Trần Trung Đạo
Đà Nẵng của tôi, nơi những buổi chiều của tuổi mười ba, tôi vẫn thường đứng nh́n những đoàn xe mang nhăn hiệu Sealand, RMK, GMC nối đuôi nhau mỗi ngày trên chiếc cầu màu đen mang tên của một viên tướng thực dân. Những chiếc chiến xa nặng nề, những khẩu đại pháo ṇng dài được cất lên từ những chiếc tàu lớn neo ngoài cửa biển Sơn Chà. Tiếng gầm thét của những đoàn phi cơ chiến đấu đang đáp xuống phi trường quân sự ngoài ngă ba Duy Tân. Tiếng nhạc, tiếng cười, tiếng chọc ghẹo, okay, hello, goodbye của những người lính Mỹ và những cô gái Việt Nam vào tuổi chị tôi, vọng lại từ những hộp đêm dọc bờ sông Bạch Đằng. Tất cả đă khơi dậy trong ḷng tôi nhiều câu hỏi, nhiều băn khoăn và cả những tủi thẹn đầu đời của một đứa bé Việt Nam xót xa cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm đang biến thành cây chùm gởi. Tại sao? Tại sao lại là Đà Nẵng? Tại sao là Việt Nam quê hương tôi mà lại không phải một nơi nào khác?
Đà Nẵng của tôi, như định mệnh an bài, cũng là nơi an nghỉ của người lính Mỹ đầu tiên thuộc chiến hạm Hoa Kỳ lừng danh, USS Constitution. Không phải đợi đến 1965, khi các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội thả neo tại cửa biển Đà Nẵng để đổ bộ các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đầu tiên nhưng từ hơn 120 năm trước, Đà Nẵng đă là một nơi hẹn ḥ đầy định mệnh giữa quân đội Việt Nam thời Thiệu Trị và Hộ Tống Hạm Hoa Kỳ đầu tiên của hải quân Hoa Kỳ dưới quyền của hạm trưởng John Percival. Theo các tài liệu c̣n ghi lại, năm 1845, chiến hạm USS Constitution của Hải Quân Hoa Kỳ, trên chuyến hải hành hai năm ṿng quanh thế giới, dừng lại cảng Đà Nẵng để xin cung cấp thực phẩm và nước ngọt. Cũng tại hải cảng lịch sử nầy, Hạm trưởng John Percival xin phép quan trấn thủ thành Đà Nẵng để chôn cất thủy thủ William Cook vừa qua đời, dưới chân Núi Khỉ nằm trong rặng Sơn Chà. Thậm chí ông c̣n "viện trợ" hai Mỹ kim để lo phần hương khói. Tiếc thay, chỉ vài ngày sau đó, v́ việc triều đ́nh Huế bắt giam Giám Mục Dominique LeFevre, đă làm cho tang lễ thắm đượm t́nh nhân đạo của con người, biến thành một xung đột quân sự giữa hai quốc gia. Cuộc chạm trán ngắn ngủi năm 1845 rất ít người biết đến. Những viên đại pháo bắn vào lănh hải Việt Nam, dù chỉ để đe dọa, cũng đă vô t́nh gây thương tích cho quan hệ đầy oan trái giữa hai quốc gia Việt Mỹ sau này.
Đà Nẵng của tôi có khu Ngă Ba Huế nhộn nhịp, nơi tôi từ Hội An về thăm cô tôi những chiều thứ Sáu trong những chiếc xe khách hiệu Renault già nua màu xanh đậm. Tôi vẫn nhớ căn nhà nhỏ, ánh đèn dầu loe loắt, bàn tay xanh xao của cô khi dúi vào túi tôi những tờ giấy bạc được gói kín trong nhiều lớp vải. Đó là những đồng tiền khó khăn và vô giá mà cô dành dụm cho đứa cháu trai vào Hội An nương náu trong chùa ăn học. Tôi ra Đà Nẵng t́m cô vào đầu năm 1968. Nhà cô nghèo, con cháu lại quá đông. Nhiều đêm tôi phải ngủ đói trên căn gác của một trại cây ở hẻm 220 Hùng Vương, ngang hông phường Thạc Gián. Vài tuần sau, v́ nhà đông đúc, cô đưa tôi đến sống với người anh họ và bà chị dâu khó tánh ở Cổ Mân, Sơn Chà. Chị dâu tôi khó tánh đến nỗi, chỉ sau một thời gian ngắn, tôi không chịu đựng được nữa nên lặng lẽ bỏ đi. Tôi vào chùa Viên Giác. Năm tháng như mây trời, bao độ hợp tan mang theo những giận hờn, thương ghét. Cô tôi đă về bên cơi khác nhưng ḷng tôi sao vẫn nhớ vẫn thương. Trên xứ người, nhiều đêm không ngủ được, nhớ lại tiếng ho của người cô bịnh hoạn, tôi vẫn c̣n nghe nhức nhối như thuở mới về thăm. Chiến tranh và nghèo đói đă cướp đi bao thế hệ Việt Nam vô tội.
Đà Nẵng của tôi không phải chỉ là điêu linh tang tóc mà c̣n là thành phố cảng đẹp tuyệt vời. Những bờ biển uốn cong như mái tóc của người con gái Việt Nam đang đứng trông ra Thái B́nh Dương bao la bát ngát. Từ eo biển mỹ miều đó những thương thuyền ngoại quốc đă đến thăm thành phố từ mấy trăm năm trước. Đà Nẵng của tôi có hàng phượng đỏ hai bên đường Bạch Đằng, đường Độc Lập với những chiếc ghế đá dọc bờ sông mang chứng tích của một thời học tṛ đầy kỷ niệm. Đà Nẵng của tôi có băi Mỹ Khê (không phải China Beach), với bờ cát trắng chạy dài và hàng dương vi vu theo gió, có băi Thanh B́nh với những chiếc ghe đánh cá đi về và cảnh chợ chiều nhộn nhịp. Những ngày hè oi bức, tôi và đám bạn vẫn thường ôm đàn ra ngồi dựa lưng vào những gốc dương liễu dọc băi biển. Trong tiếng sóng từng nhịp vỗ vào bờ, chúng tôi cùng cất cao bài hát ra khơi như để cổ vơ cho những chiếc thuyền đánh cá đang giong buồm ra biển. Tôi đâu biết vài năm sau, bạn bè tôi cũng lần lượt ra khơi như thế nhưng chẳng c̣n ai dám đến tiễn đưa.
Đà Nẵng của tôi có những hàng cây sao t́nh tự dọc đường Thống Nhất, nối từ bờ sông đi ngang qua Trường Nữ, nơi các cô cậu học tṛ Phan Châu Trinh, Phan Thanh Giản vẫn thường đứng đợi người trong mơ sau mỗi buổi tan trường. Những chiếc áo dài trắng thướt tha. Những mái tóc thề chấm vai thơ mộng. Những đôi mắt nai tơ đó đă từng là nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ xứ Quảng đa t́nh. Xin mời đọc vài câu thơ của nhà thơ Luân Hoán viết về các cô nữ sinh Đà Nẵng:
chiều chiều luồn chợ Vườn Hoa trôi theo Đồng Khánh bám tà áo bay mắt hồng liệng cái ngoắt tay dắt qua Độc Lập dựa cây đèn đường chập chùng xuân ảnh vải hương ngó ai ḷng cũng yêu thương tức th́ giả vờ châm thuốc nhâm nhi nuốt thầm vóc đứng, dáng đi quanh ḿnh. (Đà Nẵng, thơ Luân Hoán Luân Hoán)
Các cô nữ sinh của một thời thơ mộng tung tăng như những con bướm vàng trên đường Thống Nhất, Lê Lợi, Hoàng Diệu, Khải Định ngày xưa đă không về nữa. Các cô đă ra đi, bỏ lại sau lưng hàng cây sao rợp bóng bên đường, bỏ lại những chiếc ghế vuông, những ly chanh muối, những quán chè. Các cô bây giờ đă lớn, đă trưởng thành. Nhiều cô đă là những bà mẹ tay bồng tay bế, để rồi 17 năm sau ngồi nhớ lại năm ḿnh 17 tuổi.
Các cậu học tṛ cũng thế. Những chàng thanh niên với buồng phổi và trái tim chất đầy hùng khí của xứ địa linh nhân kiệt đă ra đi. Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời chinh chiến và cả khi đất nước ḥa b́nh, đă chịu đựng quá nhiều thiệt tḥi mất mác. Nỗi bất hạnh lớn nhất của một đời người vẫn là bất hạnh không có tuổi hoa niên. Các cậu ra đi, bỏ lại sau lưng những chiếc xe đạp, những quán Cà-phê Thạch Thảo, Thanh Hải, Ngọc Lan, những rạp hát Trưng Vương, Chợ Cồn, bỏ lại cây đàn guitar cũ kỹ và những bản t́nh ca chưa viết trọn trong sân trường. Để rồi nhiều năm, sau cuộc biển dâu, chinh chiến, gian lao, tù tội trở về. Trở về chỉ để thấy thành phố xưa nay đă đổi chủ và con đường xưa nay đă đổi thay tên. Tuổi thơ không bao giờ trở lại. Suối vẫn chảy, nước vẫn reo nhưng điêu linh tang tóc đă xua bầy nai tơ lạc đàn đi biền biệt, mất dấu đường về bên khe đá cũ.
Sau 1975, những băi biển Mỹ Khê, Thanh B́nh, Tiên Sa, Thanh Khê, Tân Thái, Mân Quang, Chợ Mai, Chợ Chiều, Non Nước, Nam Ô, v.v.., vẫn c̣n là điểm hẹn nhưng không phải là nơi hẹn ḥ của những cặp t́nh nhân mà là nơi những người con Đà Nẵng hẹn nhau để bỏ quê hương mà ra đi. Xin đừng hỏi họ đi đâu, về đâu trong những đêm tối trời lầm lủi đó. Không ai biết chắc. Chỉ một điều họ biết là họ không c̣n chọn lựa nào khác hơn là phải ra đi. Không một người dân Quảng nào bỏ quê hương ra đi mà không đau xót.
Xin đừng dán lên lưng, lên trán họ những nhăn hiệu theo Tây, theo Mỹ. Không. Người dân Quảng là những người yêu nước. Ông cha họ đă từng cười mà bước lên máy chém thực dân. Những cơn băo lụt tàn phá mỗi năm đă không làm họ bỏ làng mạc ra đi. Nạn hạn hán làm ruộng đồng khô cháy mỗi năm không buộc họ phải bỏ mồ mả tổ tiên ra đi. Sụp căn nhà này họ căm cụi xây trên nền đất cũ căn nhà khác. Trôi căn nhà này họ lại xẻ gỗ, lợp tranh xây lên căn nhà khác. Bao thế hệ đă sống và đă chết trên vùng đất cày lên sỏi đá đó. Nhưng chế độ mới, một chế độ nhân danh những mục tiêu tốt đẹp nhất trên đời đă buộc họ phải ra đi. Sự thôi thúc của tự do như tiếng gọi thiêng liêng của người cha già vọng về từ một nơi xa thăm thẳm. Và sẽ không ai biết, bao nhiêu người, trong số hàng ngàn, hàng vạn người bỏ Đà Nẵng ra đi, đă đến được Hong Kong, Philippines, và bao nhiêu người không may mắn đă bị chôn sâu trong ḷng biển, chết thảm thương trong bàn tay hải tặc, chết trong đói khát sau những tuần, những tháng lênh đênh ngoài biển cả.
Đà Nẵng của tôi sau 1975 không c̣n thơ mộng nữa. Những câu ca dao đậm đà t́nh quê hương đất nước: "Ngó lên ḥn Kẽm đá Dừng, thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi" đă được thay bằng những khẩu hiệu đấu tranh giai cấp chất chứa toàn chuyện oán thù. Những điệu ḥ khoan đậm đà hương vị Quảng Nam "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm, rượu hồng đào chưa nhấm đà say" đă được thay bằng những những đêm dài học tập, thảo luận, khuyến khích thầy cô, cha mẹ, anh em tố cáo lẫn nhau. Ánh trăng không c̣n là những dải lụa vàng Duy Xuyên đang trải trên ḍng sông Hàn mỗi đêm rằm, nhưng là những vết dao nghèo đói đang chém xuống một quê hương vốn đă chịu đựng nhiều bất hạnh.
Ngày cuối cùng của tôi ở Đà Nẵng như đoạn kết của một cuốn phim buồn. Tôi và cô bé, lư do cho những bài thơ t́nh học tṛ đầy sáo ngữ của tôi, ngồi trên chiếc ghế đá trên đường Bạch Đằng, nh́n sang hướng Sơn Chà.
- Anh sắp phải đi xa.
- Em biết.
- Sao em biết, anh chưa nói với em mà?
- Anh nói với em rồi. "Anh phải vô Sài G̣n học đại học. Học xong anh sẽ về quê, không đi nữa." Em c̣n nhớ anh nói với em câu đó lúc mấy giờ, ngày nào và tại đâu nữa ḱa.
- Không phải. Đó là chuyện hồi chưa "giải phóng", bây giờ th́ khác.
- Bây chừ anh tính đi đâu?
- Anh vượt biên. Nếu đi lọt, có thể anh sẽ qua Mỹ học.
- Bộ ở Việt Nam không có trường cho anh học sao. Em nghe nói Mỹ xa lắm, chắc là xa hơn Sài G̣n nhiều. Mùa hè làm sao anh về thăm quê được.
- Anh sẽ về nhưng chắc không phải mùa hè.
- Anh lại hứa.
Hai đứa nh́n ra sông. Chiếc phà An Hải vẫn mệt mỏi đưa người qua lại. Giọng hát buồn năo nuột của anh thương phế binh cụt hai chân từ ngoài bến vọng vào: "Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi. Thành phố sau lưng ôm mộng ước ǵ. Tôi là người đi chinh chiến dài lâu. Nên mộng ước đầu nghe như đă ch́m sâu". Anh hát để tưởng nhớ bạn bè nhưng không biết rằng bạn bè anh đang lần lượt bỏ anh đi. Hàng phượng dọc bờ sông đă bắt đầu nở rộ nhưng không c̣n để "ḷng man mác buồn" nhưng là chia tay vĩnh viễn, nát tan.
Nước sông Hàn lững lờ trôi mang theo dăm chiếc lá. Hai đứa ngồi im lặng, không biết phải nói ǵ. Nói ǵ rồi cũng chia tay. Em đơn giản, hồn nhiên và ngây thơ đến tội nghiệp. Em sẽ chẳng thể nào hiểu được tôi, và tôi cũng chẳng biết giải thích thế nào cho em hiểu. Trái đất của em nhỏ nhoi, bao bọc bởi những rặng tre xanh hiền ḥa. Tâm hồn em là gịng sông mùa thu êm đềm, tĩnh lặng. Tâm hồn tôi hoàn toàn tương phản, trùng điệp núi đèo, ghềnh thác. Tôi sinh ra trong cuộc đời này để gánh hết khổ đau, để làm tên du mục đi lang thang trên chính quê hương ḿnh. Ngày mai, tôi lại sẽ bắt đầu hành tŕnh du mục mới. Con nước trôi c̣n biết ḿnh đang ra biển. Chiếc lá rơi c̣n biết cội quay về, nhưng tôi không biết sẽ về đâu.
Bao nhiêu năm rồi tôi chưa về Đà Nẵng. Cô tôi đă qua đời. Bạn bè mỗi người một ngă. Cô bé ngày xưa đă có gia đ́nh. Khuôn mặt thành phố mang nhiều thay đổi. Đà Nẵng thân yêu ơi, có c̣n nhớ đến tôi không? Căn gác đường Hùng Vương, căn nhà lá phía trong Ngă Ba Huế, cồn cát trắng ở Mân Quang, nơi tôi chôn dấu kho tàng tuổi thơ khốn khổ của ḿnh, biết có c̣n nhận ra tôi, cho dù tôi trở lại. Đêm nay, tôi ngồi đây, tưởng tượng một ngày về Đà Nẵng.
Và biết đâu, nhờ chưa về mà thành phố c̣n nguyên vẹn trong trái tim tôi. Nếu tôi về thăm, Đà Nẵng chắc sẽ không c̣n nữa. Hăy ngủ yên Đà Nẵng của tôi ơi.
Trần Trung Đạo
(Trích trong tác phẩm Tâm Bút Trần Trung Đạo)
Bài vở cũ 2016
Bài vở cũ 2015
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tears of pride
We remember
Con chim biển
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Điệu Boléro thăng tiến nhờ các anh lính VNCH
Món quà Giáng Sinh
A special Christmas memory
Cũng chưa muộn màng
Qui Nhơn, B́nh Định trong thơ người lính Trần Hoài Thư
Hành trang trên tuyền đường về
Điều ǵ khiến Đan Mạch trở thành quốc gia
hạnh phúc..
Định mệnh
Chín...
chín... chín... nhưng chưa rục
Ái hữu & hậu duệ Khóa 5 V́ Dân TĐ họp mặt
Đoạn trường
Tuyết Nga....
Nỗi uất hận của vị Tướng mất nước
Ta về
Nấm
ngọc hương thiền
Giấc mơ
Đại Dương (Ocean Dream)
Hẻm lính
Cho ngàn sau lơ lửng với ngàn xưa
Mây vẫn c̣n bay
Buồn vui quân trường
Trần Hoài Thư & Thủ Đức gọi ta về
Ngày tháng buồn hiu
Những mùa Trung Thu
Để
lâu, c… trâu hóa bùn
Người Pleiku năm cũ
Mối bận
tâm xă hội
Quê hương của tôi
Đằng trước và đằng sau
Mấy
mánh lừa mới tại Quận Cam
Hồi kư
của Vương Mộng Long
Làng Việt
kiều
Viết cho
ngày lên tám… mươi
Tôi người Mỹ, vợ tôi người Việt
Trả nợ ân
t́nh
Đói
Đà Lạt sương mù: Năm tháng ngao du
Người cao
tuổi
Chuyện tù của Phó Tổng Thanh Tra NHQG VNCH
Những
bàn tay đă nắm
Cái lon
Guigoz
Thằng khùng
Một nụ cười
Hai cô thôn
nữ
Chiến
thắng Xuân Lộc: QLVNCH vẫn ngạo nghễ
dù bị bức tử
Con cọn
nợ ba
Truyện
ngắn Ư Nga
Không quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Phải
chăng là định mệnh
Con
gái Hà Nội ở đâu?
Trai Petrus Kư,
Gái Gia Long & Trai Chu Văn An, Gái Trưng Vương
Đoản văn của một người tử trận
Người Việt
gốc Mỹ
Trời buồn
tháng hạ
Dân chơi cầu 4 cẳng
Đất nước vĩ đại và lạ lùng !
Câu chuyện người lính VNCH
Chàng... Donald Trump
Trần Hoài Thư, người ngồi vá lại những linh
hồn
Người đàn bà trên cầu Nitelva
Thư số 67c - Gửi người lính QĐND
Nói chơi mà không phải nói giỡn
Mẹ
Chôn súng
Đứa con thất lạc
Tháng Tư
nhớ về các chiến sĩ đă hy sinh oanh liệt
Phúc ấm con
ban !!!
Formosa với nỗi buồn Tháng Tư
Một ngôi sao
quư vừa tắt
Không quên ngày Quốc Hận 30 tháng 4 – 1975
Sau 42
năm mất SaiGon
Nghĩ về
người vợ lính
Chân
dung người vợ lính VNCH
Tôi không
chết đâu
Tháng tư đen, không dễ ǵ quên
Câu
chuyện về đôi đũa
Những
ngày tháng ba
Những
ngày tháng tư
Tâm thư -
Những ngày cuối tháng 4
Nguyễn Đức
Quang, khi bài hát trở về
Hăy ngủ yên Đà
Nẵng của tôi ơi
Ngày 29-3-1975: Đà Nẵng trong cơn hấp hối
Nh́n lại ḿnh sau
42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đờn ca tài tử miền
tây
Nói với người trung
đội trưởng cũ ...
Đồi Delta
Những bước chân vào đời
Bao giờ cho tôi quên
Vài kỷ
niệm về Tết trong tù Hà Nội
Mùa
xuân trên quê hương ngoài kư ức
Xin một đời góa bụa cùng anh
Đón xuân này nhờ
xuân xưa
Nằm đêm nghe
tiếng rao hàng
Như vằng trăng
khuya
Góc tối
Cho nhuẩn nhuyễn ra
Người bạn Khóa 2 Học Viện Cảng Sát Quốc Gia
Chúc
Tết
Đầu năm viết cho con gái
Bên nhau đi nốt cuộc đời