Vann Phan
1. Dẫn nhập
Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm nay của Miền Nam Tự Do,
những người Việt Nam yêu chuộng tự do, dân chủ từ Nam chí Bắc, kể cả
những người dân của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, lần đầu
trong đời, tay vẩy lá cờ vàng ba sọc đỏ và ḿnh khoác lên bộ quân
phục người lính Cộng Ḥa năm xưa với ḷng ngưỡng mộ và hănh diện vô
biên, cùng kính cẩn nghiêng ḿnh tưởng niệm hàng ngh́n, hàng vạn
chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă vị quốc vong thân, với ước
vọng cao vời là đất nước Việt Nam được trường tồn và dân tộc Việt
Nam, qua bao cuộc bể dâu, được hưởng đầy đủ những quyền tự do, dân
chủ của một con người.
Hoa Kỳ đă “tháo chạy” khỏi Miền Nam Tự Do và bỏ rơi đồng minh Việt
Nam Cộng Ḥa của họ không phải là v́ các chiến sĩ Mỹ hèn nhát hay vô
cảm với người bạn chiến đấu tại Miền Nam Việt Nam mà v́ Quốc Hội Mỹ
đă bị bọn phản chiến lũng đoạn và các nhà hoạch định chính sách Mỹ
không nh́n thấy viễn tượng rằng, một khi đánh mất Miền Nam Việt Nam,
tức xóa sổ nước Việt Nam Cộng Ḥa, chẳng những nền tự do, dân chủ do
nhiều đời tổng thống Mỹ dày công giúp gầy dựng tại phần đất này ở
Đông Nam Á bị tiêu tan mà thủy lộ quốc tế chạy từ Đài Loan, Phi Luật
Tân qua Thái Lan, Mă Lai Á và Indonesia tới Ấn Độ Dương, chẳng chóng
th́ chầy, sẽ bị chặn lại tại Biển Đông, mà thế giới thường gọi là
Biển Nam Hoa, tức South China Sea, do chính nhà cầm quyền trên cái
lục địa mà họ đă lấy tên để đặt cho vùng biển quan trọng này gây ra.
Chưa đầy nửa thế kỷ sau, lịch sử đă chứng minh việc Hoa Kỳ rút khỏi
Miền Nam Việt Nam là một đại họa cho cuộc sinh tồn và quyền tự do
lưu thông hàng hải của cả Hoa Kỳ lẫn các đồng minh dân chủ của họ từ
Nhật Bản, Nam Hàn, Phi Luật Tân, Singapore, cho đến Thái Lan, và Ấn
Độ.
Kỷ niệm Ngày Quân Lực năm nay, 42 năm sau khi Miền Nam Tự Do thất
thủ vào tay quân xâm lược cộng sản từ Miền Bắc tiến vào để khởi đầu
tiến tŕnh nô lệ hóa dân tộc Việt Nam, lần lượt dưới ách cai trị độc
tài, sắt máu của Bắc Bộ Phủ và Trung Nam Hải, những người Việt Nam
yêu chuộng tự do tại quốc nội và trên khắp thế giới có quyền hănh
diện ôn lại một trong những chiến thắng lẫy lừng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hào trong cuộc chiến đấu thần thánh của quân, dân, cán,
chính Việt Nam Cộng Ḥa chống lại cuộc xâm lược bạo tàn của Cộng Sản
Quốc Tế gần nửa thế kỷ qua, đó là chiến thắng Xuân Lộc, hào quang
sau cùng của một quân đội bị bức tử.
Chính chiến thắng này đă, một lần nữa, vinh danh Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa, một dội quân thiện chiến vào bậc nhất tại Á Châu vào hạ
bán thế kỷ trước, đồng thời vạch rơ chân tướng của một “đồng minh
tháo chạy” cũng như buộc các nhà báo thiên tả cùng các tác giả thân
Cộng phải nghiêm chỉnh viết lại lịch sử nước Việt Nam Cộng Ḥa và
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
2. Chiến thắng Xuân Lộc: Vầng hào quang cuối của một quân đội bị
bức tử
– Mặt trận Xuân Lộc:
Vào đầu Tháng Tư năm 1975, sau khi từng tỉnh một thuộc các Quân Khu
1 và 2 lần lượt bị Cộng quân đánh chiếm, Phan Rang và Xuân Lộc trở
thành cửa ngơ để Cộng Sản Bắc Việt tiến vào Saigon trên hai Quốc Lộ
1 và 20. Thị xă Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh là vùng núi thấp, đồi
cao và rừng thưa với các đồn điền cao su. Long Khánh giữ vị trí
chiến lược quan trọng v́ nằm trên giao điểm hai Quốc Lộ 1 và 20.
Đồng thời, Xuân Lộc lại nằm chặn trên đường giao liên giữa các chiến
khu C và D của Việt Cộng, với các mật khu Cù Mi, Xuyên Mộc, Mây Tào,
Đất Đỏ của Tỉnh Phước Tuy.
Giống như mặt trận Ban Mê Thuột trước đó, Cộng Sản Bắc Việt luôn
dùng chiến thuật biển người để tấn công các cứ điểm của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa. Để giải quyết chiến trường tại mặt trận Xuân Lộc,
Cộng Sản Bắc Việt tung vào mặt trận Quân Đoàn 4 gồm 3 Sư Đoàn 6, 7
và 341 cùng các lực lượng pháo binh, chiến xa, pḥng không hùng hậu
và các đơn vị của Quân Khu 7. Mặt trận này do Thiếu Tướng Cộng Sản
Hoàng Cầm làm tư lệnh, và Thiếu Tướng Hoàng Thế Hiệp làm chính ủy.
Cộng quân đồng loạt mở cuộc tấn công từ 3 pḥng tuyến ở ngă Ba Dầu
Giây, thị xă Xuân Lộc và Gia Rai.
Về phía Việt Nam Cộng Ḥa, có Sư Đoàn 18 Bộ Binh (dưới quyền Chuẩn
Tướng Lê Minh Đảo, sau được vinh thăng thiếu tướng), gồm các Trung
Đoàn 43 (của Đại Tá Lê Xuân Hiếu), 48 (của Trung Tá Trần Minh Công)
và 52 (của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng), cùng các lực lượng Địa Phương Quân
và Nghĩa Quân. Sau đó, một số đơn vị nữa được tăng phái cho Xuân
Lộc, gồm có Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 1 Dù (dưới quyền
Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh, lữ đoàn trưởng, và Trung Tá Lê Hồng, lữ đoàn
phó) gồm các Tiểu Đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù (mặc
dầu các chiến sĩ Dù chưa được nghỉ dưỡng sau khi rút từ Miền Trung
về) cùng một đơn vị Thiết Giáp. Phần không yểm do Sư Đoàn 3 Không
Quân từ Cần Thơ đảm nhiệm. Tất cả các lực lượng trên đặt dưới quyền
chỉ huy của Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo, Đại Tá Lê Xuân Mai, tư
lệnh phó Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Đại Tá Biệt Động Quân Phạm Văn Phúc,
tỉnh trưởng Long Khánh.
Tờ mờ sáng ngày 9 Tháng Tư, các lực lượng cộng quân pháo kích vào
Thị Xă Xuân Lộc với hơn 3,000 quả pháo đủ loại khiến dân lành vô tội
chết và bị thương vô số. Đến 8 giờ sáng, pháo địch ngưng, Cộng quân
tấn công vào thị xă nhưng gặp sức kháng cự mănh liệt của Trung Đoàn
43 và lực lượng Địa Phương Quân, nên đành phải “chém vè,” bỏ lại tại
chỗ cả trăm xác lính Việt Cộng và nhiều xe tăng T-45 cùng PT-76 bị
bắn cháy v́ hỏa tiễn chống chiến xa M-72 và do Không Quân oanh tạc.
Sáng ngày 10 Tháng Tư, Cộng Sản Bắc Việt dùng hai Sư Đoàn 2 và 6
cùng lực lượng xe tăng ào ạt tấn công khắp bốn mặt vào Xuân Lộc.
Quân trú pḥng chống trả mănh liệt, và hai bên tranh giành từng ngôi
nhà, từng con đường, góc phố. Nhiều pḥng tuyến có khi bị mất và lấy
lại nhiều lần. Các phi tuần phản lực F-5 yểm trợ quân bạn bên dưới
rất hữu hiệu. Cộng quân tổn thất nặng nề sau nhiều ngày giao tranh,
khiến sau này chính Tướng Văn Tiến Dũng, trong quyển hồi kư nhan đề
“Đại Thắng Mùa Xuân,” cũng phải thú nhận.
Đến ngày 14 Tháng Tư, Lữ Đoàn 1 Dù và Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù được
tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc. Cả hai Sư Đoàn 3 và 4 Không Quân
tận dụng tất cả khoảng gần 100 trực thăng hiện có để chuyển quân Dù
vào Xuân Lộc. Các đại bác của pháo đội Dù được trực thăng vận tải
Chinook thả quanh Bộ Chỉ Huy Hành Quân Dù đóng gần Bô Tư Lệnh Sư
Đoàn 18 Bộ Binh. Hai tiểu đoàn Dù nhảy thẳng từ trên đầu địch để
đánh chiếm Bảo Định trên Quốc Lộ 1, nơi hai trung đoàn địch thuộc
Công Trường 6 đang tập trung chuẩn bị tấn công Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18
Bộ Binh. Đồng thời, một tiểu đoàn Dù khác được trực thăng thả xuống
khu vườn cây của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ và phần c̣n lại được thả
vào Xuân Lộc để giải vây cho lực lượng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Long Khánh.
Từ ngày 12 đến 14 Tháng Tư, Cộng quân mở cuộc tấn công mạnh vào
Trung Đoàn 52 tại Ngă Ba Dầu Giây bằng pháo xe tăng hùng hậu và biển
người. Với hỏa lực và quân số vượt trội của Cộng Sản Bắc Việt, pḥng
tuyến của Trung Đoàn 52/Sư Đoàn 18 Bộ Binh trên Quốc Lộ 1 từ Kiệm
Tân đến ấp Phan Bội Châu lần lượt bị tràn ngập.
Chiều ngày 15 Tháng Tư, cuộc chiến trở nên vô cùng ác liệt ngay tại
xă Dầu Giây, ngă ba Quốc Lộ 1 và 20 giữa Chiến Đoàn 52 (do Đại Tá
Ngô Kỳ Dũng chỉ huy), gồm Trung Đoàn 52 và Địa Phương Quân Tiểu Khu
Kiệm Tân, Long Khánh với Quân Đoàn 4 Cộng Sản Bắc Việt, trong đó có
cả Sư Đoàn 341 vừa từ Thanh Hóa vào và do Tướng Trần Văn Trà trực
tiếp chỉ huy thay Tướng Hoàng Cầm, sau khi Tướng Hoàng Cầm “nướng”
quá nhiều quân mà không chiếm được Xuân Lộc. Trong trận chiến long
trời, lở đất này, mỗi người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă phải
chống chọi với 10 quân Bắc Việt có pháo xe tăng hùng hậu yểm trợ,
khiến Chiến Đoàn 52 bị thiệt hại nặng, các chiến sĩ thiết giáp, pháo
binh và bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa bị tổn thất nặng nề.
Đêm 15 Tháng Tư, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh Quân Đoàn 3,
được Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa cho phép, đă ra
lệnh sử dụng loại bom khổng lồ Daisy Cutter có sức tàn phá và khả
năng sát thương mănh liệt chưa từng thấy. Ngày hôm sau, lúc 10 giờ
sáng, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 được báo cáo về rừng người, chiến xa và
dại pháo Cộng Sản Bắc Việt tập trung trong thị xă Dầu Giây để chuẩn
bị tiến về Saigon, sau khi đă đè bẹp Chiến Đoàn 52 trước đó. Trung
Tướng Nguyễn Văn Toàn ra lệnh Không Quân từ phi trường Tân Sơn Nhứt
chở 2 quả bom Daisy Cutter, mỗi quả cân nặng 15,000 cân Anh, thả
xuống Ngă Ba Dầu Giây, vùng tập trung quân Cộng Sản Bắc Việt sau khi
Chiến Đoàn 52 tan ră, khiến gần 10,000 quân Bắc Việt cùng xe tăng và
pháo binh đang di chuyển trên Quốc Lộ 20 bị tiêu diệt gọn.
Sau đó, v́ không nuốt trôi được Xuân Lộc trong khi phải chịu tổn
thất hết sức nặng nề, các đơn vị chủ lực Cộng quân được lệnh rời bỏ
Xuân Lộc, dùng Quốc Lộ 20 tiến về Biên Ḥa. Nhận định t́nh h́nh với
Biên Ḥa sẽ là mặt trận kế tiếp, ngày 20 Tháng Tư, Tướng Toàn ra
lệnh bỏ Long Khánh và ra lệnh cho Sư Đoàn 18 Bộ Binh rút về Biên
Ḥa. Để rút quân, các lực lượng chiến đấu dùng Liên Tỉnh Lộ 2, phát
xuất từ Tân Phong, Long Giao rút về Phước Tuy, với ba cánh quân Sư
Đoàn 18 Bộ Binh, Tiểu Khu Long Khánh và Địa Phương Quân-Nghĩa Quân,
cùng đơn vị Dù.
Qua 12 ngày giao tranh ác liệt, pḥng tuyến Xuân Lộc vẫn đứng vững,
bằng xương máu của các chiến sĩ Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Lữ Đoàn 1 Dù,
Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân cùng các lực lượng
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tiểu khu. Người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa không hề bị khuất phục trước biển người, mưa pháo, cùng
tiếng gầm rú của xe tăng T-54 cày xé quê hương. Trong giờ phút gian
nguy đến cùng cực, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn
b́nh tĩnh cầm khẩu M-72 đứng chờ xe tăng Việt Cộng đến thật gần mới
nhả đạn.
Và đây, oái oăm thay, cũng là chiến thắng sau cùng của Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa trước khi quân đội này bị bức tử vào ngày 30 Tháng Tư
năm 1975.
– Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ngời sáng với chiến công sau cùng
Chiến thắng Xuân Lộc được coi là chiến công sau cùng của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa trước khi quân đội này bị buộc phải tan hàng mặc
dù họ chưa bao giờ đầu hàng địch quân sau khi tân Tổng Thống Dương
Văn Minh, vị tổng thống cuối cùng và không do dân bầu của chính
quyền Việt Nam Cộng Ḥa, ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải
buông súng vào trưa ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Quyết định của Đại
Tướng Minh tuy tránh được một cuộc đổ máu vô ích giữa Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa và quân đội Cộng Sản Bắc Việt trong cái ngày tàn của
cuộc chiến đó nhưng đă làm cho 5 vị tướng lănh kiêu hùng của quân
đội ấy, là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ,
và Phạm Văn Phú, cùng với Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long tự sát
để bảo toàn danh tiết, trong khi, sau đó, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh
trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, đă cùng các chiến hữu của
ḿnh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng cho đến khi bị địch bắt và xử
tử. Trong lịch sử cổ kim, liệu có một quân đội nào trên thế giới
cung cấp đủ 7 vị tướng quân, vào cùng một thời điểm, để cùng tuẫn
tiết và hy sinh tánh mạng với mục đích bảo tồn danh dự quân đội và
tạ tội cùng quốc dân trước cảnh nước mất, nhà tan như thế hay không?
Sau trận thư hùng quyết tử trên ngọn đồi máu 1062 Thường Đức để
giành lấy chiến thắng trong bối cảnh rơ ràng là đồng minh Hoa Kỳ
đang dần dần “tháo chạy” khỏi Việt Nam, Quân Lực Việt Nam đă bị dồn
vào chân tường khi quân viện từ Ngũ Giác Đài bị cắt giảm dần song
song với việc cắt bớt kinh viện từ Hoa Thịnh Đốn dưới áp lực của một
Quốc Hội Mỹ đang cần tới lá phiếu của phe phản chiến. Sau gần một
thế kỷ chiến tranh liên miên dưới thời Pháp thuộc và Nhật thuộc,
điều hiển nhiên là cả Bắc và Nam Việt Nam đều xác xơ và không có bên
nào đủ tài nguyên để đánh nhau thêm nữa nếu không được các lực lượng
khác từ thế giới bên ngoài hà hơi, tiếp sức và hỗ trợ. Trong khi
phía Cộng Sản Bắc Việt vẫn c̣n có sự yểm trợ cực kỳ to lớn từ các
đồng minh Liên Sô, Trung Cộng, Bắc Hàn và Cuba của họ, phía Miền Nam
Tự Do lại bị người bạn đồng minh duy nhất c̣n lại, là Hoa Kỳ, phản
bội và bỏ rơi v́ nội bộ lủng củng cũng có, v́ cái nh́n thiển cận về
chiến lược cũng có, và v́ những nhận định sai lệch về khả năng cùng
ư chí chiến đấu chống Cộng của quân và dân Miền Nam Việt Nam cũng
có. (1)
3. Trận Xuân Lộc để lộ chân tướng của một ‘đồng minh tháo chạy’
Trận Xuân Lộc, với chiến thắng lẫy lừng của các chiến sĩ Sư Đoàn 18
Bộ Binh dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo cùng các đơn vị
bạn, như Lữ Đoàn 1 Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Không Quân, Địa
Phương Quân và Nghĩa Quân, cho thấy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn
đứng vững trong mọi t́nh huống ngặt nghèo, miễn là đồng minh Hoa Kỳ
vẫn tiếp tục hỗ trợ quân bạn về mặt tài chánh và quân trang, quân
dụng như những ngày đầu sau khi Hiệp Định Paris 1973 được kư kết.
Rủi thay, chính phủ Hoa Kỳ – chứ không phải quân đội Hoa Kỳ – vị
chịu áp lực nặng nề của phe phản chiến Mỹ, đă nhất quyết phủi tay để
“tháo chạy” (2) khỏi Việt Nam sau gần hai thập niên can thiệp mạnh
mẽ, đôi khi c̣n quyết liệt tới độ trực tiếp nhúng tay vào một cuộc
đảo chánh để sát hại vị nguyên thủ quốc gia của một đồng minh vừa
trung thành vừa kiên cường tại Đông Nam Á này, chỉ v́ nhà lănh đạo
Miền Nam Tự Do lúc đó (1963) không muốn người bạn đồng minh lấy mất
quyền tự do quyết định vận mạng của dân tộc ḿnh. Việc bỏ rơi Việt
Nam đă khởi sự lộ rơ kể từ sau Hiệp Định Paris 1973, lúc mà Hoa Kỳ
đă nhận lại được tất cả các tù binh chiến tranh từng bị Cộng Sản Bắc
Việt giam giữ trong cuộc chiến.
Việc Hoa Kỳ, vào những ngày tàn của cuộc chiến, có thêm loại bom
Daisy Cutter (Bạch Cúc), với sức tàn phá khủng khiếp chỉ sau loại
bom nguyên tử cỡ nhỏ và sẵn sàng đem ra dùng tại Việt Nam, nhưng lại
chỉ cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa sử dụng có 2 trái trong tổng số
11 trái mà họ đă đem qua để dùng trong trận chiến Xuân Lộc, một lần
nữa, cho thấy Quốc Hội và chính phủ Hoa Kỳ quyết tâm hy sinh người
bạn đồng minh chí cốt hoàn tất kế hoạch của ḿnh tại Đông Nam Á là
một ḿnh “tháo chạy” về nước, mặc dù nước Mỹ vẫn c̣n thừa khả năng
cung cấp kinh viện và quân viện để giúp người bạn đồng minh đó sống
c̣n. (3)
4. Chiến thắng Xuân Lộc buộc lịch sử Việt Nam Cộng Ḥa và Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa phải được nghiêm chỉnh viết lại
Ngày nay, khi mọi cảm xúc ban đầu về sự kết thúc đột ngột và đau
thương của cuộc Chiến Tranh Việt Nam đă phai dần và khi các nhà viết
quân sử cùng các sử gia, nhờ tham khảo được vô số hồ sơ mật đă được
giải mă cùng nhiều bí ẩn trong cuộc chiến bắt đầu được đưa ra ánh
sáng, cũng chính là lúc các sử gia đó phải khởi sự viết lại lịch sử
Việt Nam thời cận đại cũng như bộ quân sử Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
để đem lại công bằng và giúp đánh giá đúng mức công và tội của hai
chế độ Việt Nam Cộng Ḥa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa – mà hiện nay
là Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – trong và sau cuộc Chiến
Tranh Việt Nam.
Những quan điểm và thành kiến cố hữu về hai phía Nam và Bắc Việt Nam
trong cuộc chiến tranh vừa qua cần được viết lại cho nghiêm chỉnh và
khách quan hơn bao gồm huyền thoại Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt
Nam gây ra cuộc nội chiến Nam-Bắc tương tàn v́ yêu nước thương ṇi;
huyền thoại “Bộ Đội Cụ Hồ” một ḿnh có khả năng đánh thắng một hơi
bốn “đế quốc” xâm lược Tàu-Pháp-Nhật-Mỹ; huyền thoại chính phủ Cộng
Sản ở Miền Bắc lúc nào cũng thanh liêm và thương xót dân nghèo hơn
chính phủ dân chủ tự do ở Miền Nam; và thành kiến cho rằng Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa thiếu khả năng và tinh thần chiến đấu. (4)
Các nhà báo và các nhà viết sách, tương tự như thế, cũng được tha
thiết yêu cầu hăy tỏ ra công bằng hơn khi viết về những nhân vật và
biến cố liên quan tới cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Đặc biệt, những
thành phần này phải biết ăn năn, hối lỗi, hay ít ra th́ cũng phải
biết phục thiện đôi chút khi các sự thật lịch sử mới được phanh phui
ngày nay khiến những suy nghĩ và lập luận của họ trước đây trở nên
sai sự thật hoặc lố bịch. Đặc Biệt, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, thực
thể xứng đáng được nhân dân Việt Nam và cộng đồng nhân loại yêu
chuộng tự do, dân chủ “phong thánh,” không hề cần được khen ngợi một
cách thiên vị mà chỉ muốn được mọi người đánh giá lại một cách trung
thực thôi, kể cả những ǵ được viết về họ trong các bộ sách giáo
khoa tại các học đường Mỹ hiện nay. (5)
5. Thay lời kết
Nhân kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6 năm 2017, quân, dân, cán, chính Việt
Nam Cộng Ḥa bày tỏ ḷng ngưỡng mộ sâu xa trước công lao và các
chiến công hiển hách của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nói
chung, bao gồm cả các chiến sĩ Cảnh Sát Quốc Gia, Nghĩa Quân và Xây
Dựng Nông Thôn, những kẻ đă đem chính máu đào của ḿnh tô thắm lá cờ
vàng ba sọc đỏ thân thương của tổ quốc cho tới những giây phút tuyệt
vọng sau cùng v́ “mănh hổ nan địch quần hồ,” một ḿnh Việt Nam Cộng
Ḥa không thể nào đủ sức chống lại toàn thể khối Cộng Sản Quốc Tế
được sau khi đồng minh Mỹ duy nhất c̣n lại đă tháo chạy. (6)
Giờ đây, 42 năm đă trôi qua kể từ ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
tan ră, để rồi đất nước Việt Nam – không những chỉ có Miền Nam Việt
Nam mà luôn cả Miền Bắc Việt Nam – cùng đắm ch́m trong ách cai trị
độc tài, tàn ác của đảng Cộng Sản Việt Nam trước khi đảng này, đang
bị kiệt quệ v́ bất tài, ăn tiêu xa xỉ và tham nhũng, đành dâng toàn
bộ đất nước Việt Nam cho Trung Cộng căn cứ vào Thỏa Hiệp Thành Đô mà
hai đảng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam đă bí mật kư kết với nhau
hồi năm 1990, với năm 2020 là kỳ hạn sau cùng để Việt Nam trở thành
chủng tộc thứ 6 trong 6 chủng tộc, là Măn, Mông, Hồi, Tạng, Việt và
Hán, thống nhất dưới quyền lănh đạo của các lănh tụ Trung Nam Hải,
những vị chúa tể mới của một Đế Quốc Đại Hán Trung Hoa bao la, với
lănh thổ nới rộng thêm theo trục Nam-Bắc, kéo dài từ Mũi Cà Mau cho
tới tận biên giới Tây Bá Lợi Á (Siberia) của Nga.
Một lần nữa, những người công dân yêu nước của Việt Nam ngậm ngùi kỷ
niệm ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu lịch sử và kính cẩn nghiêng ḿnh
trước anh linh của hằng trăm ngh́n chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa đă vị quốc vong thân để bảo vệ nền tự do, dân chủ và sự toàn vẹn
lănh thổ của Việt Nam, từ vùng núi rừng Trường Sơn heo hút cho tới
các quân đảo Hoàng Sa và Trường Sa xa xăm trên Biển Đông.
Nếu chiều hướng hiện tại không thay đổi tại Việt Nam, Biển Đông,
Trung Cộng, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nam Hàn, Úc, Đài Loan, Phi Luật Tân,
Singapore, Ấn Độ… một trong hai viễn cảnh này sẽ diễn ra:
Một là, trường hợp cả Hoa Kỳ cùng các đồng minh Thái B́nh Dương của
họ chịu nhượng bộ Trung Cộng và bằng ḷng xin phép cường quốc cộng
sản này hầu được quyền sử dụng thông lộ South China Sea để từ Thái
B́nh Dương đi qua Án Độ Dương, thế giới sẽ ḥa b́nh dưới ách thống
trị của Đảng Cộng Sản Trung Hoa từ Trung Nam Hải;
Hai là, trường hợp Hoa Kỳ và các đồng minh cương quyết ngăn chặn
Trung Cộng để giữ cho South China Sea c̣n là một thủy lộ quan trọng
cho tự do lưu thông quốc tế như từ bao thế kỷ qua th́ chiến tranh sẽ
không thể nào tránh khỏi, và Thái B́nh Dương sẽ loang máu các chiến
sĩ Hoa Kỳ cùng hai đồng minh Nhật Bản và Úc thân thiết của họ, và
không chừng c̣n loang máu của các chiền sĩ Nam Hàn, Phi Luật Tân,
Singapore, Đài Loan và cả Ấn Độ nữa.
Khi viễn cảnh này trở thành hiện thực, thế giới hăy nhớ rằng, nửa
thế kỷ trước đây, máu đào của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa đă từng đổ ra v́ cùng chung lư tưởng với các chiến sĩ Thế Giới
Tự Do của ngày hôm nay…
Ghi chú:
(1) Đa số những tác giả viết sách về Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn
ưa nêu trận đánh với Việt Cộng tại Ấp Bắc ở Mỹ Tho hồi đầu năm 1963
để chê bai quân đội này. Họ đâu có biết rằng, trước cuộc Tổng Công
Kích Tết Mậu Thân 1968 của Cộng Sản Bắc Việt, Quân Đội Việt Nam Cộng
Ḥa – và sau đó là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa – v́ bị đồng minh Hoa
Kỳ cố t́nh trang bị yếu kém để dễ khống chế và v́ thiếu kinh nghiệm
chiến trường so với bộ đội Cộng Sản (với hàng chục năm kháng chiến
chống Pháp) nên đôi khi đă không thể đương đầu nổi với các lực lượng
tấn công, có lúc đông hơn gấp 4, 5 lần quân bạn. Tuy nhiên kể từ sau
biến cố Tết Mậu Thân 1968, khi tất cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa đều được vơ trang bằng súng trường M-16, chiến xa M-48,
trọng pháo 155mm, oanh tạc cơ B-57 và phản lực chiến đấu cơ F5-E,
quân đội này đă tự ḿnh đứng vững mà không cần quân Mỹ trợ chiến và
rồi tạo chiến thắng trong hầu hết các cuộc hành quân và phản công
quân Cộng Sản Bắc Việt, từ cuộc hành quân Toàn Thắng 43 vào
Cambodia, cuộc tử thủ tại An Lộc, cuộc giao tranh tại Kontum và cuộc
tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị hồi năm 1972 cho đến cuộc thư hùng
Nam-Bắc tại Thường Đức hồi năm 1974 và cuộc tử thủ pḥng tuyến Xuân
Lộc hồi năm 1975. Điều rủi ro nhất vẫn là, giữa lúc Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa đă trưởng thành trong khói lửa và đang trở thành một
đội quân tinh nhuệ bách chiến, bách thắng tại Á Châu th́ lại bị đồng
minh Hoa Kỳ phản bội và bỏ rơi nửa chừng để cho Cộng Sản quốc tế
chiến thắng.
(2) Chữ dùng của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu phụ tá tái thiết của
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, trong một quyển sách khác nhan đề “Khi
Đồng Minh Tháo Chạy” (2005) mà ông là tác giả.
(3) Trong cuốn “Palace File” (Harper & Row Publishers xuất bản,
1986, và được dịch ra tiếng Việt với nhan đề “Hồ Sơ Mật Dinh Độc
Lập”), tác giả Nguyễn Tiến Hưng, phụ tá thân cận của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu, nói về mối bang giao Việt-Mỹ trong những năm cuối
cùng của cuộc Chiến Tranh Việt Nam, nhất là những biến cố xoay quanh
cuộc hoà đàm và Hiệp Định Paris 1973, đặc biệt đưa ra những mật thư
giữa Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và các Tổng Thống Mỹ Richard Nixon
và Gerald Ford, từ 1971 đến 1975, xác nhận Mỹ cam kết yểm trợ mạnh
mẽ cho Việt Nam Cộng Ḥa, nhưng rút cục Mỹ lại bỏ rơi Miền Nam Tự Do
vào tay cộng sản quốc tế.
(4) Miền Nam Tự Do và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă thua trận không
phải v́ thiếu khả năng và ư chí chiến đấu chống Cộng mà v́ bị khủng
hoảng tâm lư khi biết người bạn đồng minh duy nhất của ḿnh là Hoa
Kỳ thế nào cũng bỏ rơi ḿnh. T́nh trạng suy sụp tinh thần đó khởi sự
ngay khi Hoa Kỳ t́m mọi cách thương thuyết với Cộng Sản Bắc Việt và
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam để chấm dứt cuộc Chiến Tranh Việt Nam
và việc Hoa Kỳ tiến hành kế hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau cuộc
Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân 1968 của quân cộng sản. T́nh trạng “mất
tinh thần” của quân và dân Miền Nam Việt Nam càng thêm trầm trọng
khi kinh viện và quân viện của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng Ḥa bị Quốc
Hội Mỹ thiên tả cắt dần rồi cắt hẳn vào những ngày đầu của năm 1975.
Họa vô đơn chí, sau khi Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa Vương Văn Bắc
mới thuyết phục được Quốc Vương Faisal bin Abdulaziz Al Saud của Ả
Rập Saudi chịu viện trợ cho Miền Nam Tự Do mỗi năm 500 triệu Mỹ kim
để tiếp tục chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản vô thần mà người Hồi
Giáo rất căm ghét, nhà vua bất ngờ bị ám sát vào ngày 25 Tháng Ba
năm 1975, khiến quân và dân Việt Nam Cộng Ḥa đành tuyệt vọng.
(5) Kể từ khi quyển “A Better War” về cuộc Chiến Tranh Việt Nam của
Lewis Sorley ra đời hồi cuối thập niên 1980 đến nay và quyển “Ride
The Thunder” (đă được dựng thành phim) của Richard Botkin (2009) về
khả năng chiến đấu siêu đẳng của một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Việt
Nam Cộng Ḥa, khuynh hướng phê phán trung thực hơn về khả năng và
tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă
được thể hiện. Trước đó, hầu hết các sách sử viết về cuộc Chiến
Tranh Việt Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đều mang tính thiên vị
phe Cộng Sản hay ít ra cũng thiếu khách quan, kể cả những bộ sách
như “Decent Interval“của Frank Snepp (1977), “Self-Destruction” của
Cecil B. Currey (1981), “A Bright Shining Lie” của Neil Sheehan
(1988)…
(6) Các tài liệu lịch sử mới nhất cho thấy, kể từ đầu thập niên
1950, Trung Cộng và Liên Xô đă bí mật đưa hàng chục ngh́n quân chí
nguyện và cố vấn vào các đơn vị cộng sản Việt Nam để trợ giúp họ
trong các hoạt động chiến đấu và tiếp vận, từ tiền tuyến đến hậu
phương. Thành thử, ngay cả chiến thắng Điện Biên Phủ trước quân đội
Pháp hồi Tháng Năm năm 1954 – mà Cộng Sản Bắc Việt vẫn luôn rêu rao
là do chiến công của riêng họ – thật ra vẫn là chiến thắng chung của
hai quân đội cộng sản Việt-Trung, mà nhà chỉ huy quân sự “nhất tướng
công thành vạn cốt khô” Vơ Nguyên Giáp đă được các đồng chí Trung
Quốc tế nhị nhường công. Trong cuộc xâm lược Việt Nam Cộng Ḥa 6 năm
sau đó, ngoài quân Trung Cộng và Liên Sô ra, chí nguyện quân từ các
nước cộng sản “anh em” khác, như Cuba và Bắc Hàn, cũng đă đóng góp
xương máu vào việc yểm trợ đắc lực cho bộ đội cộng sản Bắc Việt,
trong đó có các phi công Trung Cộng và Liên Sô trong các cuộc kịch
chiến với phi cơ Mỹ cũng như các lính pḥng không Liên Xô, Cuba và
Bắc Hàn tại những ụ súng và giàn hỏa tiễn pḥng không chống máy bay
của Không Lực Mỹ và Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Chính phía Trung
Cộng, khi đem quân đánh kẻ đệ tử vong ân, bội nghĩa Cộng Sản Bắc
Việt từ đất liền cho tới biển khơi, đă tiết lộ những trợ giúp lớn
lao không có ǵ sánh nổi mà họ đă dành cho phía Cộng Sản Bắc Việt
suốt 3 thập niên chiến tranh để đ̣i được đền bù xứng đáng, không
phải chỉ bằng tiền bạc mà c̣n bằng lănh thổ trên đất liền cùng các
đảo mà Cộng Sản Việt Nam tuyên bố có chủ quyền trên Biển Đông.
Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tears of pride
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory
Cũng chưa muộn màng
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư
Hành trang trên tuyền đường về
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia
hạnh phúc..
Định mệnh
Chín...
chín... chín... nhưng chưa rục
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường
Tuyết Nga....
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước
Ta về
Nấm
ngọc hương thiền
Giấc mơ
Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay
Buồn vui quân trường
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về
Ngày tháng buồn hiu
Những mùa Trung Thu
Để
lâu, c… trâu hóa bùn
Người Pleiku năm cũ
Mối bận
tâm xă hội
Quê hương của tôi
Đằng trước và đằng sau
Mấy
mánh lừa mới tại Quận Cam
Hồi kư
của Vương Mộng Long
Làng Việt
kiều
Viết cho
ngày lên tám… mươi
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân
t́nh
Đói
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du
Người cao
tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH
Những
bàn tay đă nắm
Cái lon
Guigoz
Thằng khùng
Một nụ cười
Hai cô thôn
nữ
Chiến
thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
Con cọn
nợ ba
Truyện
ngắn Ư Nga
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải
chăng là định mệnh
Con
gái Hà Nội ở đâu?
Trai Petrus Kư,
Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương
Đoản văn của một người tử trận
Người Việt
gốc Mỹ
Trời buồn
tháng hạ
Dân chơi cầu 4 cẳng
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH
Chàng... Donald Trump
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh
hồn
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND
Nói chơi mà không phải nói giỡn
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc
Tháng Tư
nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt
Phúc ấm con
ban !!!
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao
quư vừa tắt
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Sau 42
năm mất SaiGon
Nghĩ về
người vợ lính
Chân
dung người vợ lính VNCH
Tôi không
chết đâu
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên
Câu
chuyện về đôi đũa
Những
ngày tháng ba
Những
ngày tháng tư
Tâm thư -
Những ngày cuối tháng 4
Nguyễn Đức
Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà
Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối
Nh́n lại ḿnh sau
42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đờn ca tài tử miền
tây
Nói với người trung
đội trưởng cũ ...
Đồi Delta
Những bước chân vào đời
Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ
niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa
xuân trên quê hương ngoài kư ức
Xin một đời góa bụa cùng anh
Đón xuân này nhờ
xuân xưa
Nằm đêm nghe
tiếng rao hàng
Như vằng trăng
khuya
Góc tối
Cho nhuẩn nhuyễn ra
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia
Chúc
Tết
Đầu năm viết cho con gái
Bên nhau đi nốt cuộc đời