Đào Như
Văn Việt
Anh Nhân với giọng nói đều đều, có vẻ mệt mỏi v́
mất ngủ, anh tự giới thiệu ḿnh và nói về quá tŕnh anh đi tŕnh
diện vào ngày 30 tháng Tư 1975:
-Tiểu đoàn địa phương quân của tôi, đóng ở Bến Tre trước bảy lăm.
Tôi bị đưa đi tù cải tạo tận ngoài bắc: Hoàng Liên Sơn rồi Lào Kai.
Đầu năm tám mươi, họ chuyển chúng tôi về Nghệ Tĩnh, Lư Bá Sơ. Cuối
năm tám mươi tôi được “lệnh tha” thuộc diện sức khỏe. Đi tù cải tạo
ở ngoài bắc, nghề chính của tôi là xẻ gỗ. Tôi bị tai nạn cây đè, gẫy
kín xương đùi trái…
Đoạn anh đưa tay phải cao lên và choàng vai người bạn ngồi bên cạnh,
anh bảo:
-Cũng là nhờ đi tù cải tạo tận ngoài bắc mà tôi được biết anh Phùng
này đây. Chúng tôi ở cùng chung một trại từ Hoàng Liên Sơn…
Nói đến đây, anh và anh Phùng, hai người ôm nhau. Anh Phùng cảm
động, cố nuốt nước bọt, giọng anh ngậm ngùi:
-Nguyên tôi là đại úy, Lực Lượng Đặc Biệt, đóng ở Vùng Ba Biên Giới.
Tiếp liệu và liên lạc với bên ngoài hoàn toàn bằng trực thăng. Việt
Cộng dùng đặc công đánh úp đồn. Tôi bị bắt. Gia đ́nh được khai báo
là tôi bị mất tích, xem như đă chết. Vợ tôi lănh “tiền tử”. Khi bị
bắt, tôi thuộc diện tù binh, nhưng đến bảy lăm, cộng sản chuyển tôi
sang chế độ học tập cải tạo. Năm bảy sáu họ chuyển tôi ra tận ngoài
bắc, nên mới được ở chung với ông thiếu tá Lư Thiên Nhân này đây.
Khi cấp cứu anh Nhân bị gẫy kín xương đùi tại Lào Kai, có tôi. Chính
ở Lào Kai tôi và anh Nhân hái được trái “mắc cọp”, trái cây quí của
người Bắc. Xin lỗi anh em tên nó không thơm lắm, nhưng khi ăn không
đến nỗi nào…
Câu chuyện trái “mắc cọp” v́ cái tên vô duyên của nó làm cho anh em
toàn nhóm điều trị cười một trận.
Sau đó Thiếu tá Nhân tiếp nối câu chuyện về anh:
-Sự thật th́ cho tới năm bảy lăm tôi vẫn c̣n là tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 52 Địa phương quân tỉnh Bến Tre. Bộ chỉ huy của tiểu đoàn
đóng ở rừng Rạch Rợp, dựa lưng vào sông Ba Lai. Địa bàn hoạt động
của tiểu đ̣an là 16 xă thuộc quận Ba Tri. Sau khi tướng Nguyễn Khoa
Nam tuẫn tiết vào đêm 30 tháng tư năm bảy lăm, cũng như các sĩ quan
của các đơn vị quân đội Vùng 4, chúng tôi buông súng và đi tŕnh
diện tại quận Ba Tri.
Đến tŕnh diện, thoạt tiên thấy cộng sản họ cũng tử tế. Họ đội nón
tai bèo có, nón cối có, đến ân cần nói chuyện với các sĩ quan tŕnh
diện. Tất cả đều nói một câu mà h́nh như có ai dạy cho họ và họ
thuộc ḷng sẵn trong bụng. Họ bảo anh em chúng tôi: “Các anh phải
thật thà, thành khẩn mà khai báo, đừng có khai man tên họ, lư lịch
và chức năng của ḿnh! Cách mạng có cái nh́n thấu suốt tam đại, tứ
đại của các anh!”.
Một anh chiến binh cộng sản coi c̣n trẻ, chừng mười bảy mười tám,
đội mũ tai bèo, nói giọng Bắc, đến nhẹ nhàng hỏi tôi và ghi tên họ
cùng chức năng tiểu đoàn trưởng của tôi. Một ông sĩ quan của họ, đội
nón cối và cũng người miệt ngoài đó, đến cúi xuống trên tờ kê khai
lư lịch của tôi, đóng khung bằng mực đỏ chức năng tiểu đoàn trưởng
của tôi. Đoạn ông ta ngước ngược tṛng con mắt lên nh́n tôi, cái
nh́n sắc lạnh xuyên suốt cột sống tôi! Cái nh́n ghê rợn ấy có sức ám
ảnh tôi, măi đến bây giờ đôi khi tôi vẫn nh́n thấy lại trong những
cơn ác mộng. Nói thật với các anh em, lúc đó tôi thấy cái ǵ đó rất
bất ổn cho riêng tôi… Làm xong mọi thủ tục, họ bảo: “Các anh ai về
nhà nấy, và chờ lệnh gọi tập trung sau”.
Trên đường về nhà, tôi suy nghĩ thật mông lung. Tôi có cảm tưởng
ḿnh là con cá nằm trên thớt đang giăy dụa. Tôi gặp thượng sĩ Long
đang chạy xe Honda. Nó là thượng sĩ già, kinh nghiệm, từng trải,
trước sau như một, trung hậu với tôi. Tôi đem chuyện kể cho nó nghe.
Nó có vẻ sợ cho tôi, nó bảo:
-Hay ông thầy về tŕnh diện ở thị xă Kiến Ḥa cũng không muộn. Ở đó
“có người có ta”, chớ ở quận Ba Tri này, chỉ có ông thầy là lớn.
Ngại lắm…
Tôi c̣n măi cân nhắc, thượng sĩ Long vụt nói:
-Giờ này không c̣n ai dám chạy xe lôi xe lam rước khách cả. Được,
tôi chở ông thầy đi Kiến Ḥa bằng xe Honda của tôi.
Chỉ vỏn vẹn có năm phút, nó ghé nhà cho vợ nó hay. Nó bảo tôi ngồi
sau lưng nó, ôm nó thật chặt. Nó chở tôi một mạch về Kiến Ḥa. Trên
đường vào thị xă Kiến Ḥa tôi gặp trung tá Bành Tấn Bửu mới hôm qua
ông c̣n là tham mưu trưởng Tiểu khu Kiến Ḥa, bây giờ ông mặc đồ
thường phục, dân sự, mang dép Nhật, đang đi lẹt xẹt trên vỉa hè
đường phố. Tôi liền đến tŕnh bày với ông ta về sự thể của tôi tại
Ba Tri. Ông ta hơi ngại cho tôi. Ông ta bảo:
-Ở quận Ba Tri không ai mà không biết anh. Th́ cũng đành vậy thôi.
Lúc ấy trông mặt ông ta có vẻ căng ra. Mồ hôi rịn trên trán ông thấy
rơ. Ông Bửu vụt hỏi tôi:
-Quê anh ở Sa Đéc? C̣n sớm chán, về ngay quê quán ḿnh mà tŕnh diện
cho có bà con và cũng có vẻ thật thà hơn, chớ ở Bến Tre này anh cũng
biết ngại lắm, chính tôi cũng không biết thân phận của tôi ngày mai
ra sao!
Tên thượng sĩ già của tôi cũng chụp nói vào:
-Đúng rồi đó ông thầy. Tôi đưa ông thầy xuống phà, xong tôi bốc ông
thầy lên ngă ba Trung Lương để ông thầy đón xe đ̣ về bến phà Mỹ
Thuận rồi thẳng về Sa Đéc nội trong ngày, trước hai hay ba giờ chiều
nay.
Tôi bắt tay trung Tá Bành Tấn Bửu. Chúng tôi chưa hề bắt tay nhau
ngỡ ngàng như vậy, không phải là lời chào vĩnh biệt, cũng không phải
lời hẹn tái ngộ. Có ǵ đó bẽ bàng cho thân phận chúng tôi.
Ngă ba Trung Lương, một ngă ba sầm uất, nhộn nhịp của các tỉnh phía
Nam Sài G̣n. Nó nằm bên này sông Tiền trên trục giao tht, đường đi
Mỹ Tho, Vĩnh Long, bến phà Mỹ Thuận, về Sa Đéc và Đồng Tháp… Cách nó
không xa là Căn Cứ Đồng Tâm, trung tâm hậu cần Quân khu 4; và cũng
cách nó không xa là Bộ Tham Mưu của Sư đoàn 7.
Hôm nay, tại ngă ba Trung Lương, người qua kẻ lại có vẻ bối rối khác
thường. Ai cũng có bộ mặt thảng thốt, ngỡ ngàng. Những anh em binh
sĩ quân đội Việt Nam Cộng Ḥa mới hôm qua, hôm nay mặc đồ dân sự,
mang dép Nhật, đứng nh́n sững sờ các chú lính giải phóng đội nón tai
bèo, lái xe jeep chạy tứ tung, vô kỷ luật. Họ không biết lái, họ húc
phải người, tung cả quán hàng. Có xe bị lật bên đường. Có xe hết
xăng bỏ ngay giữa con lộ.
Nh́n lại, đó là những chiếc xe nhà binh mà các bộ đội giải phóng lấy
tại Căn Cứ Đồng Tâm và Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 7. Có người lính giải
phóng đội nón tai bèo, đứng trên xe jeep la lớn bằng giọng Bắc Kỳ:
“Đó là qui luật của chiến tranh”, và anh ta chĩa súng AK lên trời
bắn đùng đùng.
Tôi thấy buồn lắm. Buồn lắm các anh em! Mới hôm qua cả Quân Đoàn 4
đều nắm vững tay súng, chủ động trên khắp chiến trường, làm chủ
trong mọi t́nh thế. Đêm qua tướng Nguyễn Khoa Nam tuẫn tiết tại Cần
Thơ, cả Quân Đoàn 4 sụp đổ. Cộng sản chiếm cả Vùng 4 không tốn một
viên đạn.
Tôi cảm thấy mất mát quá nhiều. Tôi vô cùng xấu hổ khi thấy ḿnh cải
trang trong bộ đồ dân sự, chân mang dép. Tôi thấy thương ḿnh vô
hạn. Tôi c̣n trẻ. Tôi mới ba mươi hai tuổi, tiểu đoàn trưởng. Cuộc
đời binh nghiệp của tôi chấm dứt sớm và thê thảm như vậy sao? Tôi
nghĩ đến Tú, vợ tôi. Tôi yêu Tú vô hạn. Tôi nhớ các con tôi. Có lẽ
giờ này tất cả mẹ con đang ngóng mong tôi tại Sa Đéc. Cầm ḷng không
được, nước mắt dâng tràn…
Anh Nhân nói đến đây mặt mũi đỏ hoe và giọng anh nghe như khàn đi,
thấy vậy anh Quang tiếp lời anh. Trung tá Lâm Quang nguyên là một
trong những sĩ quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam. Anh là sĩ
quan Chiến Tranh Chính Trị.
Trung tá Lâm Quang nói:
-“T́nh h́nh chiến sự thuộc lănh thổ quân khu 4 vào những ngày cuối
tháng Tư 75 nói chung và thành phố Cần Thơ nơi đặt bản doanh Bộ Tư
Lệnh Quân đoàn 4, Quân khu 4, Vùng 4, nói riêng, tương đối yên tĩnh
so với t́nh h́nh các tỉnh miền đông thuộc Quân khu 3, và Biệt Khu
Thủ Đô, bản doanh của chính phủ trung ương Sài G̣n. Nhất là sau vụ
Tướng Nguyễn Khoa Nam đích thân chỉ huy các đơn vị thống thuộc đánh
bại và vô hiệu hóa ḥan toàn hỏa lực của trung đ̣an chủ lực miền Hậu
Giang của cộng sản, khi trung đ̣an này xâm nhập và tiến sát vào ṿng
đai pḥng thủ của phi trường Trà Nóc- Cần Thơ.
Sáng ngày 29 tháng tư 1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 có triệu tập một
cuộc họp quan trọng để duyệt xét lại t́nh h́nh và đề ra phương án
phản công mới dưới quyền chủ tọa của thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư
lệnh Quân Đ̣an 4, Quân khu 4. Thành phần tham dự cuộc họp gồm có: tư
lệnh, tư lệnh phó, tham mưu trưởng, các tham mưu phó và các sĩ quan
trưởng pḥng trong bộ tham mưu của Quân đoàn 4, ngọai trừ hai sĩ
quan cao cấp của Quân đoàn, một cấp chuẩn tướng, tham mưu trưởng, và
một cấp đại tá, trưởng pḥng 2 Quân đoàn, đă tẩu thoát ra nước ngoài
là không tham dự phiên họp này. Cuộc họp tuy ngắn nhưng trang nghiêm
và hết sức quan trọng. Các đơn vị trong Quân đoàn 4 thề: “Kiên quyết
và đoàn kết sau lưng vị tư lệnh và chiến đấu đến viên đạn cuối cùng,
tử thủ Vùng 4”.
Sáng ngày 30 tháng tư 1975 vào lúc 10:25, Tổng Thống Dương Văn Minh
lên đài phát thanh Sài G̣n kêu gọi toàn thể quân đội và các tướng
lănh chỉ huy sư đoàn, quân đoàn trên toàn vùng lănh thổ miền nam,
phải buông vũ khí, ngưng chiến đấu và chờ bàn giao cho chính quyền
cách mạng!... Thế là một quân đ̣an hùng mạnh như Quân Đoàn 4, tới
giờ phút này vẫn nắm vững tay súng, chủ động trên mọi tư thế chiến
đấu và phản công, đang giữ vững miền châu thổ sông Cưủ Long sắp phải
tan ră.
Tướng Nguyễn Khoa Nam, một quân nhân chuyên nghiệp, ông phải tuân
thủ mệnh lệnh thượng cấp, nhất là vị thượng cấp này là Tổng Thống
Dưong Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa, vị Chỉ huy
trực tiếp của Ông.
Một số sĩ quan phục vụ trong bộ tham mưu của Quân Đoàn 4, kể cả tôi,
quá chán nản rời bỏ đơn vị, về sum họp với gia đ́nh chờ ngày vào tù.
Một số khác th́ t́m đường tẩu thoát ra nước ngoài v́ họ sợ cộng sản
trả thù. Trong bối cảnh này, chỉ c̣n lại một ḿnh thiếu tướng Nam-
tư lệnh, thiếu tướng Lê Văn Hưng- tư lệnh phó, và một số sĩ quan
thân cận ở lại doanh trại bộ tư lệnh của Quân đoàn. Tướng Nguyễn
Khoa Nam, một tướng lănh ưu tú, sống độc thân, ăn trường chay, thanh
bạch, suốt đời ông cống hiến cho binh nghiệp, tận tụy với quân đội.
Chiều ngày 30 tháng tư 1975, cộng sản đưa người của họ vào là Tám
Thạch, mang quân hàm thiếu tá trung đoàn trưởng, qua trung gian của
Nguyễn Khoa Lai- em thúc bá của tướng Nam, thiếu tá bác sĩ quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa, và đại úy bác sĩ Đoàn Văn Tựu, y sĩ trưởng Tiểu
đoàn 40 Chiến Tranh Chính Trị, trú đóng tại B́nh Thủy- Cần Thơ, vào
tiếp xúc với tướng Nam tại bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, đồn trú trên đại
lộ Ḥa B́nh thành phố Cần Thơ. Nội dung cuộc tiếp xúc này, cấp nhỏ
như chúng tôi không ai được biết, ngọai trừ tướng Hưng, tư lệnh phó,
được tướng tư lệnh bàn bạc và thông báo riêng. Thiếu tướng Hưng trở
về tư dinh và tự sát sau đó.
Sau khi suy nghĩ và cân nhắc mọi hậu quả có thể xảy đến cho đồng bào
và chiến sĩ trong lănh thổ, tướng Hưng và tướng Nguyễn Khoa Nam,
tuần tự đi đến quyết định tuẫn tiết.
Sự tuẫn tiết của hai vị tướng lănh, tư lệnh và tư lệnh phó của chúng
ta, tướng Nguyễn Khoa Nam và tướng Lê Văn Hưng, là những quyết định
kiên cường và dũng cảm, măi măi được tuyên dương và ghi công, đời
đời được lịch sử soi sáng”.(1)
Những điều tường thuật của trung tá Lâm Quang tuy sơ lược nhưng rất
súc tích, gây nhiều cảm kích cho anh em. Không ngờ sau gần hai mươi
năm mà ấn tượng của các anh em về tướng Nguyễn Khoa Nam vẫn c̣n sâu
sắc, không một phai mờ. Nhớ lại tướng Nguyễn Khoa Nam, anh em nhớ
lại một thời vinh dự được cầm súng bảo vệ tổ quốc. Có một vài anh em
cúi mái đầu bạc, hai tay bưng mặt khóc rưng rưng. Có một thời anh em
là lính, là sĩ quan tham mưu của tướng Nguyễn Khoa Nam.
Không muốn để tâm t́nh xúc động của các anh em kéo dài, trung tá Lâm
Quang yêu cầu anh Nhân tiếp tục câu chuyện của anh, con đường từ ngă
ba Trung Lương về Sa Đéc.
Anh Nhân bậm môi, cố gắng lấy hết can đảm mới đủ b́nh tỉnh tiếp nối
câu chuyện của ḿnh:
-Như các anh biết, lúc đó xe chạy rất ít. Tôi có ư sợ không có xe về
sớm để kịp giờ tŕnh diện! May quá, lúc đó một chiếc xe nhà binh GMC
cũng đang chạy trờ tới. Trên xe có mấy anh em bộ đội giải phóng đội
nón cối, cũng có những người đàn ông đàn bà mặc đồ dân sự. Tôi liền
đưa tay đón chiếc xe lại. Khi đến gần, họ ngừng xe lại, tôi thấy
người tài xế lại là chú lính Việt Nam Cộng Ḥa! Tôi mạnh dạn hỏi
lớn:
-Cho quá giang về phà Mỹ Thuận có được không?
Một anh bộ đội giải phóng, nói giọng bắc la lớn:
-Nào! Lên đi nào. Khẩn trương lên. Trưa cả rồi!
Một cánh tay đưa xuống kéo tay tôi lên. Khi bàn tay tôi chạm phải
bàn tay anh, tôi thấy tay áo anh may bằng vải ka ki xanh Nam Định.
Tim tôi se lại. Dưới màu ka ki xanh Nam Định này, tôi đă nhiều lần
nh́n thấy trên chiến trường những xác chết trẻ trung dưới hai mươi
tuổi, trên ngực họ, trên tay họ hay trên lưng họ xăm hàng chữ Sanh
Bắc, Tử Nam.
Xe chạy… và chạy xa ngă ba Trung Lương. Mọi người ngồi trong xe đều
im lặng. H́nh như mỗi người đang theo đuổi những ư nghĩ riêng tư của
ḿnh. Ai cũng có vẻ ngỡ ngàng khi chạm phải mắt nhau.
Xe chạy qua những thôn xóm quen thuộc tôi đă từng qua lại nhiều lần
từ thuở thiếu thời, cắp sách đến trường gặp thầy, gặp bạn. Hôm nay
trông quạnh vắng lạ thường. Trường học đóng cửa, không một bóng dáng
học tṛ, chợ búa tiêu điều không ai nhóm, nền gạch trơ, phất phơ mấy
miếng lá chuối khô bay.
Có lúc trên xe im phăng phắc. H́nh như ai cũng đang chờ đợi cái ǵ.
Sau những năm chiến đấu ồn ào với súng đạn, bây giờ tôi mới hiểu im
lặng là cái đáng sợ. Nhất là cái im lặng sau cuôc chiến, cái im lặng
chứa đầy tử khí, ngạo nghễ và phản kháng.
Các anh bộ đội miền bắc, có lúc cố gắng pha tṛ để đỡ buồn, đỡ căng
thẳng. Có anh nhái giọng nam bộ, hỏi người trên xe: “Mần sao?”. “Bà
con làm một chuyến du lịch từ Rạch Miễu đến phà Mỹ Thuận trên chuyến
xe đ̣ cách mạng kỳ này chắc dzui’ lắm hả?”.
Câu pha tṛ của anh rơi vào khoảng không. Không một nụ cười đáp ứng.
Tôi gượng gạo, nh́n bâng quơ ra ngoài. Làng mạc ruộng vườn bao la
một màu xanh rờn vắng bóng người nông phu, chỉ có những cánh c̣ bay
lặng lẽ.
Chợt anh tài xế la lớn;
-Đến bến phà rồi, bà con ơi.
Tôi vội vàng cám ơn mọi người và nhảy xuống xe trước nhất. Một cánh
tay cầm khẩu AK của anh bộ đội giăng ra chặn tôi lại. Tôi hốt hoảng
không biết xử trí như thế nào; nhưng với phản xạ tự nhiên của người
lính, bàn tay phải của tôi đă sẳn trong túi quần, lúc ấy ngón tay
cái của tôi đă nằm sẵn trên khóa an toàn, và ngón tay trỏ của tôi
lúc đó cũng đă sẵn sàng nằm trên c̣ của khẩu Colt 12 mà tôi lận rất
kỹ trong người, và nó sẵn sàng nổ!
Anh chàng bộ đội nhắm nghiền đôi mắt lại, ngước cổ cao lên và la
lớn:
-Ối giời! Chúng tôi đèo anh từ ngă ba Trung Lương đến tận đây th́
anh phải trả tiền chứ, sao lại cám ơn không được!
Nói thật, lúc đó tôi mới lấy lại b́nh tĩnh. Tôi từ từ rút bàn tay
phải ra khỏi túi quần có dính theo tờ giấy bạc 500 đồng đưa cho anh
bộ đội và nói cám ơn anh ấy.
Trên đường tôi ngồi tiếp xe lôi về nhà, tôi nhớ lại câu nói của anh
bộ đội:“Tôi đèo anh”, và tôi cười một ḿnh.
Măi sau này đi tù cải tạo tại miền bắc tôi mới hiểu được nghĩa của
chữ “đèo”. Chiến thắng miền nam, đối với các anh nhanh quá! Các anh
ngỡ ngàng như c̣n trong mơ. Các anh chở chúng tôi trên chiếc xe hơi
nhà binh GMC mà cứ tưởng là đang “đèo” chúng tôi trên chiếc xe đạp
thồ trên con đường quê nào đó tại miền-bắc-xă-hội-chủ-nghĩa.
Về đến Sa Đéc, trước khi đến nhà, đi ngang qua một công đất bỏ
hoang, cây cối um tùm, có con lạch nhỏ, nước sâu đến gối và nhiều
bùn, tôi dừng lại, suy nghĩ một hồi…
Tôi bước xuống đứng dưới con lạch. Bỏ tay vào túi quần, tôi từ từ
tháo gỡ cây súng. Tôi kiểm soát khóa an toàn, cho nó rơi xuống trong
ống quần, rơi thật sâu xuống con lạch nước.
Tôi nghe cây súng rơi xuống đến mắt cá chân. Tôi dí bàn chân sâu vào
trong bùn và rút lên từ từ. Cây súng ngang mắt cá chân tôi rơi đúng
vào lỗ bùn sâu.
Bước lên khỏi con lạch, mang lại đôi dép, tôi đi hướng về nhà không
ngoảnh mặt lại…
Có một chút ǵ ân hận chua xót trong tôi.
H́nh như tôi vừa từ giă ai? Một người bạn? Một chiến hữu? Một khẩu
súng?
Một thoáng bâng khuâng mơ hồ, tôi vừa bước qua ngưỡng cửa cuối cùng
của cuộc đời binh nghiệp…
-------------------------
Ghi Chú:
(1)- Đây là bức thư của Trung tá Lâm Quang Bạch (bà con với hai
tướng Lâm Quang Thi và Lâm Quang Thơ, quân đội Việt Nam Cộng Ḥa gốc
người Hoa ở Trà Vinh nhiều đời), đưa cho tôi sau buổi họp điều trị
tâm thần tập thể.
Đây là 1 đoạn của ông ghi chú những biến cố tại Vùng 4 trong những
ngày cuối tháng 4 1975, với tất cả danh dự, xương máu và nước mắt
của một người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tears of pride
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory
Cũng chưa muộn màng
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư
Hành trang trên tuyền đường về
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia
hạnh phúc..
Định mệnh
Chín...
chín... chín... nhưng chưa rục
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường
Tuyết Nga....
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước
Ta về
Nấm
ngọc hương thiền
Giấc mơ
Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay
Buồn vui quân trường
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về
Ngày tháng buồn hiu
Những mùa Trung Thu
Để
lâu, c… trâu hóa bùn
Người Pleiku năm cũ
Mối bận
tâm xă hội
Quê hương của tôi
Đằng trước và đằng sau
Mấy
mánh lừa mới tại Quận Cam
Hồi kư
của Vương Mộng Long
Làng Việt
kiều
Viết cho
ngày lên tám… mươi
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân
t́nh
Đói
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du
Người cao
tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH
Những
bàn tay đă nắm
Cái lon
Guigoz
Thằng khùng
Một nụ cười
Hai cô thôn
nữ
Chiến
thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
Con cọn
nợ ba
Truyện
ngắn Ư Nga
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải
chăng là định mệnh
Con
gái Hà Nội ở đâu?
Trai Petrus Kư,
Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương
Đoản văn của một người tử trận
Người Việt
gốc Mỹ
Trời buồn
tháng hạ
Dân chơi cầu 4 cẳng
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH
Chàng... Donald Trump
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh
hồn
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND
Nói chơi mà không phải nói giỡn
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc
Tháng Tư
nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt
Phúc ấm con
ban !!!
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao
quư vừa tắt
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Sau 42
năm mất SaiGon
Nghĩ về
người vợ lính
Chân
dung người vợ lính VNCH
Tôi không
chết đâu
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên
Câu
chuyện về đôi đũa
Những
ngày tháng ba
Những
ngày tháng tư
Tâm thư -
Những ngày cuối tháng 4
Nguyễn Đức
Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà
Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối
Nh́n lại ḿnh sau
42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đờn ca tài tử miền
tây
Nói với người trung
đội trưởng cũ ...
Đồi Delta
Những bước chân vào đời
Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ
niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa
xuân trên quê hương ngoài kư ức
Xin một đời góa bụa cùng anh
Đón xuân này nhờ
xuân xưa
Nằm đêm nghe
tiếng rao hàng
Như vằng trăng
khuya
Góc tối
Cho nhuẩn nhuyễn ra
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia
Chúc
Tết
Đầu năm viết cho con gái
Bên nhau đi nốt cuộc đời