CHÙM BÀI TƯỞNG NHỚ THI NHÂN HÀN MẶC TỬ 

Phạm Ngọc Thái


- Kỷ niệm 100 năm ngày sinh thi nhân Hàn Mặc Tử (22.9.1912 - 22.9.2012)




KHÓC HÀN MẶC TỬ

Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết
Khóc gió mưa, cây cỏ đến chân trời
Khóc tạo hoá: từ thiên và địa
Rồi khóc người: Đời, con tạo quay chơi...

Hàn Mặc Tử ơi! Ớí , Tử ơi !
Sống chơi vơi cũng giống người
Khác chi là con chim cánh lá
Giọt thơ này hoà lệ máu tôi rơi!

Nơi Tử nằm trong mồ hoa thơm nở
Đầu Tử gối lên sườn sóng gió
Với sao sương vằng vặc trăng ngàn năm
Nỗi đau đè nặng cơi dân gian.

Hỡi biển Đông, núi cao Gành Ráng!
Thơ của Tử mai sau c̣n sáng láng
Sóng nước non non nước vỗ ngày đêm
Quạnh hiu buồn rờn rợn bóng thi nhân.

Ngồi đọc Tử tim vỡ toang máu đỏ
Tôi khóc biển, khóc trời xanh, khóc gió
Chúa ở đâu? Thượng đế có trên đời?
Người Thơ Xưa hoá chốn nao rồi?

Th́ tham vọng vinh quang ai chẳng muốn
Ngu cũng buồn! Tài lại lắm tai ương?
Giữa đời nhiều khi phải cười nhăn răng mà sống
Thương nhau để mặc lệ rơi tuôn...

Tử dù đau nỗi đau ngang bể
Nhưng đă có bao người khóc Tử
Suy cho cùng: tuyệt đến thế th́ thôi,
Trên này nhiều chuyện lắm, Tử ơi!

Rót mắt thành thơ khóc Tử lại khóc đời
Chúng tôi đang quần cuộc sống...
Có khi phải tập nén ḿnh như bánh nén
Thỉnh thoảng cũng thương nhau,
phần lớn chỉ đấu tranh.

Niềm sướng đau khôn dại dại khôn
Em gái - Nhà thơ - Nhà chính khách
Tuốt tuồn tuột mấy ai không bất trắc
Buồn làm chi! Đời, sắc sắc không không...

Đời vậy mà - Người thế, chuyện thế gian!
Suy cùng lư chẳng ǵ phải chán
Lại thương Tử không được dự phần bon chen xô lấn
Giây phút khóc cho nhau hoá hạnh phúc lớn trên đời.

Hàn Mặc Tử ơi! Ới, Tử ơi!
Bao đêm nghiền ngẫm chữ thơ Người
Châu rỏ đầm đ́a trang giấy trắng
Bay về Gành Ráng đẫm hồn tôi.

Thắp nén nhang chùa tôi khấn anh
Tài hoa xuất sắc vóc giai nhân
Vung tay búng bút xô báu ngọc
Chữ thơ như tuyết máu lênh đênh.

Qui Nhơn biển sóng vỗ mây lừng
Tài này - phận ấy! Những bi thương,
Nay đă yên ḿnh khe nước ngọc (*)
Hẹn nhau mai mốt bữa tương phùng.

Tôi khóc Tử, khóc hào quang, khóc huyết
Khóc gió mưa, hoa cỏ lẫn sao sương...
Tử có nghe! Thơ Người - Tôi viết tiếp
Cúi lậy không gian cả tám phương! (*)

Phạm Ngọc Thái

(*) Ư thơ của Hàn Mặc Tử.

Thơ Hàn Mặc Tử - Lời b́nh Phạm Ngọc Thái


Cảnh Thôn Vỹ Dạ

ĐÂY THÔN VỸ DẠ

Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Ḍng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nh́n không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết t́nh ai có đậm đà?

Hàn Mặc Tử
(Rút trong tập "đau thương" - Thơ điên của HMT)


Bài thơ được mở đầu với lời trách móc của người con gái. Lời trách ấy có lẽ do một hoàn cảnh gặp gỡ nào trước đó được thi nhân nhớ lại:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Câu mở đầu như thế giúp cho ư tưởng kiến thiết bài thơ thôn Vỹ gắn với nỗi nhớ người xưa được gợi lên trong kỷ niệm:
Nh́n nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Nghĩa là từ hàng cau đến cái nắng mới vào buổi sáng ấy, màu xanh của vườn cây đều là cảnh hiện trong hồi tưởng. Thôn Vỹ nói riêng cũng như mỗi làng quê Việt Nam nói chung: hàng cau thường đọng lại những ấn tượng sâu sắc, nhất là với những người khi đă phải xa quê. Ta cũng thấy ở trong thơ Nguyễn Bính từng viết:
Nhà tôi có một hàng cau liên pḥng
Hàng cau dưới cái nắng mới buổi sớm th́ trong mát, thanh thiên lắm! Cảnh quê cô đọng được hoà quyện vào mối t́nh đầu trong sáng, mơ mộng của thi nhân, dù mối t́nh với nàng Hoàng Cúc ấy chỉ đơn phương về phía Hàn Mặc Tử. Nhưng sự sâu lắng đă trở thành hoài niệm măi trong cơi nhớ của ông, bởi thế màu xanh của lá cây trong vườn cũng lung linh mà "xanh như ngọc"...
Như vậy "cảnh nhớ" ở ba câu đầu tuy chỉ là hồi tưởng nhưng lại xuất phát từ "cảnh có thực"! Sở dĩ tôi nhấn mạnh về chữ "thực" ở đây? v́ chỉ đến câu thứ tư h́nh ảnh thơ đă có ư nghĩa tượng trưng:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
"lá trúc" và "chữ điền" thuộc những ngôn từ mỹ học! H́nh tượng cây trúc làm tượng trưng trong thơ HMT, ta c̣n thấy ở trong bài thơ Mùa Xuân Chín:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
"trúc" là h́nh ảnh biểu tượng cho làng quê, c̣n "mặt chữ điền": theo cách nói cổ nho là ví cho gương mặt nam nhi! Trong bài thơ này gương mặt chữ điền ấy để biểu tượng cho chính bản thân thi nhân. Hai chữ "che ngang" kia, nghĩa là thôn Vỹ với nhà thơ giờ đây chỉ c̣n ở trong kỷ niệm, nỗi nhớ... măi măi phải cách xa nên đă bị... "cắt ngang"!
Ngay trong bốn câu của khổ thơ đầu ta đă nhận thấy cấu trúc, tư duy thơ HMT theo cảm xúc đă được thiết lập tŕnh tự của sự suy lư về nỗi cảnh mà lập thành tứ, để phát triển sâu hơn ở khổ thơ thứ hai khi nói đến t́nh duyên dang dở giữa hai người:
Gió theo lối gió, mây đường mây...
Ư là:
Em theo đường em, anh đường anh
Duyên phận đôi ta có thế thôi!
Tả cảnh nhưng chính để nói nỗi đời:
Ḍng nước buồn thiu (tĩnh), hoa bắp lay (động)...
Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để bộc lộ một cơi ḷng, một tâm trạng cô đơn và buồn! Thi nhân ngồi nhớ người xưa, ḷng ông lặng lờ buồn bă như ḍng nước hắt hiu, nhưng trái tim vẫn bổi hổi, xốn xang như làn "hoa bắp lay"...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Đây là hai câu thơ thần cảm - H́nh ảnh thuyền và sông trăng theo cảm xúc ùa vào trong thơ mà bật ra... làm cho t́nh thơ thêm rộng răi, rung rinh, nỗi thơ càng mênh mang, da diết.
Xin nói thêm, cảnh thuyền và sông trăng ở đây theo như một số nhà b́nh luận: Người th́ cho đó là cảnh trong một bức ảnh về Huế mà nàng Hoàng Cúc đă gửi tặng thi nhân khi đang lâm bệnh phải điều trị ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng cũng có người lại nói rằng nàng Hoàng Cúc đă gửi tặng thi nhân tấm ảnh mặc áo dài trắng?... chứ không phải là phiến cảnh "thuyền" và "sông trăng" đó. Nếu vậy th́ cảnh trong thơ chỉ là cảnh mà thi nhân nhớ lại nơi thôn Vỹ chăng? - Cũng chưa thật ngă ngũ về hướng nào.
Nhưng tóm lại cảnh của hai khổ thơ đầu ấy là cảnh thuộc về trí tưởng, dù là vào buổi sớm dưới hàng cau hay trong một đêm trăng trên sông nước. Trong bài b́nh của nhà b́nh thơ Vũ Quần Phương, đến đây có nhận xét rằng:
"Bốn câu đoạn hai không có liên hệ ǵ về chi tiết với đoạn một... thoáng nh́n bài thơ có vẻ đầu Ngô ḿnh Sở...", (hay là) "Những ư thơ rất xa nhau về ư nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền nhau..." và nhà b́nh thơ cho rằng "chỗ liền nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm"...
Theo tôi: HMT là một thi nhân viết thơ bằng nội tâm theo tư duy thế giới trong, xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ tuôn chảy... c̣n ư tứ thường được diễn tả rất mạch lạc, rơ ràng. Mượn cảnh làm biểu tượng để diễn đạt nỗi t́nh thơ - Đoạn thơ thứ hai ấy cần phải hiểu sâu sắc bằng thế giới bên trong như đă b́nh trên, mới thấy cảm xúc về ư tứ của bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ hoàn toàn liên kết chặt chẽ với nhau, từ đoạn thơ đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng. Đấy chính là cốt lơi để tạo ra thi phẩm của ông. Đây thôn Vỹ Dạ là một tuyệt tác thi ca! Nếu cho rằng đoạn thơ thứ hai chỉ là để tả cảnh buồn mênh mang... th́ sẽ không thấy hết được cái hay và sâu sắc của bài thơ!
Tôi xin b́nh sang khổ thơ thứ ba:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nh́n không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết t́nh ai có đậm đà?
Như đă nói mối t́nh giữa HMT với nàng Hoàng Cúc chỉ là một mối t́nh đơn phương về phía thi nhân, có thể nàng không hay biết về t́nh yêu của chàng? Hơn nữa trong lễ giáo phong kiến thời ấy, giữa gia đ́nh thi nhân với gia đ́nh nàng c̣n có một khoảng cách về đẳng cấp xă hội. Hoàng Cúc thuộc gia đ́nh một quan lại, c̣n HMT là gia đ́nh lớp b́nh dân. Ông vốn tính lại rụt rè, hay bẽn lẽn, yêu tha thiết mà chỉ dám đứng từ xa chiêm ngưỡng người đẹp như trong mộng... rồi thương thầm, nhớ trộm. Thi nhân đă dồn hết t́nh yêu của ḿnh vào thơ ca... sáng tác cả một tập, gọi là tập "gái quê" để tặng nàng!
Giờ đây th́ cả cái mối t́nh đơn phương ấy cũng đang trôi vào dĩ văng. Thi nhân lâm bệnh nặng phải sống cách ly, sự ngăn trở giữa hai người càng xa hơn. Nên trong bài thơ nói về người yêu mà thi nhân lại dùng chữ "khách" là v́ thế! Ông mơ về nàng dẫu t́nh th́ sâu nặng... mà vẫn như mơ về một người khách lạ...
H́nh ảnh: Áo em trắng quá.../ - Hẳn là màu áo trắng của nàng Hoàng Cúc thường mặc phải gây ấn tượng trong trí nhớ của HMT hơn các màu áo khác! Nhưng màu áo trắng ở đây c̣n là ảnh ảo, khi thi nhân mơ tưởng người đẹp ở trong trăng... Màu trăng ấy thường hay thấy trong thơ HMT:
Người trăng ăn vận toàn trăng cả...
C̣n tại sao "áo em trắng quá" mà lại "nh́n không ra"? Ư là: Mối t́nh ấy đă cách biệt, giờ đây khoảng cách giữa hai người xa vời như người khách lạ qua đường. C̣n cảnh tượng:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đó là cảnh thực của nơi Ông đang sống và chữa bệnh... hiu quạnh, khói sương heo hút ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng đồng thời cũng để nói lên trong cảnh ngộ của Người về thân phận "mịt mờ nhân ảnh". Tâm trạng Ông đang rơi vào trong vực thẳm trước sự quên lăng của người đời. Ḷng Ông càng da diết mà hỏi:
Ai biết t́nh ai có đậm đà?
Tiếng "ai" bộc lộ một tâm trạng vẫn rất tha thiết của Ông: Liệu nàng c̣n nhớ đến ta chăng? Cái tâm trạng xa xót ai oán ấy, Ông cũng đă từng bộc lộ nhiều lần khác:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không t́m thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!
"Đây thôn Vỹ Dạ" là một bài thơ được dệt thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc đa chiều, đan xen giữa hiện tại và kí ức. Ư, t́nh khúc triết, sâu xa. Dù rằng t́nh thơ được rút trong tập "thơ điên", nhưng nó không những không phải là thơ điên mà c̣n là một t́nh thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà thơ đă thấm đầy huyết lệ!

Phạm Ngọc Thái



Nàng Hoàng Cúc

Thi pháp thơ Hàn Mặc Tử qua "Mùa xuân chín"

Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lư, bóng xuân sang.

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây…

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín,
Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng.
- Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Hàn Mặc Tử


Tiểu luận - PHẠM NGỌC THÁI

“Mùa xuân chín ” được rút ra từ trong thơ điên của Hàn Mặc Tử (đề mục Hương Thơm). Trong Thi nhân Việt Nam , Hoài Thanh có nhận xét bao quát về mảng Hương Thơm này như sau: “Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, t́nh yêu và cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói”. Nhưng đă xem Mùa Xuân Chín ta thấy chẳng những thơ không điên, ḷng thi nhân thanh tao, cơi hồn siêu thoát, tựa thể ông đang ngồi thụ cảnh thiên thai của bậc khách tiên sa. Mạch thơ cũng tách bạch ra khỏi hẳn cơi sao trăng, ảo t́nh sương khói ấy:
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Đây hẳn là những mái nhà đă được lợp bằng rạ vẫn c̣n mới ở thôn quê, bởi những sắc màu của rơm rạ c̣n ánh lên lấm tấm vàng, dưới làn nắng sớm ban mai. Cảnh thơ như bức gấm thêu, đây đó vấn vương vài làn sương mỏng. Toát lên tấm t́nh của thi nhân với nơi thôn dă rất thân thiết. Đến hai câu sau đó:
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lư, bóng xuân sang
“…tà áo biếc” ở đây để chỉ cái dáng xanh mềm mại của giàn thiên lư, khi gió thổi qua giàn mới phát ra tiếng kêu “sột soạt”. Nếu gió thổi ngoài trời: nhẹ th́ hiu hiu, vi vút… gió to sẽ rít lên ào… ào…
Nhưng cũng chưa hẳn là khi gió thổi qua giàn thiên lư có tiếng kêu “sột soạt” như thế? v́ giống lư lá nhỏ, âm điệu chỉ reo… reo… thôi. Hai tiếng “sột soạt” như tiếng của những tấm áo cánh mỏng, mặc hơi căng cọ mài lên da thịt của các nàng thôn nữ mà phát ra vậy. Cảm giác ấy đă dấy lên trong tâm thức của thi nhân để vận vào tả cảnh giàn cây. Chất thơ hơi da thịt này cũng thường có trong Hàn Mặc Tử (HMT)! Các h́nh tượng thơ miêu tả, nhưng lại đầy cảm giác t́nh ái. Nào th́ “gió trêu”; âm thanh “sột soạt”; c̣n giàn thiên lư lại được ví như “tà áo biếc”… Thành thử, thơ tả thực mà rất sống động.
Tất cả những h́nh ảnh: nắng ửng, khói mơ, mái nhà tranh lấm tấm vàng, thiên lư và gió… ḥa hợp, được khoác lên chiếc áo tân thanh mùa xuân mà tạo thành “bóng xuân sang”. Sang đoạn thơ thứ hai:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
“cỏ” gặp gió lượn thành sóng, nghĩa là cỏ mọc đă hơi cao. Ở đây ta liên tưởng tới một câu thơ của cụ Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời /- “xanh rợn” là cỏ mới chỉ mọc nhú, lún phún. Nhưng cả một miền cỏ dầy, phẳng, non mướt và xa hút tạo nên một độ sắc gai người, tựa thể sờ vào có thể đứt tay. C̣n “sóng cỏ xanh tươi” trong câu thơ HMT : th́ màu xanh đă lả lướt để “gợn tới trời ” chứ không ” rợn” như trong thơ cụ Nguyễn Du. Vậy là, tuy cũng tả về miền cỏ hút đến chân trời… nhưng miền cỏ trong thơ HMT vẫn mang sắc thái riêng.
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy:
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi…
Một mảng đời sống dân gian đă tràn vào trong bức tranh cảnh mùa xuân của Ông: rằng, ngày mai trong đám xuân xanh ấy… có kẻ lấy chồng, theo chồng – sẽ không c̣n sự vô tư, nhàn nhă mà đi dạo mùa xuân như thế nữa! Ư nói: “bỏ cuộc chơi”/- Nhưng câu thơ chưa hẳn đă phải là nuối tiếc cho cô thôn nữ kia, mà chính trong ḷng thi nhân đang nuối cảm? Bộc lộ một tâm trạng bâng khuâng, hiu hắt, có phần xa xót. Bệnh tật đă không cho Ông được hưởng cái hạnh phúc đời thường ấy! Cảnh đời thanh thái của mùa xuân ấy… như thể đă cách xa hàng thế giới. Cái ước muốn nho nhỏ: có một tổ ấm gia đ́nh, vợ chồng hạnh phúc… với Ông, cũng không bao giờ có. Tâm khảm thi nhân dồn vào t́nh thơ đằm thắm, thiết tha. Đến đoạn thơ ba:
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi
Thơ nghe như lời đồng dao chốn dân gian:
Hổn hển như lời của nước mây…
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ư vị và thơ ngây…
Trước cảnh xuân đẹp chứa chan, không phải là nước mây “hổn hển” đâu, chính là ḷng thi nhân đang hổn hển!…
Đến đây tôi xin nói ít lời về thi pháp tượng trưng trong thơ hiện đại Pháp, mà HMT đă ảnh hưởng khá sâu sắc. Thơ tượng trưng của nền thơ hiện đại Pháp nửa sau thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, ( dựa theo tuyển dịch và giới thiệu của Đông Hoài, NXB Văn học 1992 ) là thứ thơ diễn tả theo phép loại suy -Tức là quan hệ tương đồng giữa hai sự vật, nh́n nhận mọi sự vật bằng biểu tượng. Nhưng trường phái thơ tượng trưng Pháp được h́nh thành và phát triển theo khuynh hướng của hai thuyết tương ứng: tương ứng cảm quan và tương ứng trí năng!
Về thuyết “Tương ứng cảm quan” do Charles Baudelaire ( 1821-1867) khởi xướng. Ông là tác giả của tập “Những bông hoa ác” nổi tiếng. Ông đă được các nhà thơ sừng sỏ nhất trong văn học hiện đại Pháp coi là bậc thầy mở đường, nhà tiên khu của trường phái thơ tượng trưng! Baudelaire đă từng định nghĩa trong “Tương ứng”, một trong sáu bài thơ danh giá nhất của ông như sau:
Thiên nhiên là một ngôi đền mà trong đó
những cột sinh linh
Thỉnh thoảng phát ra những ngôn ngữ mơ hồ,
Con người đi trong thiên nhiên qua những rừng biểu tượng
… Hương thơm, màu sắc và thanh âm tương ứng.
Nghĩa là: giữa vật này với vật khác, giữa con người – cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Để phản ảnh một cách tương ứng, nhưng dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan (gọi là cảm quan), hay từ trong tâm linh. Cho nên thỉnh thoảng ngôn ngữ mơ hồ…
Thuyết “Tương ứng trí năng” – Người tiêu biểu là Stéphane Mallarmé (1842-1898), cũng là một nhà thơ Pháp đứng đầu trường phái tượng trưng đă chủ xướng. Quan điểm cơ bản về thuyết “Tương ứng trí năng” của Mallarmé là: Biểu tượng được tượng trưng phải rành mạch, rơ ràng, bằng một sự áp đặt hợp lư của lư trí, chứ không theo khuynh hướng cảm quan như Baudelaire.
Nhớ tới lời của cố Chế Lan Viên đă viết tựa trong Tuyển thơ Hàn Mặc Tử xuất bản 1988 rằng: “Tử trong thời gian chúng tôi gần, chỉ thấy Anh nói về Baudelaire…”! Bởi v́ những yếu tố thơ tượng trưng được HMT sử dụng rất nhiều, đă nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ Ông, nhưng hầu hết đều theo khuynh hướng “Tương ứng cảm quan” của Baudelaire.
Trở lại với Mùa Xuân Chín – Những câu thơ: “hổn hển như lời của nước mây”, “tiếng ca vắt vẻo”, “sột soạt gió trêu tà áo biếc”, rồi cả đến câu thơ cuối cùng: “sông trắng nắng chang chang”… đều là những h́nh ảnh của thơ tượng trưng cảm quan, để bộc lộ thay cho tâm trạng, t́nh cảm con người, hay một hiện thực đời sống. Ngay đến tên đề của bài thơ: Mùa xuân chín, cũng mang tính tượng trưng đó rồi. Trong nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử ta cũng hay gặp những yếu tố của loại thơ tượng trưng này. Thí dụ:
Trăng nằm sóng soăi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Hay là:
Ô ḱa bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Đặc biệt với các giác quan cảm thụ rất nhậy bén của thi nhân: Ngôn ngữ chứa đầy hồn, cảnh trí thiên nhiên rất sống động. Ở trong câu ba của đoạn thơ thứ ba, ta c̣n thấy một cụm h́nh ảnh: Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc /- Tiếng “trúc” ở đây, với h́nh ảnh “lá trúc” trong bài Đây Thôn Vĩ Dạ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Đều thuộc loại ngôn từ mỹ học, để làm biểu tượng về làng quê! Tôi xin phân tích tiếp đoạn thơ cuối:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Ḷng trí bâng khuâng sực nhớ làng:
- Chị ấy năm nay c̣n gánh thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
Sắc điệu “…trắng nắng chang chang?” vẽ ra cảnh trắng toát bên con sông mộng. Cảnh thực trong hồi ức mà như ảo ảnh. Thi nhân đă mô tả những h́nh ảnh đó bằng ngôn ngữ thông qua cảm xúc nhớ làng da diết, đưa t́nh cảm bài thơ lên tới tột cùng, không chỉ thuần tuư là bức tranh tả cảnh mùa xuân nữa.
Cũng đă nhiều nhà b́nh luận đă bàn về h́nh ảnh “chị ấy” trong bài thơ là ai? Người th́ nói: “chị ấy” là người yêu xưa mà thi nhân nhớ lại? Kẻ lại bảo: Đó là chị ruột của thi nhân?…Tôi nghĩ: Xét về đời sống riêng tư của HMT, những người thân thiết nhất của thi nhân không thể không nhắc đến người mẹ, cùng người chị ruột hiền từ vẫn thường chăm bẵm Ông trong cuộc sống. Như ở bài hồi kư “Nhớ Hàn Mặc Tử” của anh Nguyễn Văn Xê, người đă chăm sóc thi nhân trong thời gian bị bệnh, cho đến khi tạ thế tại nhà thương Qui Ḥa, kể rằng:
Sau khi Trí (tên thường gọi của nhà thơ) chết chôn được ba ngày, qua ngày hôm sau… mẹ và chị Lễ của Trí tức tốc vào Qui Ḥa. Tôi hướng dẫn gia đ́nh Trí đi thăm mộ. Nơi đây tôi không thể cầm được giọt lệ trước một người mẹ khóc đứa con yêu, một người chị khóc em trong buổi chiều mùa đông se se lạnh… Tôi đă chứng kiến có một mẹ tiên và một chị tiên đến khóc nức nở bên mộ Trí.
Phải chăng người “chị ấy” trong thơ của thi nhân chính là chị Lễ! Mùa Xuân Chín chẳng những chỉ là một bức tranh thiên nhiên đẹp, c̣n trắc ẩn cả t́nh làng và đây đó quấn quít đôi chút ḷng nhi nữ. Một bài thơ chân quê. Từ biểu tượng của ngôn ngữ, nhạc điệu đến cảnh t́nh qua cảm xúc… đă dan díu quyện lấy nhau mà tạo nên một bản xô-nát về “khối t́nh đời” độc đáo và hoàn bích.



Đài tưởng niệm Hàn Mặc Tử ở Gành Ráng - Qui Nhơn


Phạm Ngọc Thái

 

 


Thơ

Trang thơ cũ


Mật ngọt
Lá thư ngày trước
Hùng tuyên son sắt
Đâu chỉ ta buồn
Vết in kỷ niệm
Hoàng Sa ơi c̣n đây bằng chứng máu!
Em cười duyên dáng
Đêm trong tù
Cơi tiên
T́nh xa thương nhớ
Thuyền đời
Linh hồn mộ gió
Đêm rồi cũng đến
Tha thiết ân t́nh
Này các cháu !
Nhục mất nước
Bè lũ Bắc Kinh hăy xéo về đi!
Người HO già... thăm mộ bạn
Buổi sáng gặp em
Lá úa tuổi chiều  
Nhớ về Cần Thơ
Nửa vần trăng
Giang san Việt
Trông chồng
Cái học nhà nho
Tôi sẽ phải về
Biển Đông
Trở cờ
Tiên ủ đời ta
Hoàng Sa mến thương ơi!
Kontum kiêu hùng
Nhớ người t́nh
Từ trường xưa
Bài thơ không tựa
Chùm thơ t́nh viết dưới cây  
Phù du  
Phủ phàng
Dậy lên cùng với biển Đông  
Tiễn bạn
Vẫn gợi ư phiền
Ḷng thương ray rứt
Trăng mười sáu
Vẫn khó t́m quên
Ḷng thương ray rứt
Tưởng niệm QLVNCH anh hùng
Kỷ Niệm Ngày QL 19 tháng 6
Viết cho Mười Kẽm
Canh Cánh t́nh xưa
Không lối mộng
T́nh vẫn đợi chờ
Trọn t́nh đó em
Cảnh nghèo
Niềm đau ray rứt
Thất ngôn gửi người
Nhớ "Ngày Xưa Hoàng Thị"
Thư không niêm gửi bạn
T́nh cũ - em thơ
Đong đưa giọt t́nh
Hội ngộ
Thèm thuốc
39 năm gặp nhau

Nhớ bạn hiền
H́nh như là...
Dặn ḍ
Chút ư ḷng em
Ngẩn ngơ
Mít dai
Nát ḷng thương nhớ
Chút ư đường về
Rời quê mẹ
Thật đầy
Tắm suối Nam Hà
Với Long Thành
Chùm thơ biển
Những viện đạn đúc bằng máu tim
Tâm sự một người lính
Tiếng vọng KBC
Tiếng hát vinh danh QLVNCH
Thuở ấy đó hoa là nụ
Chậm chậm mây bay
Duyên dáng ngày xưa
Giọt nước mắt chỉ riêng em thấy
Yêu
Yêu
Hai vết thương
Ḍng sông oanh liệt
Trăn trở cuộc t́nh
Mẹ của con
Nhớ Phan Rang
Ngọt cả giấc mơ!
Đoá hồng bên hiên
Cảm tác hoa hồng
Chùm thơ áo trắng
Khúc t́nh sơn ca
Mưa buồn dĩ văng
Thủ Đức !
Tù Nam Hà
Tựa má
Ngoảnh mặt !
Một đời phai phôi  
Bên thềm xưa
Bóng đêm
Giờ đă điểm 
Xuân về nhớ bạn  
Cho ḍng sọng rẽ nhánh
Nó và Tôi
Bao giờ
Thơ Hàn Mặc Tử - Lời b́nh Phạm Ngọc Thái
Cái xinh xinh
Cũng tại mưa buồn
Những vần thơ chống cộng
Chùm thơ Hồ Xuân Hương tái lai
Ḷng dân
T́nh phôi pha
Mặt lọ
Khờ hiu quạnh
Những ḍng thơ thời chinh chiến
Trai ly loạn
Phật tại tâm  
Chùm t́nh thơ sông hồ
Bước chân Việt Khang
Mai tôi chết Cờ Vàng xin được phủ
Th́ thầm với mẹ
Mỗi năm...
Bến cũ
Quà xuân trong tù
Chút ư t́nh quê