Phạm Tín An Ninh
Đơn vị tôi, dù đă tạo được những chiến thắng lẫy lừng trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, để có một “Kontum Kiêu Hùng” và giữ vững được Tây Nguyên, nhưng có chiến thắng nào lại không phải trả giá bằng máu xương chiến sĩ. Để kịp thời đối phó với t́nh h́nh chiến tranh leo thang, ngày một khốc liệt, đơn vị cần được khẩn cấp bổ sung quân số, từ cấp đại đội trưởng cho đến khinh binh. Số lượng sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp ở các quân trường không đủ, nên Bộ TTM phải ban hành kế hoạch “đôn quân”, đưa những quân nhân phục vụ lâu năm từ các tiểu khu, các quân trường, trung tâm huấn luyện, ra bổ sung cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt quân số.
Tháng 5-1973. Thời gian này tôi đang đảm trách một phần hành tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Trong lần đơn vị tiếp nhận một số khá đông sĩ quan và hạ sĩ quan, tôi bất ngờ nhận ra trong số những người đang xếp hàng tŕnh diện ông Trung Đoàn Trưởng có một người bạn học khá thân và một vị giáo sư thời trung học ngày xưa. Thằng bạn mang cấp bậc đại úy – tôi đă biết từ trước, nhưng điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên là ông thầy chỉ mang cấp bậc trung sĩ nhất. Thoáng có một chút ngờ vực, tôi bước tới gần ông hơn để chắc chắn là trí nhớ của ḿnh không tệ lắm.
Chờ thủ tục tŕnh diện xong và sau khi ông Trung Đoàn Trưởng dặn ḍ vài điều cần thiết, tôi chạy đến ôm chầm lấy người bạn và kéo đến gặp ông thầy c̣n đang đứng ngơ ngác trong hàng. Thằng bạn không nhớ ông thầy, có lẽ nó chỉ học với ông một vài tháng ngắn ngủi. Và dường như ông thầy cũng chưa nhận ra tôi, nên vội đứng nghiêm đưa tay lên chào. Tôi kéo cả hai người vào một căn hầm lớn được dùng làm Trung Tâm Hành Quân, nơi tôi đang làm việc.
Đỗ Bê, bạn tôi, quê ở trên Thành – Diên Khánh. Học cùng lớp với tôi những năm đệ nhất cấp bên trường Văn Hóa. Lớn hơn tôi một tuổi, đẹp trai, tính t́nh hiền lành và rất hiếu học. Bê và người bạn cùng quê, anh Phan Ái Minh, cũng là bà con họ hàng, thuê một căn nhà nhỏ ở sau khu đ́nh Phương Sài trọ học. Tôi thường đến đây chơi với Bê, nên sau này cũng trở nên thân thiết với Minh. Sau khi đỗ trung học, Bê và tôi cùng vào đệ tam trường Vơ Tánh. Bê học Ban A c̣n tôi Ban C. Phan Ái Minh th́ học ở đây từ trước và trên bọn tôi một lớp. Sau này, cả ba thằng đều đi lính. Phan Ái Minh vào Khóa 20 trường Vơ Bị Đà Lạt, c̣n Bê và tôi vào Thủ Đức. Minh nhập học Vơ Bị trước một năm nhưng ra trường sau tôi sáu tháng. Ra trường Minh được bổ sung về cùng trung đoàn với tôi, nhưng khác tiểu đoàn. Một tháng sau, khi tôi c̣n đang hành quân trên Lâm Đồng th́ nghe Minh tử trận ở Lạc An. Hai đứa đă hẹn nhau trong hệ thống vô tuyến, để rồi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại.
Đỗ Bê vào Thủ Đức sau tôi một khóa. Ra trường được bổ sung về làm huấn luyện viên tại Trung Tấm Huấn Luyện Lam Sơn – Dục Mỹ. Sau đó, tôi chỉ gặp Bê một lần duy nhất vào cuối năm 1970, khi bạn t́m đến thăm tôi đang nằm điều trị vết thương tại Quân y Viện Nguyễn Huệ, mang cho tôi ít đồ dùng, một xâu nem Ninh Ḥa và mấy lon bia. Bê d́u tôi ra chiếc ghế đá phía sân sau, vừa uống bia vừa nghe tôi kể chuyện chiến trường. Thấy tôi hành quân vất vả, bị thương mấy lần, nó an ủi, bảo là số nó nhiều may mắn hơn tôi.
Thầy tôi, giáo sư Hồ Đắc Huế, là ông thầy đầu tiên khi tôi bắt đầu bậc trung học. Năm 1958 tôi thi rớt vào lớp đệ thất trường công lập Vơ Tánh. Ngôi trường nổi tiếng vùng duyên hải miền Trung. Buồn và xấu hổ với đám bạn bè cùng quê, nhất là hối hận v́ đă làm cha tôi thất vọng. Thời ấy ở quê tôi chưa có trường trung học nào. Chưa biết phải làm ǵ th́ một buổi chiều, sau khi đi làm về, cha tôi cho biết có một giáo sư từ trường trung học Bồ Đề Nha Trang ra Vạn Giă, quê tôi, mở trung học tư (cũng mang tên Bồ Đề), nhưng trước khi niên học bắt đầu vào mùa thu, ông sẽ mở một khóa Hè đặc biệt dành cho các học sinh trung học. Điều đặc biệt bất ngờ hơn, cha tôi bảo là thời gian đầu ông sẽ trọ ở nhà tôi, v́ chưa t́m được nhà để thuê. Ông tên Huế và cũng là người gốc Huế, bà con họ hàng với người bạn thân của cha tôi ở Nha Trang, cũng là một ông thầy giáo gốc Huế khác. Chính ông giới thiệu thầy và nhờ cha tôi giúp.
Không biết là thầy có những bằng cấp ǵ, nhưng ông dạy rất nhiều môn, từ Việt Văn, Pháp Văn đến Toán, Lư Hóa. Môn nào thầy dạy cũng hay, đặc biệt thầy nói tiếng Pháp nghe cứ như Tây. Sau này tôi mới biết là thầy từng du học ở Pháp. Nghe tiếng của thầy, học tṛ kéo đến học rất đông. Học phí thấp. Biết đứa nào nhà nghèo thầy chỉ lấy tượng trưng.
Thầy khá đẹp trai, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt thật buồn. Trông thầy có dáng dấp một nghệ sĩ hơn là ông thầy giáo. Có hai điều giống cha tôi là thầy rất thích đánh cờ tướng và hút thuốc liên tục. Dường như lúc nào tôi cũng thấy có điếu thuốc trên tay thầy. Và cả hai người đều hút Bastos xanh. Cứ mỗi lần tôi đi mua thuốc cho cha tôi th́ thầy nhờ mua thêm cho thầy mấy gói. Cha tôi dành cho thầy căn pḥng lớn nhất trong nhà, có cửa ra vườn sau. Khu vườn nhỏ chỉ trồng mấy cây cam và một ṿm hoa giấy. Có lẽ lúc ấy tôi c̣n con nít, nên thầy chỉ thường ngồi đánh cờ và tâm t́nh với cha tôi. Nhưng buổi tối, những lúc thầy ngồi đàn hát phía sau vườn, tôi được thầy gọi cho ngồi nghe và bảo tôi “chấm điểm những bài hát của thầy”. Thầy hát rất hay những bài do chính thầy sáng tác, hoặc phổ từ những bài thơ của thầy. Hầu hết là những bản nhạc buồn. Giọng trầm và tha thiết. Thầy nh́n vào xa xăm và hát như là đang trút tâm sự cùng ai đó chứ không phải cho tôi nghe. Ban đầu tôi cứ tưởng tôi là thính giả duy nhất của thầy, nhưng sau này tôi mới bất ngờ khám phá một điều, có một người đàn bà trẻ thường xuất hiện sau vườn nhà tôi, phía bên kia hàng rào dâm bụt, trong những đêm thầy ngồi đàn hát.
Không biết là v́ đẹp trai hay hát hay, mà thầy đă làm xiêu ḷng người góa phụ trẻ có nhan sắc. Tôi biết chắc điều này, v́ bà đă “hối lộ” tôi mấy lần để đưa cho thầy mấy bài thơ, và dặn ḍ tôi không được cho ai biết, kể cả cha tôi. Nghe nói bà là vợ của một ông cán sự Nông Lâm Súc làm việc ở Hiệp Hội Nông Dân, bị tử nạn giao thông trên Đèo Cả, chỉ sau một tháng làm đám cưới. Bà là cô giáo dạy trường huyện, ở xa tới, h́nh như là Phan Rang hay Đà Lạt ǵ đó, thuê nhà phía sau nhà tôi. Thỉnh thoảng tôi thấy có mấy ông thầy giáo trẻ đồng nghiệp và cả mấy ông Hiến Binh mũ đỏ lai văng trước nhà bà.
Một hôm thầy đột ngột dọn ra khỏi nhà tôi, sau
khi nói chuyện với ba tôi. Thầy sang tá túc bên hông chùa, nằm ngay
phía sau trường Bồ Đề, lúc ấy chỉ có ba pḥng học. Cha tôi ngạc
nhiên, v́ trước đây thầy cho biết thầy ăn mặn và sống hơi phóng
túng, ngại làm phiền nhà chùa nên mới đến trọ ở nhà tôi. Sau khi tôi
tiết lộ chuyện những bài thơ của người đàn bà trẻ phía sau nhà, cha
tôi tṛn mắt rồi gật đầu bảo có lẽ đó chính là lư do thầy dọn đi.
Trong những lúc tâm t́nh, thầy thường nói với cha tôi, thầy rất sợ
đàn bà.
Măn khóa Hè, thầy ghé lại nhà tôi, thăm và cám ơn cha tôi. Thầy khen
tôi học khá, đề nghị nên cho tôi học đệ lục thay v́ đệ thất. Hơn nữa
tuổi tôi cũng hơi cao. Cuối cùng trước khi chia tay, thầy cho biết
là sẽ rời quê tôi về lại Nha Trang, và có thầy Trần Đức Trang, một
vị giáo sư lớn tuổi, có kinh nghiệm về tổ chức và hành chánh, ra
thay thế thầy để thành lập và làm hiệu trưởng trường Bồ Đề Vạn Ninh,
nhưng không phải bắt đầu từ niên khóa này mà phải chờ đến niên khóa
tới, v́ các thủ tục chưa hoàn tất kịp. Do đó, tôi phải khăn gói vào
Nha Trang. Và theo sự khuyến khích của thầy, thay v́ bắt đầu lớp đệ
thất, tôi vào học lớp đệ lục trường Văn Hóa, ngôi trường tư thục mới
mở ở đầu đường Quốc Lộ 1, gần nhà chú tôi, nơi tôi trọ học.
Bẵng một thời gian hơn hai năm tôi không gặp thầy, mặc dù nhiều lần lên trường Bồ Đề Nha Trang hỏi thăm thầy, nhưng không ai biết. Có người bảo thầy đă về Huế, có người lại bảo đang dạy ở Sài G̣n. Bỗng một hôm tôi bất ngờ thấy thầy xuất hiện trong văn pḥng trường Văn Hóa, nơi tôi đang theo học. Gặp lại nhau, thầy tṛ mừng lắm. Thầy bảo từ Sài G̣n mới về lại Nha Trang và sẽ dạy môn Sử Địa cho các lớp đệ tứ và đệ nhị, thay cho thầy Nguyễn Mậu, vừa đắc cử vào Hạ Nghị Viện. Tôi nhảy cỡn lên vui mừng, v́ tôi đang học lớp đệ tứ, sẽ được học với thầy. Thầy chỉ cho tôi đường đến nhà thầy và bảo cuối tuần ghé lại chơi. Thầy thuê một căn nhà nhỏ trong con hẻm lớn, phía trước trường đi xuống Rộc Rau Muống. Ngôi nhà khá xinh xắn, khang trang. Khu vườn nhỏ phía sau trồng đầy hoa cúc và một hàng rào phủ kín hoa ti-gôn.
Một ngày cuối tuần tôi đến thăm thầy, bất ngờ gặp một chị bạn cùng lớp đang ngồi đánh cờ tướng với thầy. Chị bạn mới vào học năm đệ tứ, cũng gốc Huế, là một người con gái đẹp, nhưng lúc nào cũng u buồn, nhất là đôi mắt. Chị có vẻ lớn tuổi hơn bọn tôi. Trong lớp thường ngồi im lặng, không thân thiết và đùa giỡn với bất cứ ai, kể cả nữ sinh, nhưng ai cũng quư chị. Tôi ngồi xem ba ván cờ. Không biết thầy có nhường hay không nhưng chị bạn tôi thắng cả ba bàn. Lần đầu tiên tôi biết có một người con gái giỏi cờ tướng như vậy. Và cũng lần đầu tiên tôi thấy được nụ cười của chị. Lần sau đến thăm thầy, tôi lại gặp chị, đang ngồi hát cho thầy đệm đàn. Khung cảnh thật lăng mạn. Hết bản nhạc, thầy đứng lên treo cây đàn trên vách, đi lấy thêm một cái tách nhỏ, mời tôi cùng ngồi uống trà. Loại trà Huế có mùi thơm rất đặc biệt. Trông hai người khá tâm đắc. Tôi ái ngại khi phải xen vào cái không khí yên ả và t́nh tự của hai người, nên viện nhiều lư do để không đến thăm thầy nữa.
Khoảng hơn một tháng sau, chị bạn nghỉ học. Chúng tôi đọc trên báo mới biết chị vừa đóng vai chính một cuốn phim khá nổi tiếng. Nghe nói, khi thực hiện bộ phim này, ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa không t́m được tài tử nào thich hợp để thủ vai chính. Một hôm ghé lại Nha Trang, lang thang một ḿnh trên băi biển, bất chợt ông bắt gặp ánh mắt u buồn của một cô con gái đang ngồi một ḿnh nh́n về cơi xa xăm, tĩnh lặng và đẹp như một bức tượng, không hề biết có ông đang đứng thật gần. Ông lặng yên khá lâu rồi xin phép được nói chuyện. Cô con gái lưỡng lự, gật đầu. Ông đạo diễn đă t́m được một người lư tưởng để thủ vai chính cho cuốn phim đắc ư của ḿnh. Cuốn phim nói về một cuộc t́nh buồn, có nhiều cảnh đóng ở Nha Trang. Ông đạo diễn muốn thực hiện một bộ phim để kỷ niệm nơi ông đă sinh ra, mặc dù sau đó ông đă sống những ngày tuổi thơ và lớn lên ở Huế.
Bộ phim đă làm cho khán giả tốn nhiều nước mắt, qua khuôn mặt xinh xắn và đôi mắt u buồn rất thật của cô gái Huế thủ vai chính. Bộ phim thu nhiều lợi nhuận cho đạo diễn và nhà sản xuất. Nhưng người thủ vai chính không bao giờ c̣n xuất hiện. Cô đă uống thuốc độc quyên sinh. Hôm đám tang, thầy Huế dẫn cả lớp đệ tứ chúng tôi theo sau quan tài tiễn đưa chị về cơi vô cùng. Đám tang thật buồn. Thầy Huế mang kính đen, nhưng tôi có cảm giác phía trong đôi kính ấy đong đầy nước mắt. Báo chí có đề cập đến cái chết của chị, người “tài tử” bất đắc dĩ rất tuyệt vời này, nhưng không ai biết chính xác lư do v́ sao chị phải t́m cái chết, ngoài những tin đồn.
Một lần nữa, thầy bỗng dưng biến mất. Không ai gặp thầy ở Nha Trang. Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Bá Mậu, chuyên dạy Pháp văn, phải tạm thời thay thầy, dạy môn Sử Địa lớp tôi để kịp kỳ thi trung học. Và cũng từ hôm ấy tôi không biết tin tức ǵ về thầy Huế, và trong ḷng cứ măi băn khoăn bao điều không hiểu được, về thầy.
Hôm nay, ở một nơi chẳng một ai muốn hẹn, tôi bất ngờ gặp thầy. Thầy lại mang đến cho tôi thêm một điều khó hiểu: tại sao thầy chỉ là trung sĩ 1? Tôi khui hộp bánh trong khẩu phần lương khô (Ration C) và làm ba ly cà phê “dă chiến” mời thầy Huế và bạn Đỗ Bê uống mừng cuộc trùng phùng. Nghe thầy cứ gọi thưa chúng tôi bằng cấp bậc, tôi ôm vai thầy:
– Bất cứ trong hoàn cảnh nào, hai thằng chúng em
cũng luôn là học tṛ của thầy. Xin thầy cứ gọi chúng em là em như
thưở nào, chỉ ngoại trừ khi phải đứng trước hàng quân. Trong cảnh
dầu sôi lửa bỏng này, em rất thèm được nghe có người gọi ḿnh là em.
Thầy nở nụ cười rồi lưỡng lự gật đầu. Lâu lắm gặp lại nhau, có bao
nhiêu điều muốn hỏi, nhưng thấy ánh mắt lo lắng của hai người khi
nh́n ra khung cảnh đổ nát chung quanh c̣n ngổn ngang các xác xe tăng
bị cháy, tôi chỉ hỏi thăm sức khỏe và gia đ́nh. Điều thắc mắc nhất
là cái lon trung sĩ 1 của thầy, nhưng việc này khá tế nhị nên tôi
cũng không dám hỏi. Thầy bảo thầy thuộc quân số Tiểu khu Tuyên Đức
hơn năm năm nay nhưng may mắn được nằm trong toán phụ trách trông
coi các biệt điện của Vua Bảo Đại để lại ở Đà Lạt. Có lệnh đôn quân,
cần 20 hạ sĩ quan bổ sung gấp cho Sư Đoàn 23, tất cả hạ sĩ quan đều
phải bắt thăm. Ông là một trong số 20 người “không may mắn” đó. Tôi
bảo sẽ cố gắng giúp hai người bằng tất cả khả năng của ḿnh. Thầy
Huế th́ dễ dàng hơn để xin sắp xếp vào một ban tham mưu nào đó ở Bộ
Chỉ Huy Trung Đoàn, c̣n bạn Đỗ Bê với cấp bậc Đại úy, rất khó, hơn
nữa theo lệnh ông Tư Lệnh Sư Đoàn, phải bổ sung tất cả sĩ quan cho
các tiểu đoàn tác chiến, mặc dù Bê chưa có một kinh nghiệm chiến
trường nào.
Tôi nhớ tới khả năng làm thơ, soạn nhạc và đàn hát của thầy Huế ngày xưa, nên đi gặp anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT xin anh nhận thầy về làm việc với anh. Tôi cũng giới thiệu với anh, ông là thầy cũ rất đáng kính của tôi thời trung học. Nể t́nh quen biết, anh Thiếu tá theo tôi đến Ban Quân số, xin nhận Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế về Khối CTCT. Thầy nắm tay tôi ái ngại, bảo là không muốn làm phiền tôi, và cũng không muốn người chỉ huy nghĩ là thầy nhờ tôi gởi gấm. Tôi ôm vai thầy bảo là khả năng của thầy rất xứng đáng để làm việc ở Khối CTCT. Sau này, thầy cho biết là anh Thiếu Tá Trưởng Khối đối xử rất tốt với thầy. Tôi không nhận thầy về làm việc với tôi, v́ muốn tránh gây sự khó chịu cho thầy và cả cho tôi.
Người bạn Đỗ Bê th́ được bổ sung về Tiểu Đoàn 1. Tôi gặp ông Trung Đoàn Trưởng tŕnh bày trường hợp Đỗ Bê, là bạn học và từ khi ra trường Thủ Đức, anh chưa giữ chức vụ tác chiến bao giờ nên đề nghị không đưa Bê ra làm đại đội trưởng tác chiến, mà nắm đại đội chỉ huy của Tiểu Đoàn 1, đang khiếm khuyết, để có thời gian làm quen với chiến trận.
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 là Thiếu Tá Phan Văn Khánh, từ binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt (giải tán) mới thuyên chuyển về. Anh Khánh tốt nghiệp Khóa 12 VBĐL, nhưng v́ phục vụ trong Liên Đoàn Pḥng Vệ Phủ Tổng Thống, thời chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, dưới quyền Đại tá Lê Quang Tung, nên sau ngày 1.11.63, anh bị đám tướng tá đảo chánh bắt giam, và sau này c̣n gặp nhiều rắc rối. Khi mới về Trung Đoàn, anh tạm thời ở Bộ Chỉ Huy, chưa được giữ chức vụ ǵ. Biết anh là một niên trưởng, rất tư cách, lại có gia đ́nh ở Nha Trang, nên tôi rất kính trọng và thân thiết. Tôi giới thiệu Bê với anh và nhờ anh giúp đỡ, chỉ vẽ cho Bê thời gian đầu ở đơn vị tác chiến. Chỉ hai tháng sau, anh Khánh cho biết Bê rất tư cách, sớm thích nghi, can đảm và có khả năng lănh đạo chỉ huy, nên anh đă đề nghị đưa Bê lên làm tiểu đoàn phó thay cho người tiền nhiệm vừa bị trọng thương v́ đạn pháo kích của địch. Hơn nữa, so với các đại đội trưởng, Bê có cấp bậc thâm niên nhất. Sau cuộc hành quân, khi Tiểu Đoàn về dưỡng quân tại khu Phương Ḥa, bên bờ sông Dakbla, tôi ghé lại thăm Bê, mừng và khen nó. Tôi mời anh Khánh và Bê ra tiệm Thiên Nam Phúc ăn thịt rừng uống rượu.
Thầy Huế được đề cử làm Trưởng Ban Văn Nghệ kiêm Hạ Sĩ Quan Tâm Lư Chiến. Trong hoàn cảnh này, thầy có vẻ tạm hài ḷng với công việc. Tôi thường đến thăm và đón thầy đi uống cà phê mỗi khi có dịp về phố Kontum. Trong tâm t́nh, tôi được biết thầy vẫn c̣n độc thân, và sau khi rời khỏi Nha Trang thầy về Sài G̣n, dạy một vài trường trung học tư và một số giờ Pháp Văn ở Đại Học Vạn Hạnh.
Nhắc tới chị bạn cùng lớp xinh đẹp có đôi mắt u buồn, đóng vai chính bộ phim nổi tiếng của ông đạo diễn Lê Hoàng Hoa lúc trước, tôi hỏi thầy:
– Có phải chị ấy là người yêu của thầy và v́ sao chị lại quyên sinh trong lúc cuộc đời đang đẹp?
Thầy cúi xuống, trầm ngâm giây lát rồi lắc đầu:
- Tội nghiệp, cô ấy là một người con gái đặc biệt, tài hoa và rất đáng yêu, nhưng ông trời lại bất công, bắt cô chết sớm. Cô có hoàn cảnh buồn và bị đau tim nên không muốn sống! Đặc biệt cô rất giống người con gái tôi đă từng yêu. Phải nói là từng say mê mới đúng!
Khi ngẩng đầu lên, thầy lấy cặp kiếng cận ra và lau nước mắt. Tôi hỏi thêm:
– Có phải v́ vậy mà thầy không lấy vợ? Thầy rất nghệ sĩ và đào hoa, em tin là có nhiều cô con gái yêu thầy.
Bỗng tôi khựng lại, khi thấy thầy lắc đầu:
– Tôi chỉ có một người yêu, người con gái mà tôi từng say mê đó! Nhưng khi tôi học bên Pháp th́ cô ấy bỏ tôi đi lấy chồng.
Và đột nhiên thầy hỏi lại tôi:
-Em có biết cô ấy lấy ai không?
Tôi im lặng. Thầy bảo:
– Cô lấy em trai tôi. Chính v́ vậy mà sau khi ở Pháp về, sau lần dự đám cưới em tôi, tôi không bao giờ trở về Huế nữa.
Tôi khá bất ngờ, câu chuyện gợi cho tôi sự ṭ ṃ:
– Chắc thầy buồn và trách cô ấy lắm?
– Buồn, đương nhiên, nhưng trách th́ không. V́ lỗi tất cả là ở tôi. Giữa cô ấy và đi du học, tôi đă chọn du học. Tôi chấp nhận trả giá cho sự ích kỷ và ngu xuẩn ấy của ḿnh, không ngờ cái giá lại quá đắt. C̣n em tôi, không biết nhiều về t́nh cảm mà tôi đă dành cho nàng, v́ lúc ấy tôi muốn giấu ba tôi, ông rất nghiêm khắc và lúc nào cũng muốn tôi phải tập trung vào việc học.
– V́ cái giá ấy mà thầy không bao giờ lấy vợ?
Ông im lặng một lúc rồi lắc đầu:
- Hồi ấy tính như vậy, nhưng rồi cuối cùng có lẽ tôi cũng sẽ lấy vợ. Lần này lại là một người khổ v́ tôi. Tôi không thể ích kỷ và ngu xuẩn thêm một lần nữa. Người con gái, à quên, người đàn bà đó có thể em c̣n nhớ.
Định nói thêm điều ǵ nữa đó, nhưng ông khựng lại:
– Nhưng thôi, tôi đă từng có một kinh nghiệm khá đau đớn, nên chuyện ǵ chưa xảy ra, không thể nói trước được.
Tôi thầm nghĩ, hóa ra cuộc đời ông thầy này có
quá nhiều chuyện kỳ lạ. Tôi lại nhớ tới cấp bậc trung sĩ 1 của ông,
nhưng rồi không dám hỏi. Nhiều lần tôi nghĩ, có thể ông sinh hoạt
trong nhóm sinh viên Phật tử Ấn Quang ở Trường Vạn Hạnh, có tiếng
thân Cộng, chống chính phủ, nên gặp rắc rối? Tôi đă có gặp anh
Trưởng Ban 1 (Quân Số) để xin được xem qua hồ sơ quân bạ của ông,
trong đó chắc chắn có ghi rơ mọi lư do. Nhưng hồ sơ của thầy gởi
theo đường Quân Bưu, chưa đến. Tôi đang chờ.
Bất ngờ, Thiếu Tá Phan Văn Khánh được điều động sang một trung đoàn
khác để giữ chức vụ trung đoàn phó. Bạn tôi, Đại úy Đỗ Bê, tiểu đoàn
phó của anh, được chỉ định xử lư thường vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 1. Trong một chuyến bay tiếp tế, tôi đáp xuống bộ chỉ huy tiểu
đoàn chỉ để kịp bắt tay khen và tặng một chai Black and White mừng
nó lên chức.
Hai tuần sau, trong một cuộc chạm súng với một tiểu đoàn địch, Tiểu Đoàn 1 của Bê được hai trực thăng vơ trang của Phi Đoàn Lạc Long 229 yểm trợ, đă tạo một chiến thắng vẻ vang. Đánh tan đơn vị địch, tịch thu trên 60 vũ khí đủ loại và bắt sống 8 tù binh. Ngay sau khi trận chiến vừa kết thúc, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn đáp xuống vị trí ngợi khen đơn vị, gắn cho Bê anh dũng bội tinh với nhành dương liễu và cho làm Quyền Tiểu Đoàn trưởng. Tôi gọi máy chúc mừng và bảo:
-Bắc B́nh ơi! “Con ḅ tứ” (lon thiếu tá) đang ở trước mặt mày đó!
Khoảng hai tháng sau, tin tức t́nh báo cho biết, có một sư đoàn Cộng quân từ miền Bắc mới xâm nhập, đang có mặt ở Pleiku, gần biên giới Miên- Việt.Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn dự đoán Pleiku, nơi đặc bản doanh Bộ Tư Lệnh QĐ II, sẽ là mục tiêu tấn công qui mô của địch. Trung Đoàn chúng tôi được điều động xuống Pleiku, trách nhiệm pḥng thủ trên tuyến ṿng đai cách tỉnh lỵ Pleiku khoảng 20 km hướng tây nam. Bộ Chỉ Huy chúng tôi đóng tại Căn Cứ 801, nằm phía tây QL 14 khoảng 10 km, và cách Hàm Rồng cũng khoảng hơn 10 km đường chim bay. Tiểu đoàn 1 của Bê hành quân tảo thanh bên ngoài, cách căn cứ chừng 5 cây số về hướng biên giới. Một hôm, khoảng 10 giờ sáng, trong một cuộc tao ngộ chiến với một lực lượng địch, Bê bị hứng trọn một quả B-40, tử thương tại chỗ. Xác Bê được đưa thẳng về QYV Pleiku.
Tôi thẩn thờ khi nghe tin Bê chết. Chết một cách bất ngờ và tức tưởi. Trên chiến trường, nhiều cấp chỉ huy từng tạo nên bao chiến thắng hiển hách nhưng cuối cùng lại chết v́ một viên đạn vô t́nh, không đáng.Tôi theo trực thăng CNC của ông Trung Đoàn Trưởng bay đến QYV. Thân xác Bê đầy những vết thương đang c̣n bê bết máu. Đôi mắt chưa khép hẳn.
Tôi vuốt mắt Bê mà nước mắt tôi đổ xuống, đầm đ́a. Điều cuối cùng tôi có thể làm được cho Bê, là xin phương tiện để sớm đưa Bê về nguyên quán. Tôi h́nh dung đến vùng quê G̣ Cam, Diên Khánh hiền ḥa, ngôi nhà mái ngói đỏ và những người trong gia đ́nh Bê mà tôi bao lần đến đó, gặp gỡ. Tôi cũng nhớ tới Phan Ái Minh người anh em ở chung nhà trọ học với Bê lúc xưa, cũng là bạn thân của tôi sau này, một con người tài hoa, đă hy sinh chỉ hơn một tháng sau ngày tốt nghiệp từ Trường Vơ Bị. Trong không khí yên lặng của khu nhà xác bệnh viện, tôi mơ hồ như bên tai đang văng vẳng bài truy điệu của chính vị Chỉ Huy Trưởng Trường Vơ Bị vang tiếng một thời: “Ôi! sự nghiệp đang công đeo đuổi thôi đành gián đoạn nửa đường. Chí tang bồng hằng mong thực hiện thôi cũng đành ôm hận ngàn thu.”
Tôi t́m thầy Huế báo tin Đỗ Bê tử trận. Ông tṛn mắt rồi bật khóc. Hôm nghe tin có phi cơ chở quan tài của Bê về Nha Trang, thầy xin theo tôi và anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT ra phi trường để chào tiễn Bê lần cuối. Trước khi đi, tôi hỏi thầy có muốn “hộ tống” quan tài Bê về Nha Trang cùng với anh sĩ quan CTCT của Tiểu Đoàn 1, tôi sẽ xin phép cho thầy. Thầy vui mừng gật đầu, nhưng thoáng một chút ái ngại. Tôi vỗ vai thầy, bảo yên chí, tôi sẽ xin anh Trưởng Khối CTCT và anh Trưởng Ban 1 làm sự vụ lệnh cho thầy thêm một tuần để thầy ghé về Đà Lạt thăm nhà.
Thêm một người bạn nữa ra đi. Cũng ở Tiểu Đoàn này, trước đây một năm, tôi đă mất Đặng Trung Đức, Khóa 19 VB, một người bạn thân quư như anh em kể từ ngày hai đứa mới ra trường, cùng làm trung đội trưởng cho một anh trung úy Khóa 16 VB rất tài ba. Đức là một tiểu đoàn trưởng xuất sắc, đă lập nhiều chiến công hiển hách trong Mùa Hè 1972. Và cũng chỉ mới 8 tháng trước, Trần Công Lâm , thằng bạn thân thiết cùng khóa Thủ Đức, cùng trung đội SVSQ với tôi, (nó giường trên tôi giường dưới), đă bỏ ḿnh trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú, khi đang nắm Tiểu Đoàn 3. Dẫu biết trong chiến tranh, sinh tử là lẽ thường t́nh, nhất là thời gian này, chiến trường thật thảm khốc, con số thương vong rất lớn, nhưng chứng kiến những cái chết trẻ của bạn ḿnh, ḷng đau đớn tựa hồ như có trăm ngàn vết chém.
Quá thời gian 15 ngày trong sự vụ lệnh, vẫn chưa thấy thầy Huế trở lại đơn vị. Anh Thiếu Tá Trưởng Khối CTCT và cả anh Trưởng Ban 1 hỏi tôi mấy lần, như là một lời nhắc nhở, bởi chính tôi là người xin phép cho thầy. Tôi bồn chồn lo lắng. Chẳng lẽ thầy đào ngũ v́ thấy quá khổ sở và nguy hiểm, nhất là bị ám ảnh cái chết của Đỗ Bê, người học tṛ cũ cùng đến tŕnh diện đơn vị một lúc với thầy? Tôi không tin là thầy đă phụ ḷng tốt của ḿnh, nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh chết chóc này, điều ǵ cũng có thể xảy ra.
Đă đến hạn phải báo cáo đào ngũ Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế. Được anh Trưởng Ban 1 cho biết và hỏi ư kiến, tôi năn nỉ xin anh chờ thêm hai tuần nữa. Cuối cùng thầy tôi vẫn bặt vô âm tín.
Một tuần, sau khi báo cáo đào ngũ và lệnh truy nă đă gởi đi, bỗng một hôm anh Trưởng Ban 1 cho tôi biết, có người đàn bà t́m đến hậu trạm Trung Đoàn (tại Hàm Rồng), đưa giấy chứng nhận của Cảnh Sát, cho biết là Trung sĩ 1 Hồ Đắc Huế đă bị Việt Cộng giết chết trên đường trở về đơn vị. Tôi lái xe xuống hậu trạm, chờ cho bà làm thủ tục xong, tôi đến mời bà về Ban Xă Hội (nơi bà tạm nghỉ) để xin phép được nói chuyện.
Gặp bà, tôi sửng sốt. V́ dù có thay đổi ít nhiều với thời gian, và trên đầu quấn chiếc khăn tang, nhưng tôi vẫn nhận ra bà chính là cô giáo, người góa phụ trẻ, từng có thời thuê nhà ngay sau nhà tôi, và đă nhờ tôi đưa mấy bài thơ cho thầy Huế phổ nhạc, nhưng đọc qua tôi biết đó là lời tâm sự bà muốn tỏ cùng thầy.
Bà cho biết, v́ không t́m được phương tiện quân
sự khác, khi sự vụ lệnh đă hết hạn, nên thầy rất nôn nóng, quyết
định đi xe đ̣ qua ngơ Nha Trang – Quy Nhơn. Xe bị một đám Việt Cộng
giả dạng lính ḿnh, chặn ngay phía dưới Sông Pha. Bọn họ lục soát
xem giấy tờ, cướp hết tư trang vàng bạc của hành khách, bắt vào rừng
một số đàn ông và bắn chết ba người, trong đó có thầy.
Sau khi nhận ra tôi, bà tỏ ra thân t́nh, gần gũi hơn, và có lẽ tôi
là người để bà có thể trút hết tâm tư đang đè nặng trong ḷng. Bà
đổi cách xưng hô:
– Chị là bạn và cũng có thể nói là vợ chưa cưới của thầy Huế. Chị lên đây với giấy ủy quyền của bà cụ, mẹ anh ấy. Bẵng đi một thời gian rất lâu, từ dạo nghe tiếng đàn và giọng hát của thầy ở sau vườn nhà em, chị gặp lại thầy ở Đà Lạt, quê của chị và nơi làm việc của thầy.
– Em không hiểu tại sao thầy không là sĩ quan mà chỉ mang trung sĩ? Em thắc mắc điều này mà chưa dám hỏi thầy – Tôi hỏi chị.
– Thầy có tâm sự việc này với chị. Sở dĩ thầy không khai bằng cấp là để khỏi phải vào Thủ Đức. Thầy muốn tránh gặp mặt vợ chồng người em trai, người làm đám cưới với cô nữ sinh Đồng Khánh mà không hề biết là ông anh ḿnh hết ḷng yêu trước ngày đi du học. Chú em vào Thủ Đức và khi ra trường được giữ lại làm huấn luyện viên. Cô vợ th́ xin được công việc trong một ngân hàng ở Sài G̣n, nhưng nhờ vốn của cha mẹ cho, nên sang lại và làm chủ một câu lạc bộ ngay trong trường Sĩ quan Thủ Đức. Thầy Huế không hề trách em ḿnh, nhưng chú em đă buồn và khổ tâm vô cùng khi biết đươc điều này. Thầy Huế muốn tránh gặp mặt vợ chồng chú em trai v́ không muốn gây khó chịu cho cô chú ấy và cả cho thầy. Sau đó, có một thời gian ông gần như mất trí khi biết được tin cả hai vợ chồng chú em bị VC giết chết trong Tết Mậu Thân cùng với ông cụ. Trước Tết chú em nghỉ phép dắt vợ về thăm gia đ́nh ở Huế. Riêng thầy, t́m mọi cách xin hoăn được một thời gian, đầu năm 1967 thầy vào Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Ra trường may mắn được chọn về Tiểu khu Tuyên Đức. Nhờ một người học tṛ cũ là một Phó Đốc Sự quen thân với ông tỉnh trưởng giúp đỡ, thầy được bổ sung vào toán “quản gia” cho mấy cái biệt điện của Vua Bảo Đại để lại. Công việc nhàn nhă, rất ít khi phải mặc quân phục, nên rất ít người biết chức vụ hay cấp bậc của thầy. Thầy xin dạy thêm ở một vài trường tại Đà Lạt, nên tiền bạc cũng không thiếu. Anh măn nguyện với công việc và rất mê Đà Lạt, nên không có ư định thay đổi, cho đến khi phải bắt thăm và ra Sư Đoàn 23 này.
Tôi hỏi lại bà:
– Sao người học tṛ làm Phó Đốc Sự không giúp, giữ thầy lại.
– Cả ông tỉnh trưởng và ông Phó Đốc Sự cũng đă thuyên chuyển đi trước đó lâu rồi.
Tôi hỏi sang chuyện khác:
- Gia đ́nh cha mẹ thầy vẫn c̣n ở Huế, và thầy được chôn cất ở đâu?
- Tết Mậu Thân, ông cụ và hai vợ chồng chú em bị giết. Thầy c̣n hai cô em gái và cậu em trai út, tất cả đều đă lập gia đ́nh. Bà cụ không muốn ở chung với dâu rể, thấy thầy sống một ḿnh tội nghiệp, nên dọn vào Đà Lạt ở với trưởng nam. Chị vẫn thường xuyên đến phụ giúp bà. Từ ngày anh Huế đổi ra Kontum, chị dọn về ở chung với bà, bây giờ bà đă khá già. Khi sống thầy rất yêu Đà Lạt, nên chị xin phép bà cụ an táng anh ở Đà Lạt. Dù chưa chính thức kết hôn, nhưng chị xem anh ấy đă là chồng ḿnh. Thêm một lần nữa chị để tang chồng, mặc dù chị chỉ có một mối t́nh duy nhất trong đời, với anh ấy. Người chồng trước lớn hơn chị nhiều tuổi, chị lấy cho vui ḷng mẹ chị. Khi ấy chị c̣n nhỏ quá, chưa biết t́nh yêu là ǵ và cũng chưa làm chủ được ḿnh. Khi ông ấy chết v́ một tai nạn, chị thấy tội nghiệp cho ông và cũng tội nghiệp cho chị.
Tôi mời chị dùng một bữa cơm chiều ở một cái quán“dă chiến” phía trước, do vợ của một anh lính tài xế Biệt Động Quân làm chủ. Tôi khoe ở đó có món cá kho tộ và canh chua nấu với lá giang tuyệt lắm, nhưng chị bảo đă nhận lời dùng cơm và ở lại đêm với các cô nữ quân nhân bên Ban Xă Hội.
Sáng hôm sau, tôi mời chị, anh Thiếu tá Trưởng Khối CTCT và cô Trung úy Trưởng ban Xă Hội đi ăn sáng. Pḥng Không Trợ cho biết, có một phi đội trực thăng của Phi Đoàn Thần Tượng 215 hoán đổi, sắp trở về lại căn cứ Nha Trang, chúng tôi đưa chị lại băi đáp, giới thiệu với anh phi công trưởng hợp đoàn, để xin cho chị được tháp tùng.
Vẫy tay chào tiễn chị, trong ḷng tôi dấy lên bao
nỗi ngậm ngùi. Một người bạn rồi một ông thầy ra đi. Nhanh quá. Tôi
nhớ đă từng hứa giúp họ hết ḷng, nhưng quyền hạn và khả năng của
ḿnh quá hạn hẹp mà chiến tranh th́ lại khốc liệt, tàn nhẫn vô cùng!
.Và những cuộc t́nh trong thời chiến tranh cũng sôi nổi, buồn, và
ngắn ngủi như đời một người lính chiến.
Phạm Tín An Ninh
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012