức tường đá Cổ Thành Quảng Trị với yểm trợ tiếp cận của phi cơ A-37 Không Quân Việt Nam, nhưng khi Đại Úy Nguyễn Tiến Sĩ, Đại Đội Trưởng 51 của Tiểu Đoàn nầy thúc lính ḅ lên Thành th́ cũng là lúc Không Quân Hoa Kỳ can thiệp, dội bom Nội Thành, do những lư do kỹ thuật, hai trái bom đă đánh nhầm vào đội h́nh quân bạn, Tiểu Đoàn 5 mất đà, khựng lại và dội ngược. Sư Đoàn Dù lại để trống Ngă Bến Chùa, đường qua sông Thạch Hăn về Nhan Biểu, Ái Tử. Đường tiếp vận quan yếu của hệ thống hậu cần Bắc quân. Chín Tiểu Đoàn Dù hiện có chỉ vừa đủ rải từ Mỹ Chánh đến Quảng Trị, từ đường chiến thuật 556B ra đến Quốc Lộ I thế nên, cần phải có thêm một Lữ Đoàn (với ba hoặc bốn Tiểu Đoàn Bộ Binh tác chiến) tăng cường để chận con đường Ái Tử-Nhan Biều-Cổ Thành là ước vọng tha thiết của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Dù hay cũng chính của Tướng Trưởng. Gần hai tháng qua đi kể từ ngày khởi cuộc phản công, tất cả các đơn vị tham chiến bị ngưng lại bên bờ hào của ṿng Thành đá tảng, tuyến chiến đấu của ta và địch cách nhau đúng 400 thước (hai tấn đạn súng cá nhân), nhưng cũng có nơi không c̣n thước nào cả. Bởi các chốt kháng cự đan kín vào nhau, nên nay đă đến lúc cần phải thay đổi kế hoạch tác chiến để thực hiện lời nguyền trước Quốc Dân và lịch sử. Tư Lệnh Chiến Trường, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định cùng hai viên Tư Lệnh Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Hai Tướng lănh vừa được vinh thăng tại mặt trận, trên chiến địa Trị-Thiên nầy. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng và Bùi Thế Lân một kế hoạch tái phối trí Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến nhận trách nhiệm phần đất bên trái Quốc Lộ I chạy dài ra đến biển. Sư Đoàn Dù từ trái Quốc Lộ đổ sâu vào hướng núi. Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến thay chỗ 6 Dù chịu trách nhiệm góc Tây-Nam Cổ Thành Ngă Tư Đường Trần Hưng Đạo-Quang Trung, Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến đổi 5 Dù chịu trách nhiệm pḥng tuyến dọc Đường Lê Văn Duyệt đối diện Cửa Tiền, Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đổi 11 Dù. Trâu Điên (Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến), Quái Điểu (Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến) chận đường cửa Bắc ngang Sông Thạch Hăn, cũng là đường tiếp vận cho lực lượng cộng sản cố thủ Cổ Thành. Những gịng chữ sau đây viết theo câu chuyện Người Lính Thủy Đánh Bộ kể lại (22). Chúng ta hăy sống cùng những giờ phút dũng liệt với xương máu của mỗi một người lính. Những Người Lính Vô Danh mà linh thiêng sông núi đă hun đúc nên thành, gánh chịu suốt cuộc chiến điêu linh.

Đại Tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến, vị Lữ Đoàn Trưởng thâm niên nhất của Sư Đoàn nhận nhiệm vụ chỉ huy đơn vị xung kích tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị từ hướng Tây-Nam. Lữ Đoàn 147 chịu trách nhiệm mặt phía Đông từ Quận Triệu Phong ra đến biển. Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến kể từ ngày thay thế Nhảy Dù tuy đă chiến đấu không hề ngưng nghỉ nhưng cũng chỉ đẩy các chốt địch từ ngoài vào trong Cổ Thành, và điểm gần nhất cũng c̣n cách bờ hào Thành khoảng hai trăm thước. Không thể chần chờ hơn nữa, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I dưới điều hành trực tiếp của Tướng Trưởng soạn thảo Kế Hoạch Lôi Phong giai đoạn hai sử dụng tối đa hỏa lực phi, pháo trong 48 giờ liên tiếp theo diễn tiến. Không Quân chiến lược B-52 liên tục trải thảm từ Sông Thạch Hăn (Bắc Cổ Thành) đến Đông Hà (Bắc Quảng Trị 50 cây số), có nhiệm vụ đập nát tất cả vị trí pháo binh, hỏa tiễn, bộ chỉ huy, điểm tiếp vận, tiếp đến hải pháo từ Hạm Đội 7 bắn vào các điểm nghi ngờ liên tục trong suốt chiến dịch vào những lúc phi cơ tạm rời vùng, pháo binh diện địa 175 ly từ Phong Điền tăng cường quấy rối, đặc biệt chiếu cố thật kỹ vị trí tọa độ Cổ Thành, 12 khẩu đại bác 155 ly, 54 khẩu 105 ly cơ hữu của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến được lệnh tác xạ không ngưng một phút, Pháo Thủ chỉ thay nhau ngủ vài giờ nửa đêm, từng khẩu pháo được điều chỉnh để không một trái đạn rớt ra ngoài bờ Thành. Đạn bắn không cần đếm, hàng trăm xe vận tải hạng nặng chở đạn đi suốt ngày đêm trên lộ tŕnh Đà Nẵng-Quảng Trị, đạn giở xuống để ngay trên Quốc Lộ I dài hàng cây số, lính Pháo Binh cứ tự động đến lấy mang về vị trí pháo binh khỏi phải làm phiếu lănh. Có người đă ôm viên đạn trong tay nhưng kiệt sức, không nạp nổi vào ṇng, anh ta ngă gục bên khẩu pháo. Trong ṿng 48 giờ, đă có 60.000 quả đạn bắn đi, không một phân đất nào của khu vực chung quanh Cổ Thành trong Thị Xă không có dấu đạn rơi.

Về phần bốn bờ tường Thành được dành cho Không Quân chiến thuật Việt Nam và Mỹ từ Đà Nẵng, Chu Lai, Tuy Ḥa, Hạm Đội 7 đồng thực hiện. Các Phi Công phải lựa chiều đánh bom làm sao quả bom rơi đúng trên năm thước bề dày của chiếc Thành, cốt triệt hạ khối đá vuông vức kia thấp xuống, càng thấp càng tốt, phải đập nát bốn lô cốt ở bốn góc, khóa họng những thượng, đại liên mà xạ thủ đă bị xích chân vào súng. Và cuối cùng cũng phải cầu viện đến ‘’bon mắt thần’’, những quả bom nặng 500 cân Anh, điều khiển bằng Rada để đánh xuống những đoạn Thành quá kiên cố mà pháo và bom thường không triệt hạ được. Nhưng cái tường Thành ngạo nghễ kiên cố kia dầu chỉ c̣n thấp khoảng vài ba thước, gạch đá ngổn ngang vẫn c̣n những đám con cháu ‘’bác Hồ’’ chui rúc trong những căn hầm chữ A, loại hầm cứng chắc có khả năng chịu được phi pháo, chỉ trừ khi bom rơi ngay vào miệng hầm. Thế nên, cứ dứt pháo th́ địch lại nhô đầu ra bắn điên cuồng về phía trước mặt, hiệp cùng cối pháo, hỏa tiễn bên kia bờ Thạch Hăn, trong núi, Nam Sông Bến Hải dội xuống dồn dập. Không để bị bó buộc v́ t́nh thế, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến lại thêm một lần thay đổi ư định điều quân: Lữ Đoàn 369 bàn giao vị trí cho bạn, lui binh làm thành phần trừ bị, cái ‘’bánh chưng’’ gọi là Cổ Thành kia được cắt ra làm hai: Nửa phía Đông giao cho Lữ Đoàn 258 điều động ‘’Trâu Điên’’ Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đánh từ hướng Tây. ‘’Ó Biển’’ Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến đánh chính diện Cửa Hữu theo Đường Quang Trung, vùng cư dân trước đây gọi là Phường Thạch Hăn. Lực lượng tấn công dứt điểm sẵn sàng trên tuyến xung phong đợt Lôi Phong chấm dứt sau 48 giờ băo lửa.

Tại hầm chỉ huy Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến, Thiếu Tá Cảnh nói cùng Đại Úy Thạch, Đại Đội Trưởng Đại Đội 3: ‘’Anh Thạch, tôi biết anh muốn lui về nghỉ có mấy ngày, nay giao cho anh nhiệm vụ nầy th́ kỳ quá, nhưng Tiểu Đoàn ḿnh chỉ c̣n anh là Đại Đội Trưởng cứng nhất, kế hoạch Lôi Phong 2 đă bắt đầu từ ngày hôm qua, đợi chờ chấm dứt, tối nay anh đem Đại Đội lên trám tuyến cho ‘’thằng 1’’ (Đại Đội 1), rồi t́m cách tiến sát vào chân thành kia trước khi trời sáng. Nếu không được th́ lui về, để trời sáng tụi nó nh́n rơ là hỏng việc.

Đại Úy Thạch về họp cùng với Trung Đội Trưởng để bàn định kế hoạch đột kích. Anh nói với những Trung Đội Trưởng đang ngồi chen chúc trong chiếc hầm ch́m bóng tối, những tṛng mắt khô rốc mệt mỏi trừng trừng nh́n xuống tấm bản đồ đặt trên đất: ‘’Đây, cái bờ Thành nầy, làm thế nào Đại Đội ḿnh cũng phải leo lên cho được, điều tôi dặn kỹ là binh sĩ không được bắn vu vơ, đến sát bờ Thành th́ tung lựu đạn thật nhiều rồi leo lên, bám chặt vào đó. Đừng để tên nào leo xuống. Bám vào được th́ ḿnh mới có thể bung ra hai bên. Đến trước viên Thiếu Úy cùng tên Thạch, anh nói riêng: ‘’Ông với tôi cùng tên ‘’Thạch là đá’’, đá th́ phải cứng, tôi chọn ông đi tiên phong là thế. Hy vọng ông làm được việc’’.

Đại Đội 3 Tiểu Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến vượt tuyến tấn công lúc nửa đêm, ba giờ sáng, đoàn quân đến mục tiêu ấn định, bờ tường Cổ Thành Quảng Trị, nơi cách hầm đóng quân hai trăm thước khoảng cách được vượt qua bởi những người lính ḅ im lặng trong đêm trên gạch đá, ḿn bẫy và dưới trùng điệp lưới lửa, đạn đại pháo của cả hai bên…Đột nhiên, một loạt đạn pháo binh nổ rền ngay trên đầu hướng tiến của Đại Đội, Thạch (Đại Đội Trưởng) giật ḿnh cầm ống nói:

- Thạch Thảo (danh hiệu truyền tin của Thiếu Úy Thạch) anh có làm sao không ?

- Tŕnh thẩm quyền vô sự. Có tiếng nói lao xao bên đầu Trung Đội của Thiếu Úy Thạch (nghe qua máy truyền tin), tiếp tiếng la mừng rỡ của người Trung Đội Trưởng: Tŕnh Đại Bàng (người chỉ huy), thằng Xuân của tôi đă qua hào vào sát bờ Thành, pháo đang nổ trên đầu nó, Thẩm Quyền bảo ông ‘’Phở Bắc’’ (Pháo Binh) ngưng đi để tụi nó leo lên…

Báo cáo được nghe tiếp với những lời nói dứt khoảng dồn dập lẫn trong âm động đạn súng tay, lựu đạn, đại liên và pháo, cối từ phía Bắc bắn xuống yểm trợ đám bộ đội cộng sản… ‘’Thằng Xuân đă lên đến bờ tường rồi…Chúng tôi đă sang…bên kia…bờ hào nước…Tụi nó…tụi nó bắn ghê quá…Lên…lên…đi’’. Không đợi nghe hết lời báo cáo, Đại Úy Thạch đứng sổng dậy hét to: Xung phong…xung phong! Tất cả Đại Đội vụt chạy nhanh qua chiếc hào Thành đă cạn nước v́ đất đá hai bên đổ xuống. Những người lính đồng thanh ḥa theo lời hô của viên Đại Đội Trưởng…xung phong!! xung phong!! Những thân người ngă xuống vật vă trên gạch đá tan vỡ, màu tươi rói bắn ra tia thấm đẫm bạt vào người bên cạnh. Không biết ai trúng đạn, ai c̣n sống, khoảng cách quá gần và trời quá tối, những người thoát đạn xốc tới… Xung phong…xung phong!!

Cùng lúc phía Tây-Nam, Đại Đội của Đại Úy Định (Định ‘’con’’, để phân biệt với Đại Tá Định, Lữ Đoàn Trưởng 258) thuộc Tiểu Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến khi nghe tiếng hô rền từ cánh quân bạn cũng đồng bật dậy, bỏ vị trí xốc tới…xung phong…xung…xung phong! Giữa bóng tối mù mịt, qua ánh chớp đạn pháo binh địch, và lóe sắc của lựu đạn đánh cận chiến, bóng h́nh người Thủy Quân Lục Chiến ào lên thấp thoáng, vùn vụt trên những khối đen của dăy tường Thành loang lỗ chập chờn lửa dậy. Bốn giờ sáng, trời vừa hừng đông, được tăng thêm độ sáng do đạn lửa của pháo hỏa tiễn cộng sản bắn tràn lên vị trí để các đơn vị bộ đội địch tháo chạy, những người lính Thần Ưng (Tiểu Đoàn 6), Sói Biển (Tiểu Đoàn 3) hoàn toàn làm chủ, tràn ngập trên bờ thành phía Nam, về phía Đông, khu trách nhiệm của Tiểu Đoàn 8, Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Tá Nguyễn Văn Phán vượt lên tuyến đầu đích thân thúc quân ép sát vào bờ Thành bởi nhận ra sức chiến đấu của đám lính cộng sản cố thủ yếu dần, đang thất thần t́m đường lẩn trốn trước đợt tiến công dồn dập uy mănh của lính miền Nam, những tên không tháo chạy được bị thanh toán tại hầm bằng lựu đạn, hoặc súng tay bắn với khoảng cách gần nhất, đạn xuyên vào da thịt người nghe lụp bụp, thân người nẩy ngược lên. Hướng chính Tây, mặt tấn công của Tiểu Đoàn 2 cùng Thiết Đoàn 20 Chiến Xa, lực lượng xung kích ào vào chân thành như thác lùa, lũ lớn theo những khoảng vỡ đổ của bức tường Thành nay đă biến dạng thành khối h́nh ngổn ngang chồng chất, lính ‘’Trâu Điên’’ xốc tới như tên hiệu đơn vị, những con trâu trong cơn phẫn nộ hung hăm, đánh phục thù cho trận lui binh oan nghiệt cuối tháng Tư mà họ đă tận mắt chứng kiến. Đến chiều 14 tháng 9, Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến kiểm soát toàn phần bờ Thành, khu vực phía Nam, chia quân lục soát những khu hầm nhốt tù (do người Pháp xây dựng đầu thế kỷ) mà sau nầy, trước tháng 4.1975, Tiểu Khu Quảng Trị, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh đặt Trung Tâm Hành Quân, đám lính cộng sản ném súng, lội Sông Thạch Hăn tháo chạy về phía Bắc như đàn vịt nháo nhác trên khoảng sông phơi đáy cát. Một chiếc L-19 (máy bay quan sát) bay lờ lững trên cao, anh Phi Công tinh nghịch rà xuống sát mặt nước, bắn ra trái đạn khói, những tên lính cộng sản chạy trốn hốt hoảng đưa tay đầu hàng, đứng ngơ ngác trên gịng sông mờ đục trống trải.

Đêm 14 tháng 9, lần đầu tiên sau 48 ngày, đêm, Đại Úy Thạch Đại Đội Trưởng Đại Đội 3, Tiểu Đoàn ‘’Sói Biển’’, đơn vị tiên phong của đợt đột kích dứt điển Cổ Thành được ngủ một giấc dài v́ đôi giày đă được cởi ra. Nhiều người lính của mặt trận Quảng Trị cũng được ‘’hạnh phúc’’ nhỏ bé tầm thường tội nghiệp nầy. Sáng hôm sau, ngày 15 tháng 9.1972 từ căn hầm pḥng thủ nơi đặt Ban Chỉ Huy Đại Đội, qua lỗ hổng, Thạch thấy rừng rực lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bay uy nghi trong gió sớm lẫn màn khói đạn, bom chưa tan hẳn. Anh thấy cay cay trong mắt với cảm giác nôn nao thầm lặng…Cảm xúc từ rất lâu anh không có. Cảm giác muốn khóc về một điều bi phẩm. Thạch nh́n quanh, những người lính đồng có sắc đỏ xẫm ươn ướt nơi tṛng mắt. Những khuôn mặt chai cứng, hư hao, loang lỗ lấm láp khói đạn, bụi đất đồng duỗi ra theo độ sáng của ngày mới vẻ kiên nghị kiêu hănh xen lẫn đau đớn ḱm giữ. Thạch nh́n xuống những xác binh sĩ đồng bạn mới đem về, nằm bó gọn trong những poncho phủ bụi đất, bê bết máu. Anh lơ đăng nghe báo cáo về số lượng vũ khí sơ khởi được tịch thu, đâu khoảng hai tấn rưỡi, phải cần tới một GMC mới chở hết.

Nơi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I ở Thành Mang Cá, Huế, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cất chiếc nón sắt đă đội suốt từ bao ngày đêm. Người chỉ huy chiến trường ngồi lặng im rất lâu, mặt ông trầm xuống không gợn nét, đổi sắc.

KẾT TỪ VỀ MỘT NGƯỜI LÍNH

Ba mươi năm sau, báo chí Mỹ, cho dù tờ báo khách quan, đứng đắn, hoặc giới học giả, nghiên cứu (với những con người được tin cậy, kính phục như Giáo Sư W. Tuchman) khi viết về Lịch Sử, Quân Sử Việt Nam (giai đoạn sau Mậu Thân 1968, trước Hiệp Định Paris 1973) đă không hề có một gịng chữ ngắn đối với chiến công lẫm liệt kể trên. Phim ảnh, sách, báo chí Mỹ với những đầu óc chủ bại lẫn tự tôn (khiếp nhược trước kẻ nghịch, bất nhân với bạn hữu), thiển cận từ tư cách chuyên nghiệp, bác học của văn minh kỹ thuật cao (thật sự do không đủ can đảm trí thức tự nhận nỗi bất lực thảm hại của bản thân, xă hội, bộ máy cầm quyền của quốc gia ḿnh) nên đă không nh́n rơ địch t́nh, đánh giá thấp, không tận hiểu đúng sức mạnh tinh thần của một Dân Tộc, Quân Đội bạn, điển h́nh như Thượng Nghị Sĩ Bob Kerry, kẻ viết biên khảo Stanley Karnow, Đạo Diễn phim ảnh Oliver Stone v.v…đă sử dụng hệ thống thông tin đại chúng Mỹ để trút lỗi lầm thất bại, gánh nặng ‘’hội chứng Việt Nam’’ lên lưng người Lính Việt với một lư luận hàm hồ chung nhất: ‘’Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không chịu chiến đấu dù rằng người Mỹ đă góp nên trị giá 58.000 người chết và hơn 100 tỷ đô la trong cuộc chiến với cộng sản Việt Nam’’ Những kẻ này đă không hề biết đến (hoặc cố t́nh không biết) những số liệu: 587 Tù binh Mỹ và người nước ngoài (gồm một binh sĩ Đại Hàn và hai binh sĩ Thái) Số liệu của Ban Liên Hợp Quân Sự do chính bản thân người viết làm báo cáo là 585) trao trả theo điều khoản của Nghị Định Thư Tù Binh. Hiệp Định Paris gồm 473 nhân viên quân sự thuộc thành phần Phi Hành Đoàn của những phi cơ bị bắn hạ trên lănh thổ Bắc Việt kể từ khi Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc do cớ sự vụ tàu Maddox (tháng 8.1964) (23) Hiệu số của 585 và 473 là 112, trừ thêm ba (3) Quân Nhân có quốc tịch nước ngoài kể trên, ta có con số: 109 người là tổng số tù binh Mỹ bị bắt ở miền Nam, gồm thường dân, nhân viên T́nh Báo, cố vấn Cơ Quan B́nh Định, và Quân Nhân bộ binh Mỹ (24) Trong khi ấy phía Việt Nam Cộng Ḥa trao trả về phía cộng sản 26.508 nhân viên quân sự và nhận về 5.081 người lính từ Binh Nh́ đến cấp Đại Tá (25). Cơ sở Rand Mc Nelly sử dụng trong Chronicle of 20 Century c̣n cho thêm số liệu 924.048 lính cộng sản tử thương (26) ở chiến trường. Từ những chứng số kể trên (do những cơ quan thống kế, chắc chắn không do cảm t́nh với chính phủ, Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, nếu không nói là ngược lại) chúng ta có thể kết luận với mức độ chính xác nhất: Trong suốt chiến tranh Việt Nam từ khi Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ lâm chiến. Cuộc hành quân Starlight, tháng 5.1965 đến 27 tháng 3 năm 1973, bộ binh cộng sản hoàn toàn né tránh các đại đơn vị bộ chiến Mỹ, nếu có đụng độ chăng chỉ là những đơn vị cấp Đại Đội, phía Mỹ bị thương vong phần lớn do bị đánh ḿn bẫy, phục kích, pḥng không, pháo kích. Số lượng 924.048 bộ đội cộng sản tử thương, 26.508 tù binh bị bắt đổi lại 5.081 người của Việt Nam Cộng Ḥa (chưa kể số lượng 200.000 cán binh cộng sản đầu hàng Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa tại trận địa, hồi chánh chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa với nhiều h́nh thức, tại nhiều địa phương trong nhiều trường hợp) đă xác chứng: Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa là đơn vị chủ động chiến trường do đă kiên cường chiến đấu và uy hùng chiến thắng trên chiến địa. Nói như thế để cùng nhau hiểu một điều đau đớn: Ngày 30.4.1975 là một bi thảm phẫn uất suốt giải quê hương, nỗi oan khiên chung của toàn Dân Tộc Việt Nam. Nhưng đây là đề tài thuộc về những biên khảo khác.

Để kết luận, ta thử t́m so sánh: Người Đức bao vây Stalingrad 76 ngày, người Mỹ giữ Bataan trong 66 ngày, Corregidor 26 ngày, Quân Lực Anh và Khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk trong 241 ngày, phải mất đến bốn ngày kịch chiến, một Trung Đội thuộc Trung Đoàn 28 Sư Đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ mới dựng được ngọn cờ oai dũng Sao và Sọc lnê đỉnh núi Suribachi của Đảo Iwo Jima. Và đây gần nhất, Điện Biên Phủ thực sự bị bao vây 56 ngày dưới sức công phá của những sơn pháo 75 ly, và đại pháo (Trung Cộng) tương đương 105 ly. Những cuộc bao vây tử thủ, tấn công lừng danh này được thực hiện bởi súng tiểu liên Sten, Mai 36, Garant, Carbin M1, loại vũ khí hàng đầu của Bộ Binh Mỹ, cũng là Bộ Binh hàng đầu thế giới. Những trận đánh để đời của Quân Sử toàn cầu khi đó có ǵ so với Quảng Trị, chỉ từ 27 tháng 7 đến 14 tháng 9 là 48 ngày, và nếu kể từ ngày 7 tháng 7, lúc Tiểu Đoàn 7 Dù vượt qua Ngă Ba Long Hưng, vào cách Chi Khu Mai Lĩnh 300 thước th́ mặt trận Thành Phố Quảng Trị thực sự đă kéo dài trong 68 ngày. Trong 68 ngày ấy, lực lượng bộ chiến gồm 4 Tiểu Đoàn Dù (5, 6, 7, 11) trong giai đoạn đầu, hoặc 8 Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một Liên Đoàn Biệt Động Quân và một Thiết Đoàn chiến xa của giai đoạn 2. Trong 68 ngày đó, chỉ riêng 48 ngày của Thủy Quân Lục Chiến, những người Lính Quân Đội miền Nam đă phải chiến đấu liên tục trên một chiến trường dài hai cây số năm trăm thước từ Ngă Ba Long Hưng, ngơ vào Thị Xă Quảng Trị đến sát bờ Sông Thạch Hăn, và bề ngang một cây số hay 1000 thước. Những con số này phải viết chính xác để nói đủ về một chiến trường hẹp cứng, gai góc vượt hết ư niệm chiến trận. Chiến trường có diện tích ‘’hai ngàn năm trăm thước vuông’’ đó đă được 15 Tiểu Đoàn Bộ Chiến bao vây quét sạch từng thước đất, phải nói từng tấc đất, nếu muốn giữ độ chính xác trong 68 ngày. Đội quân 15 Tiểu Đoàn có khoảng 7.500 đến 8.000 người phải vượt qua 2500 thước vuông mục tiêu. Vậy mỗi người lính có bao nhiêu thước đất chiến trận ? Chỉ số trung b́nh cho thấy ‘’3 người lính có 1 thước vuông mục tiêu chiến đấu’’. Một thước vuông để tác chiến trong 68 ngày. Quân Sử Thế Giới, trước và sau Quảng Trị, không một nơi nào, không thể có một chiến trường nào chật cứng, đứt hơi bằng ở Quảng Trị Việt Nam. Chắc chắn như thế. Trong 68 ngày đó, sáu Tiểu Đoàn Pháo của hai Sư Đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến, dàn hải pháo Hạm Đội 7 đă bắn bao nhiêu trái đạn ? Phi cơ chiến đấu Mỹ từ Chu Lai (Quảng Tín), Đông Tác (Tuy Ḥa) (27) từ Guam (28) của Hạm Đội 7 (ngoài khơi lănh hải Đông Dương) Phi cơ Việt Nam từ Đà Nẵng đă đánh bao nhiêu bom xuống khu vực Cổ Thành ? Trong 68 ngày, bao nhiêu cân bom, trái đạn đă rơi xuống trên mỗi phân đất của Thị Xă chiều dài không quá 15 phút Honda ấy ? Quảng Trị! Muốn được kêu lên một tiếng, muốn nhỏ xuống ḍng nước mắt. Thành Phố Quê Hương là Thánh Địa chịu nạn cho hết tai ương nhân loại. Không một nơi chốn nào trên địa cầu nầy phải chịu đựng cảnh huống điêu linh khốc liệt bằng vùng đất gọi tên Quảng Trị, nơi Thị Xă có khối Cổ Thành Đinh Công Tráng.

Không dân tộc nào nên sức chịu đựng so cùng dân và lính ở miền Nam.

Phải! Người Lính Việt Nam đă chiến đấu và tồn tại như một nhiệm mầu. Trên mầu nhiệm b́nh thường lặng lẽ nầy. Tổ Quốc điêu linh thở từng hơi ngắn đớn đau nhưng bền bỉ. Chữ nghĩa hoàn toàn vô nghĩa trước chân dung bi tráng hùng vĩ của Người và Quê Hương. Nơi đất phương Nam với người chỉ huy giữ nước tên gọi NGÔ QUANG TRƯỞNG.

Phan Nhật Nam
Để nhớ ngày
Người Lính lẫm liệt giữ vững Quê Hương
14 tháng 9.1972
Nơi Quảng Trị
Ở Việt Nam.

Ghi Chú:

13-14.- Lewis Soley A better War Harvest Book Florida. USA (p.332)

15.- B́nh Giả, Tỉnh Phước Tuy, miền Đông Nam Bộ, nơi xẩy ra trận địa chiến cấp trung đoàn đầu tiên ở miền Nam tháng 12.1964.

16.- Vietnam Experience South Vietnam On Trail (p.138)

17.- Tu Chính Án do Frank Church và John S. Cooper đệ tŕnh Quốc Hội Mỹ (1970) cấm Bộ Binh Mỹ tham chiến Campuchia, Không Quân Mỹ không được hoạt động ở Đông Dương.

18.- Stanley Karnow Vietnam A History, Penguin Books NY 1984 (p.544)

18bis.- Trần Văn Đỉnh, Huế My City, Myself National Greographic Nov.1969.

19.- Mai Ḥa. Sư Đoàn I Trở Lại Bastogne Diều Hâu Sài G̣n số tháng 5.1972.

20.- Phillip B. Davidson Vietnam at War Presidio Press CA, 1988 (p.169)

21.- Trần Văn Hiển Thủy Quân Lục Chiến và Trận Chiến Xuân Hè KBC 21 Ca, USA 1995.

22.- Sói Biển Thạch Thảo Lính Thủy Đánh Bộ KBC (20, 25, 26) CA 1998-1999

23-24-25.- Phan Nhật Nam Tù Binh Và Ḥa B́nh, Hiện Đại Sài G̣n, 1974, trang 143-168.

26.- Yearbook Grôlier Canada, 1974, Rand Mc. Nally Inc USA, 1987.

27.- Căn Cứ, Phi Trường Quân Đội Mỹ dọc miền Trung Nam Việt Nam (1965-1973)

28.- Căn Cứ Hải, Không Quân Mỹ thuộc Quần Đảo Mariana, Tây Thái B́nh Dương
**********************************************************************************************************************************************************************************************************


 

 


VĂN CHƯƠNG

Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013 
Bài vở cũ 2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả

Những bài viết của Bất Khuất


Giấc mộng kinh hoàng  
Hồi Kư của vợ người tù “cải tạo”  
Viễn thám
Trong bóng hoàng hôn
Tâm sự cùng Nữ Sĩ Dư Thị Diễm Buồn  
Phản bội Đồng Minh hay thay đổi chiến lược chống CS
Cái áo Jacket Không Quân
Ánh sáng cuối đường hầm
Sức mạnh của đồng tiền  
Di chúc tuyệt mệnh  
Rồi tôi sẽ hạnh phúc  
Anh không chết đâu anh  
V́ sao tôi là Nữ Quân Nhân?  
Nồi chè của Ông Tướng  
Người cha trăm tuổi  
Hai ngày gác ở Nghĩa Trang Quân Đội
Dự lễ Phật Đản  
Từ mặt đường dậy sóng ...  
Viết cho một người lính  
Mặt trận Tân Cảnh, Kontum 1972 
Nghĩa Quân 
Chia sẻ với các em của chị
Có những chuyến tàu
Những mảnh hồn phiêu bạt ...
Cho nhau cuộc đời  
Cha và con với biển và cá  
Kẹt cứng gọng kềm

Người tù binh hồi chánh bên bờ sông Ba  
Cái bóng của vị thầy tu  
Cái nón sắt của người lính VNCH  
Trăm ngh́n nhánh khổ  
Sài-G̣n miền đất địa linh nhân kiệt
Triết lư nhân sinh - Luận về mộng mơ qua Văn chương và Triết học  
Tấm thẻ bài  
Tung cánh chim t́m về tổ ấm  
T́nh nghĩa Vợ, Chồng khi kẻ mất, người c̣n đời sống sẽ ra sao?  
Viết cho Nguyễn Viết Dũng  
Việt cộng - Việt cộng
Tháng Ba chôn súng  
Băi biển Non Nước: Một kết thúc tức tưởi, oan nghiệt 
Tiểu Đoàn 9 TQLC - Trận chiến sau cùng  
Một lần chào cuối cùng của đời quân ngũ !  
Mất Đà Nẵng  
Sự quan tâm của vị Tướng  
Saigon xưa ...cái thời xé tiền để .. thối lại !  
Giọt nước mắt của lính
BTL/HQ/V4 DH – Di tản với 3000 đồng bào  
Người lính Việt Nam Cộng Ḥa sau 30 tháng Tư  
Bàn thờ hai mặt  
Ngôi nhà thờ cổ bên ḍng sông Saigon 
Ṿng tṛn nhân quả  
Bạn tôi người lính trẻ
Nhớ kỉ niệm .…
Một lần mất mát  
Chuyện buồn người vợ tù  
Nhẩy Dù tử chiến tại mặt trận Quảng Trị 
Ngô Quang Trưởng - Cổ kim như danh tướng 
Khai bút đầu Xuân Bính Thân 2016 - Sát cộng nô hịch

Về thăm quân trường cũ 
Xuân đă tàn chưa?

Tưởng như … Mùa xuân không c̣n nữa 
Táo quân về trời 
Đi chợ... Tri thiên mệnh  
Điều bố không dặn lại

Một đời lận đận chiến tranh  
Gió mùa xuân  
Viên đại bác cuối cùng nơi phà Cát Lái 
Người vợ là một vĩ nhân

Chưa tu đă thành Phật  
Tướng Ngô Quang Trưởng - Cô kim như danh tướng

Bắc Kỳ 9 nút - Bắc Kỳ 2 nút