Steven Dieu
LTS: Trong tuổi thiếu niên Steven Dieu vượt biển một ḿnh. Đến
Hoa Kỳ, thân tự lập thân, gian khổ trăm bề tốt nghiệp Luật sư.
LS Steven Dieu hiện làm việc trong văn pḥng Biện Lư của Quận Harris
County. Ông thường góp mặt trên đài truyền h́nh Việt ngữ trong các
buổi hội thọai liên quan về các đề tài Chính trị hoặc Sinh họat
trong Cộng Đồng NVQG Houston .
30 tháng 4 hàng năm, một ngày như mọi ngày. Nhưng với những người
Việt tị nạn Cộng Sản, nó là một ngày lịch sử và gợi lên một tâm
trạng khó quên. Tháng Tư về, người Việt, trong và ngoài nước, nếu
không vô cảm đều khó tránh việc ôn lại quá khứ và chia xẻ ưu tư về
tương lai của đất nước và dân tộc Việt Nam .
Tôi thuộc mẫu người hay suy tư, nghĩ ngợi và viết trong thanh tịnh
của màn đêm. Suốt hai đêm qua, ngồi một ḿnh uể oải trước máy
computer. Tâm tư trầm lắng. Tối nay, ngoài trời lại vừa đổ mưa.
Trong đêm khuya thanh vắng, tôi ngồi nghe tiếng mưa rơi rào rạt trên
nóc nhà và chảy xuống từ máng xối. Ngả lưng vào ghế, đôi mắt nh́n
đăm đăm vào mặt đồng hồ trên tường, miên man trầm tưởng, tôi cảm
thấy buồn rười rượi. Không hay đă gần hai giờ khuya rồi! Măi đeo
đuổi một ư nghĩ: ngót bốn mươi năm xa vời vợi! Trong nửa đêm khuya,
c̣n tôi th́ đang ở nửa khoảng của đời người. Hai đêm nay, trong bâng
khuâng, tôi bắt đầu góp nhặt lại một chuỗi dĩ văng nằm rời rạc và
ngổn ngang trong kư ức, để đi t́m một điều ǵ đó mà chính tôi cũng
không biết. Ngước mắt lên trần nhà, tâm hồn tôi trôi lang thang
không mục đích, như con thuyền trôi dạt trên biển cả không bờ bến…
Tôi sinh ra và lớn lên trong thời chiến lẫn thời b́nh. Như một động
cơ vô h́nh, chiến tranh và ḥa b́nh thúc đẩy tôi phải lớn lên một
cách vội vă. Chiến tranh Việt Nam đă kết thúc được 40 năm, và những
tàn tích của cuộc chiến cũng dần dần biến mất theo thời gian. Tuy
nhiên, những kư ức đau thương của thời hậu chiến, cấu tạo bởi xương
máu, nước mắt và sinh mạng th́ không thể nào xoá bỏ được khỏi năo
trạng của tôi cũng như hàng triệu người Việt tị nạn Cộng Sản.
Tôi bước chân lên đất Hoa Kỳ vào một mùa Đông giá lạnh rét buốt.
Người tôi bỡ ngỡ, ḷng tôi xôn xao một niềm vui trong hoang mang vô
định và một nỗi buồn khó tả. Sau nhiều ngày tháng trong trại tị nạn,
trước mắt tôi bây giờ là một thế giới hoàn toàn xa lạ. Lúc đó, tôi
ngẫm nghĩ, không hiểu tại sao ḿnh c̣n sống b́nh yên được đến ngày
hôm nay. Tôi tự nhủ với ḿnh là phải quên đi quá khứ, chú tâm học
hành và xây dựng tương lai.
Những năm đầu trên xứ Mỹ, tôi không đi t́m dĩ văng, nhưng dĩ văng
đau buồn vẫn cứ lẩn quẩn bên tôi, như bóng với h́nh. Khi màn đêm sụp
xuống và ánh đèn vàng bật lên, “bóng” lại về với tôi. Tôi mới hiểu
là không cách nào tách rời nó được. Vứt bỏ nó tức là vứt bỏ tôi! Bởi
v́, tôi là nhân chứng, là thuyền nhân trên con tàu dĩ văng. Nhiều
đêm, kư ức tự nó xoay ḿnh, tôi trở thành cái “bóng”, và “bóng” lôi
cuốn tôi vào cơn ác mộng.
Đời người tị nạn phần nhiều là buồn và khổ. Trên nỗi buồn tha hương
lại chồng chất thêm nhiều kỷ niệm đau khổ trong cuộc sống trên xứ
người. Một mùa đông lạnh buốt đi qua, lại thêm nhiều mùa đông rét
buốt tiếp đến. Ngày nọ rồi tới ngày kia, kư ức đau buồn dần dần cũng
phai nhạt theo bụi thời gian. Tôi cứ nghĩ ḿnh đă quên dĩ văng từ
lâu, nhưng rồi bất chợt, 30 tháng Tư về, quá khứ đau thương cũng đua
nhau ùa về, như vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tim tôi quặn thắt lại.
Cho dù sau 40 năm, thỉnh thoảng dĩ văng len lỏi vào giấc ngủ, trong
yên lặng của màn đêm, khóe mắt tôi, bỗng dưng thoáng nồng cay. Đây
không phải là giọt nước mắt của đau thương, lại càng không phải là
nước mắt của hận thù.
Tại sao ta không bỏ nước ra đi trong thời chiến tranh, mà lại trốn
chạy trong thời ḥa b́nh, thống nhất? Có người hỏi.
Tôi không phải là nạn nhân của chiến tranh. Tôi, cũng như hàng triệu
người dân miền Nam , là nạn nhân của một chế độ độc tài. Là nạn nhân
của những chính sách hà khắc, đầy hận thù, băng hoại đạo đức, và tàn
nhẫn vô nhân đạo dưới ách thống trị của đảng Cộng Sản Việt Nam .
Như một cơn gió lốc, sự kết thúc bất ngờ của cuộc chiến, chẳng những
không hàn gắn lại được vết thương “huynh đệ tương tàn”, mà c̣n tạo
ra thêm những bi kịch đau thương trong thời hậu chiến. Ḥa b́nh và
thống nhất, trong bối cảnh miền Nam Việt Nam , c̣n tồi tệ hơn thời
chiến tranh. 40 năm đă qua, những vết thương vẫn c̣n đó. Về phương
diện tâm thần, dấu tích đau buồn của thời ḥa b́nh không chỉ ở một
mà tới hai hay ba thế hệ. Trong ḥa b́nh và thống nhất, nhà cầm
quyền Cộng sản đă xoá đi sinh mạng của trên 1 triệu người, đưa đến
thảm cảnh hàng triệu gia đ́nh ly tán, hàng trăm ngàn trẻ em mồ côi
cha lẫn mẹ, và hàng trăm ngàn nạn nhân chôn xác giữa biển Đông.
Nạn nhân của biển Đông? Họ là những người mất nước, mất luôn cả tên
tuổi và lư lịch. Thế giới đă đặt cho họ tên ‘Boat People’
(ThuyềnNhân)!
Nghĩa trang là nơi chúng ta chôn cất người ‘đă chết’, là “nơi an
nghỉ” cuối cùng. Nhưng.., “Thuyền Nhân” Việt Nam đă biến Biển Đông
thành nghĩa trang, một nghĩa trang “chôn sống” hàng trăm ngàn thuyền
nhân vô tội, một nơi “an nghỉ” lớn nhất trên thế giới cho những
Thuyền Nhân không đến được bờ đất tự do. Một sự kiện lịch sử cho cả
thế giới, mà chế độ Cộng Sản Việt Nam tránh né, không nhận trách
nhiệm.
Chúng ta đă đạt được ǵ? Dân tộc Việt Nam cho đến nay vẫn không có
tự do và dân chủ! Giai cấp “tư bản” vẫn c̣n đó! Tư bản của chế độ
Việt Nam Cộng Hoà được thay thế bằng giai cấp “tư bản đỏ”, mà những
“đại gia” chính là đảng viên quan tham già nua của Đảng Cộng sản!
Người dân “bần cố nông” vẫn c̣n đó! Đất nước Việt Nam vẫn nghèo nàn,
dân trí vẫn thấp kém. Người dân vẫn bị áp bức và bóc lột, tham nhũng
lan tràn khắp nơi trong nước, tệ hại hơn gấp trăm lần so với chế độ
Việt Nam Cộng Hoà trước đây. Đất nước thống nhất, dân tộc Việt bị
xiết chặt bởi cái “gọng kềm” của chế độ độc tài Cộng sản. Chế độ
Cộng sản đă mất đi cái “chánh nghĩa” mà bọn chúng đă cố ngụy tạo khi
xâm chiếm miền Nam .
Từ thập niên 2000, một xu hướng kêu gọi người Việt hải ngoại nên
“khép lại quá khứ” và “ḥa hợp, ḥa giải dân tộc”. Trước đó, đă có
một khẩu hiệu tương tự: “xoá bỏ hận thù, hướng đến tương lai”. Tư
tưởng nầy xuất sứ từ trong nước, trở thành một chánh sách của đảng
Cộng sản và nhà nước Việt Nam , và năm 2004, trở thành Nghị Quyết
36.
Trong khi đảng Cộng sản kêu gọi “Việt kiều” hăy “xoá bỏ hận thù”,
th́ chính họ lại bóp méo và phô trương quá khứ. Trong suốt 40 năm
qua, nhà cầm quyền Cộng sản thống trị với một “chánh sách nhồi sọ”.
Họ bắt buộc người dân phải ăn mừng cuộc chiến thắng chống Mỹ cứu
nước, tôn sùng bác Hồ vĩ đại, ca ngợi sự lănh đạo sáng suốt của
Đảng, liên tục không ngừng nghỉ: từ tiểu học đến đại học, trong
những buổi tối “học tập chính trị” tại phường khóm, trong các buổi
biểu diễn văn nghệ, trong các cuộc triển lăm, trong nghệ thuật phim
ảnh, và trong ngành truyền thông báo chí. Thậm chí, những bài hát ca
tụng Hồ Chí Minh, vinh danh Đảng được hát đi hát lại mỗi ngày qua
những cái loa phóng thanh đặt tại những góc đường, những vở kịch,
những cuốn phim về lịch sử chống Mỹ cứu nước cũng được chiếu đi
chiếu lại hàng tuần.
Vâng, chúng ta có thể khép lại quá khứ đau thương, nhưng không có
nghĩa là quên nó đi. Nhớ đến quá khứ đau thương không phải để nuôi
dưỡng hận thù, mà để tránh lặp lại những sai lầm đă xảy ra, và cũng
để nhận thức được nguồn gốc của ḿnh: “người Việt tị nạn Cộng Sản”.
Nếu chúng ta quên đi quá khứ th́ chẳng khác ǵ quên đi sự hy sinh
của những Quân, Dân, Cán, Chính và các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà,
của cha mẹ, của người thân, và của anh em đồng đội. Quá khứ là một
phần của cuộc đời, là nền tảng tạo thành ngày hôm nay. Có quá khứ
th́ mới có ngày hôm nay. Cho nên, dù dĩ văng đầy đau thương th́ cũng
phải biết quư trọng nó, v́ đó là một phần trong cuộc sống của mỗi
người mà không ai có thể chối bỏ và thay đổi được.
Chủ nghĩa Cộng sản đă sụp đổ trên 25 năm. Ngay cả tầng lớp đảng viên
già nua, và đảng viên lănh đạo của Đảng Cộng sản Nhà nước Việt Nam
cũng đă vứt bỏ lư tưởng Cộng sản từ lâu. Nhưng bề ngoài, họ phải bám
vào nó, như bám vào một thây ma, để tồn tại, bảo vệ nó để biện minh
cho quyền lực và sự thống trị của họ. Những hành động: chuyển tài
sản, cho con cháu du học, đi trị bệnh, đầu tư ở những nước tự do đă
cho chúng ta thấy rơ điều này.
Nh́n lại quá khứ, chúng ta ngẫm nghĩ đến tương lai. Có một kế hoạch
hoặc đường lối nào sớm đem lại dân chủ và tự do cho đất nước và
người dân Việt Nam ? Kế hoạch? Tôi không có! Nhưng, tôi biết việc ǵ
chúng ta không nên làm. Bởi v́, nếu làm sẽ có ảnh hưởng tai hại đến
những người đang tranh đấu và hy sinh cho một xă hội Việt Nam tự do
và dân chủ.
Tôi không thể chấp nhận ḥa hợp ḥa giải dân tộc một cách mù quáng.
Một chánh sách dựa hoàn toàn trên nền tảng của sự ảo tưởng (mirage)
và lừa bịp. Khuyến khích hoặc hô hào cho ḥa hợp ḥa giải dân tộc là
điều mà chúng ta không nên làm.
Tôi chưa bao giờ có hận thù với đồng bào tôi, nên không đặt “ḥa
giải, ḥa hợp” với đồng bào thành vấn đề. Nếu ai có hận thù, có nợ
máu với dân tộc, th́ hoà giải với dân tộc là điều cần phải làm. Tôi
và đồng bào Việt Nam đều là nạn nhân của chế độ Cộng sản. Tôi may
mắn không c̣n là nạn nhân của chế độ, và trở thành người “tị nạn”.
Ngày nào c̣n chế độ Cộng sản, ngày đó tôi vẫn c̣n “tị nạn”. Ngược
lại, hàng chục triệu đồng bào Việt Nam vẫn c̣n là nạn nhân của chế
độ.
Ḥa giải ở đây là hoà giải giữa nhà nước Cộng sản và dân tộc Việt
Nam , không phải chỉ với người Việt hải ngoại. Hay nói rơ hơn là hoà
giải giữa tập đoàn thống trị độc tài Cộng sản với đồng bào bị trị,
bị Cộng sản trả thù, đàn áp, bịt miệng, tù đày, giết hại, bóc lột,
và cướp của.
Nếu nhà cầm quyền Công sản thật sự muốn ḥa giải với đồng bào, họ đă
thực hiện từ ngày 30 tháng Tư năm 1975. Trong 4 thập niên qua, họ
vẫn chưa ḥa giải với 90 triệu người Việt trong nước, th́ tại sao họ
lại quan tâm muốn ḥa giải với 4 triệu người Việt hải ngoại, nếu
không phải là để khai thác tài chánh và huy động “chất xám” của
“Việt kiều” trong công cuộc đóng góp cho Đảng và Nhà nước? Và tại
sao có một số người Việt và nhiều đảng phái chính trị chống Cộng ở
hải ngoại cũng hô hào ḥa hợp hoà giải, nếu không phải là mưu đồ hay
mưu lợi kinh tài cho cá nhân hay đảng phái của họ?
Trên nguyên tắc, ai đă gây hận thù th́ nên hoà giải với nạn nhân của
họ. Làm sao bắt nạn nhân đến xin ḥa giải với kẻ vẫn c̣n hành hạ
ḿnh? Nếu nhà nước Cộng sản thật sự muốn ḥa giải hận thù với dân
tộc, th́ họ chỉ cần hủy bỏ đảng Cộng sản, trả lại quyền tự do và
nhân quyền cho đồng bào trong nước, trả tự do cho những người tù
nhân lương tâm, những người bất đồng chính kiến: nạn nhân của chế
độ.
Như một gă vũ phu trong gia đ́nh. Nếu hắn ngưng, không đánh đập, bạo
hành với người thân trong gia đ́nh, th́ hạnh phúc và t́nh yêu sẽ tự
động mở rộng bàn tay đón tiếp họ. Những lời lẽ hứa hẹn, xin lỗi đầu
môi cho qua thời gian sẽ không bao giờ hoà giải được bạo hành trong
gia đ́nh. Ngược lại, càng hứa hẹn, càng xin lỗi giả dối, th́ chỉ
càng làm cho nạn nhân ngao ngán bản chất lừa bịp. Chỉ có những hành
động cụ thể mới có thể chứng minh được thiện chí.
Đúng vậy, thiện chí là yếu tố căn bản nhất trong việc ḥa giải. Ḥa
giải dân tộc không chỉ đơn thuần bằng lời nói và cách nói của nhà
nước Cộng sản; họ phải thể hiện tinh thần ḥa hợp hoà giải dân tộc
qua hành động và sự thật tâm. Khi nhà nước Cộng sản thật sự hoà giải
với đồng bào trong nước, quá khứ đau thương của người Việt hải ngoại
sẽ tự động hóa giải theo. Người Việt trên toàn thế giới sẽ hoan
nghênh đón mừng một Việt Nam mới, thật sự tự do và dân chủ.
Thiện chí? Trong 4 thập niên vừa qua, nhà nước Cộng sản có thể gác
bỏ hận thù và tích cực hợp tác với Hoa Kỳ, với Trung Quốc, hai kẻ
thù xâm lấn đất nước, nhưng họ không thể bắt tay với đồng bào Việt
Nam? Họ có thể tích cực giúp Hoa Kỳ t́m kiếm xác và hài cốt của
người lính Hoa Kỳ, tưởng niệm những người lính Trung Quốc đă chết
tại Việt Nam, nhưng họ đă làm ǵ cho những người lính Việt Nam đă
nằm xuống, cho thương phế binh cả hai bên, cho những người đă chết
trong những trại tù cải tạo, và trên biển Đông? Chỉ riêng việc hoà
giải với những người lính Việt Nam Cộng Hoà đă nằm xuống qua việc
cho phép trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội miền Nam ở Biên Ḥa, đi t́m
kiếm và cải táng hài cốt những người đă chết trong các trại tù cải
tạo, 40 năm vẫn c̣n nằm trong thực trạng “ù ĺ”.
Thiện chí? Không lâu sau khi kư Nghị Quyết 36-NQ/TW, ngày 26 tháng
3, 2004, kêu gọi sự đóng góp của “Việt kiều” ở hải ngoại trong “công
cuộc đổi mới và chánh sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà
nước”. Đảng và nhà nước vào tháng 6 năm 2005 đă dùng áp lực kinh tế
và giao thương yêu cầu chính quyền Malaysia và Indonesia đục bỏ hai
tấm bia tưởng niệm những Thuyền Nhân đă bỏ mạng ngoài biển khơi (do
người Việt hải ngoại dựng lên vào dịp 30-4-2005) tại Pulau Bidong và
Galang. Mặt trước của Đài Tưởng Niệm viết: “Để tưởng niệm hàng trăm
ngàn người Việt bỏ mạng trên đường t́m tự do (1975-1996). Mặc dù họ
đă chết v́ đói khát, bị hăm hiếp, v́ kiệt sức hay bất kỳ lư do nào
khác, chúng ta nguyện cầu họ măi măi được b́nh an. Sự hy sinh của họ
sẽ không bao giờ bị lăng quên. Cộng đồng người Việt hải ngoại,
2005”. Hai đài tưởng niệm tại Pulau Bidong và Galang đă bị đục bỏ.
Tấm bia tưởng niệm những thuyền nhân vô tội cũng không được thực
hiện.
Chúng ta có thể dễ dàng đánh giá nhân phẩm và thiện chí của Đảng và
Nhà nước Cộng sản Việt Nam qua cách họ đối xử với những người đă nằm
xuống.
Tại sao với quá khứ đầy đau thương vẫn c̣n đó, những lời hứa hẹn giả
dối, mị dân cho qua thời gian và những chánh sách vô nhân đạo, cũng
như sự tiếp tục đày đọa, áp bức đồng bào vô tội của Đảng và nhà nước
Cộng sản trong quá khứ và hiện tại, trên 60 năm dài, mà vẫn có người
tin theo một cách mù quáng?
Gạt tôi một lần, thật xấu hổ cho anh; gạt tôi hai lần, tôi thật là
xấu hổ! (Fool me once, shame on you; fool me twice, shame on me!)
Steven Dieu, 2015.
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012