Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương
Tác giả một ḿnh vượt biển giữa thập niên 80 khi c̣n tuổi học
tṛ. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001.
Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết
"Tháng Tư, C̣n Đó Ngậm Ngùi," kể về t́nh gia đ́nh chung thuỷ của
người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Sau đây là bài viết mới của cô.
* * * * *
Tôi tên là Mai, một người Việt Nam sinh ra ở Mỹ, được nuôi lớn lên
bằng văn hóa Việt Nam, thức ăn Việt Nam và bằng sữa của Mỹ. Tôi được
Ba Mẹ dạy tiếng Việt cẩn thận, và chỉ nói tiếng Việt ở nhà. Nên khi
nghe tôi nói tiếng Việt pha lẫn âm hưởng Quy Nhơn -quê nội- và Biên
Ḥa -quê ngoại-, ít người biết tôi sinh ra ở California. Hồi nhỏ tôi
c̣n được học tiếng Việt kỹ càng từ bà ngoại, một cô giáo dạy Tiểu
học hơn 30 năm, nên không những chỉ nói, tôi c̣n biết đọc, và biết
viết thông thạo. Sau này, ông bà ngoại dọn nhà về Florida, không c̣n
ai ra bài và khảo bài tiếng Việt thường xuyên, khả năng đọc và viết
của tôi không c̣n được như xưa, nhưng vẫn đủ để viết và đọc những
chữ b́nh thường trong đời sống.
Ba Mẹ đặt tên Mai cho tôi v́ đó là một cái tên Việt Nam mà tiếng Mỹ
(my) và tiếng Việt (mai) đều có cùng một cách phát âm dù ư nghĩa
khác xa nhau.
Theo Ba, đó là tên của một loài hoa thanh cao luôn xuất hiện trong
pḥng khách hay trước hiên nhà của người Việt Nam vào dịp Tết Nguyên
Đán ở quê nhà, là một biểu tượng của ngày Tết.
Mẹ chọn tên Mai cho tôi v́ muốn theo gương ông ngoại đặt tên con
không có dấu, càng giản dị càng tốt. Và cũng v́ Mẹ có đến hai người
bạn thân cùng tên Mai, một là Bạch Mai, và một là Hồng Mai. Đến
phiên tôi, Mẹ chọn tên Thanh Mai để có đủ ba sắc trắng, xanh, hồng
là những màu Mẹ thích nhất.
Tôi học Sử Mỹ rất có hệ thống từ chương tŕnh ở trường, và học Sử
Việt, đặc biệt là giai đoạn 25 năm cuối thế kỷ 20 qua lời Ba Mẹ
trong những bữa ăn. Tôi là đứa con đầu tiên của ba mẹ, thằng em trai
duy nhất nhỏ hơn tôi 8 tuổi, nên lúc nhỏ tôi không có bạn để chơi,
chuyên "hóng chuyện" của Ba Mẹ. Nhờ vậy mà tôi biết được nhiều điều
mà các bạn Việt Nam bằng tuổi tôi không biết.
Lớn lên một chút, tôi hay giúp Ba Mẹ "phụ bếp", "chạy bàn" mỗi lần
Ba họp bạn cuối tuần ở nhà. Bạn của Ba đa số là lính Hải quân của
QLVNCH nên chuyện của họ thường là thời c̣n mặc áo lính và thời gian
khổ khi mới tới quê người không có tiền, không có thân nhân, và
không có cả quê hương. Lúc đầu tôi cũng không chú ư, nhưng có một
lần, bác T. khóc khi kể chuyện di tản lạc mất vợ con. Lần đó, tôi
quên cả "nhiệm vụ waitress" của ḿnh, đứng dựa ở sau bàn trong bếp
để ư lắng nghe chuyện ǵ làm một người đàn ông cao to, cương quyết
như Bác T. phải chảy nước mắt ? Không ngờ điều đó giúp tôi được một
điểm A extra credit cuối năm lớp tám khi cô giáo dạy Sử cho viết một
chuyện thật xảy ra trong đời sống do ảnh hưởng của một giai đoạn
lịch sử. Từ đó tôi hay để ư nghe những câu chuyện bên ly cà phê sau
bữa ăn tối cuối thứ bảy ở nhà giữa Ba và các bạn của Ba. Những câu
chuyện đó nếu chỉ nghe kể mà không thấy nét mặt của người kể chuyện
th́ không có ǵ đặc sắc, nhưng khi thấy nước mắt của họ, hay thấy
những khuôn mặt buồn hiu hắt, người nghe sẽ nhớ rất lâu, có thể là
suốt đời.
* * *
Mẹ đẹp nhất trong các anh chị em, thừa hưởng được cái dáng cao gầy
của ông ngoại, và màu mắt nâu hổ phách từ bà ngoại nên được nhiều
nam sinh cùng lớp theo đuổi từ năm lớp mười một.
Thời đó, những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ 20, miền Nam Việt
Nam mới đổi từ chính thể Cộng ḥa qua chính thể Cộng sản trong sự
uất ức của khoảng hai mươi triệu người miền Nam, và sự thất vọng của
hơn hai mươi triệu đồng bào miền Bắc v́ họ cứ ngỡ là miền Nam sẽ
giải phóng cho người miền Bắc khỏi cảnh đói nghèo. Mẹ cùng các cậu,
các d́ lớn lên, mà không có ông ngoại bên cạnh. Ông bị chính quyền
VC lừa gạt đi học tập 30 ngày (theo thông báo lúc đầu là 30 ngày).
Không ngờ 30 ngày kéo đến hơn 3,650 ngày (10 năm). Bà ngoại ở nhà
vẫn tiếp tục đi dạy ở trường Tiểu học ở gần nhà với đồng lương không
đủ để nuôi một người, trong lúc bà phải thay ông ngoại nuôi mẹ và
các d́ các cậu. Nhưng đó là một "thành tŕ vững chắc" để cả "gia
đ́nh ngụy quân" khỏi bị đi kinh tế mới (một nơi rừng núi hoang vu,
chưa có dấu chân người), và để giữ được căn nhà từ đường xây nên
bằng công sức của hai đời ông cố và ông ngoại.
Biết không thể nào để các con sống trong cảnh bị xếp hạng thứ 14
trong 15 thành phần xấu nhất của chế độ mới, bà ngoại thu xếp đưa
các con lần lượt vượt biển t́m tự do và t́m tương lai. Ngày ông
ngoại được về nhà, bầy con của ông đă sống rải rác từ Châu Âu qua
Châu Mỹ.
Bà ngoại đi dạy từ hồi chưa lấy chồng, nên học tṛ cũ của bà rất
đông. Vào thời điểm tháng 4 năm 1975, học tṛ cũ lứa đầu tiên của bà
ngoại đă đi làm, và cũng đă phải khăn gói đi "học tập cải tạo" như
bao "ngụy quân" hoặc "ngụy quyền" khác. Thời đó, học tṛ từ lớp 1
đến lớp 11 được dạy môn Công dân giáo dục cho nên người ta lớn lên
luôn nhớ ơn ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Một trong những người học tṛ giỏi nhất của bà ngoại tự tử trong
tuần đầu tiên của tháng 5 năm 1975 bằng súng của người cha quá cố để
lại (ông là sĩ quan quân lực VNCH đă tử trận khoảng vài năm trước
biến cố tháng 4/75). Nghe kể lúc đó giữa bao nhiêu bộn bề lo toan
của chính thể mới ở miền Nam VN, chính quyền địa phương vẫn không
quên cử người đến phạt tiền gia đ́nh người quá cố với "tội chết ngu"
???!!! Trong nỗi đau mất con của mẹ người quá cố, mấy ông đeo băng
đỏ đại diện chính quyền địa phương c̣n đứng trước quan tài, rao
giảng "đạo đức cách mạng" như một con két mở miệng nói những điều
được dạy mà không hiểu ǵ hết.
Ngày đưa tang anh, bà ngoại không thể đến tiễn người học tṛ cũ lần
cuối v́ biết sẽ không có ai dạy thế, và sẽ bị những con mắt cú vọ
của các ông bà lo công tác đảng, đoàn trong trường để ư. Hôm đó, bà
ngoại lo ra, không tập trung vào việc dạy dỗ, mắt cứ nh́n ra cửa sổ
để khi xe tang anh chạy qua, có thể vẫy tay chào học tṛ lần cuối.
Lúc nghe kể chuyện này, tôi đang học lớp 12, bằng đúng tuổi anh học
tṛ giỏi của bà ngoại năm xưa, tôi cứ nghĩ nếu người ta phải tự kết
liểu đời ḿnh ở tuổi 18 th́ hẳn là người ta phải thất vọng, chán đời
ghê lắm!
* * *
Tôi sinh ra ở Mỹ khi mà Ba Mẹ c̣n chân ướt chân ráo ở quê người.
Tuần trăng mật của Ba Mẹ nghèo và có cả hạnh phúc lẫn mồ hôi. Ba Mẹ
quen nhau ở trại tỵ nạn Pulau Bidong bên Malaysia, lấy nhau ở Mỹ lúc
mới đến Mỹ được hơn một năm. Đám cưới nghèo, đơn giản, không có thân
nhân, chỉ có bạn bè. Đàng trai kiêm luôn đàng gái là các cựu sĩ quan
Hải quân VNCH, bạn trong quân đội của Ba. Lúc đó là năm 1979, cộng
đồng Việt Nam tỵ nạn ở Mỹ mới có bốn năm, ai cũng nghèo. Nên đám
cưới xong, cái account nhẹ tênh trong ngân hàng của Ba Mẹ không thể
nhẹ hơn. Sau này, mỗi lần nhắc lại chuyện đó, các chú, các bác cứ vỗ
vai Ba nửa đùa nửa thật:
- Hai vợ chồng mày làm một cái "vow renewal" để tụi tao c̣n đi mừng
bù cho hồi xưa đi dự đám cưới mà không có tiền cho quà cưới.
Ba nhỏ nhẹ trả lời:
- Có cần thiết phải làm party không? Có nhiều cái không cần renew
nhưng lúc nào cũng "tương kính như tân". Muốn mừng bù lại th́ cứ
viết check, "đây" sẽ nhận mà không hề thắc mắc khiếu nại ǵ hết!
Mẹ bỏ Michigan đầy tuyết trắng qua California nắng ấm v́ lấy chồng
th́ phải theo chồng và v́ California vừa ấm, vừa có nhiều đồ ăn Việt
Nam. Nhất là mỗi dịp Tết âm lịch, ở một góc California có đủ mai
vàng, pháo Tết, bánh chưng xanh, câu đối đỏ. Nếu trời không lạnh th́
ở trong một không gian nhỏ nơi quần tụ đông đảo người Mỹ gốc Việt,
tưởng như quê nhà đă được mang theo trọn vẹn bên đời lưu lạc.
Dạo đó, tuần trăng mật của Ba Mẹ không phải là Paris lăng mạn, chẳng
phải là Hawaii thơ mộng, mà là xa lộ California Highway 1 với ven bờ
Thái B́nh Dương chạy dọc California với bờ biển thơ mộng Big Sur
Coast. Có những dăy biệt thự vắng vẻ có "ocean view" ở Carmel là nơi
vacation của dân nhà giàu, không ai ở, nhưng được maintenance cẩn
thận, lúc nào hoa cũng tươi, cỏ cũng xanh. Ba Mẹ đứng chụp h́nh
trước cửa những biệt thự này, mắt nh́n ra biền, buồn xa xăm, nghĩ
đến những em bé Việt Nam đi bán cà rem, bán vé số trên các bờ biển
quê nhà.
Có một lần ngồi soạn lại những h́nh cũ để làm một video cho cả nhà,
tôi đă t́m thấy những h́nh của Ba, của Mẹ ốm nhom, ốm nhách, đứng ở
bờ biển của trại tỵ nạn. H́nh tuần trăng mật của Ba Mẹ th́ dù đỡ ốm
hơn, nhưng đứng trước biển, mắt Ba Mẹ vẫn không vui dù là vừa cưới
nhau. H́nh như ở bên kia Thái B́nh Dương, nơi Ba Mẹ chào đời, nhiều
người, nhất là con nít vẫn c̣n khổ lắm.
Tuần trăng mật của Ba Mẹ có những giọt mồ hôi v́ chiếc xe quá cũ. Ba
Mẹ lại thích đi đường dốc lên xuống để có thể ngắm biển vào ngày
trăng tṛn, nên có những đoạn chiếc Volkswagen già nua cũng dừng lại
giữa đường ngắm cảnh như Ba Mẹ nên Mẹ cầm lái, và Ba ra sức đẩy, vổ
về chiếc xe lên dốc...cùng đi hưởng tuần trăng mật với minh. Lúc đó,
không có nhiều tiền nên thay v́ vô những nhà hàng sang trọng, tuần
trăng mật của Ba Mẹ được hiểu theo đúng nghĩa đen của nó: có những
đêm uống mật (pha với nước trà) và ngắm trăng mùa hè chiếu sáng ven
biển Thái B́nh Dương. Tôi đă chào đời từ những ngày tháng như vậy,
có màu hồng của hạnh phúc và màu xanh của hy vọng bên những giọt mồ
hôi, những ngày đầu cơ cực của Ba Mẹ, như hầu hết người Việt Nam tỵ
nạn.
* * *
Nghe kể, có một lần, lúc tôi mới được hơn 3 tuổi, một người bạn thân
của Mẹ, của cả gia đ́nh bên ngoại, mới từ trại tỵ nạn qua Mỹ đúng
một tuần, từ San Francisco về Los Angeles thăm Mẹ. Hôm đó là một
ngày cuối tuần gần giáng sinh, dù bận rộn với đủ thứ công việc cuối
năm, nhưng háo hức muốn gặp bạn cũ, người bạn gắn với một thời hạnh
phúc của Mẹ ở quê nhà, Ba Mẹ cùng đi đón bạn, bỏ tôi đang ngủ ở nhà
một ḿnh. Đón bạn xong, Ba vội vàng quay xe về lại nhà v́ sợ tôi
thức giấc sẽ khóc thét lên giữa một cái nhà vắng hoe, gợi sự chú ư
của hàng xóm và của Child Care Agency th́...nguy to. Rất may là khi
mọi người vừa về đến nhà khoảng 10 phút, tôi thức dậy, ḷ ḍ đi ra
pḥng khách nơi mọi người đang ngồi nói chuyện mà không biết là ḿnh
vừa bị "home alone" gần một tiếng đồng hồ!
Quà dành cho người bạn mới đến Mỹ của Mẹ là một năm báo Văn, gởi
hàng tháng đến tận nhà. V́ Mẹ vẫn c̣n nhớ những giọt nước mắt của
người miền Nam khi "chính quyền cách mạng" tịch thu từng xe sách,
không chỉ ở các tiệm sách, mà c̣n từ nhà dân chúng.
Cứ như vậy, dù không được trực tiếp giới thiệu với những người bạn
thân từ ở Việt Nam qua Mỹ của Mẹ, nhưng những t́nh cờ trong đời sống
đưa đẩy tôi tiếp xúc và biết những người bạn thân của Ba, hay của
Mẹ. Những người tỵ nạn chính trị thế hệ thứ nhất, mà một phần đời
của họ là mẫu số chung của cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
* * *
Hồi c̣n học Tiểu học, ông bà ngoại (qua Mỹ theo diện HO vào năm
1990) đi phỏng vấn trong tiến tŕnh thành Công dân Hoa kỳ. Ba Mẹ
phải đi làm, không t́m được babysitter, ông bà ngoại mang theo cả
hai chị em chúng tôi đến văn pḥng địa phương của Sở Di trú. Lúc đó
tôi 9 tuổi, thằng An hơn 12 tháng, c̣n ngậm pacifier. Đến phiên ông
bà ngoại vô phỏng vấn, người ta không cho đem theo con nít. Ông bà
đành để chúng tôi ở ngoài, dặn ḍ tôi coi em cẩn thận, không được đi
đâu cho đến khi ông bà trở ra. Tôi tự thấy ḿnh quan trọng, ngồi
ngay ngắn lại và cẩn thận nắm chặt tay em đang nằm trong Infant
Seat.
Thằng An lúc đó chưa biết nói, h́nh như cũng biết thương chị, thương
ông bà ngoại, dù c̣n thức nhưng miệng ngậm pacifier, mắt mở tṛn,
nh́n qua nh́n lại, không khóc la như lúc đói bụng ở nhà. Chỗ đó là
văn pḥng làm việc của chính phủ liên bang, có security đi qua đi
lại nên chị em chúng tôi "coi nhau" an toàn cho đến lúc ông bà ngoại
đi ra. "Thành tích giữ em" đó của tôi có được là ở nhà đă được Ba Mẹ
dạy giữ em, và khuyến khích tôi:
- Hồi Ba bằng con, ở Quy Nhơn nghèo lắm, con nít năm, sáu tuổi đă
phải bồng hay cỏng em mỗi ngày. Nhiều đứa lớn không nỗi v́ phải bồng
em cả ngày từ lúc chính bản thân ḿnh đi đứng một ḿnh c̣n chưa
vững. Ở đây con coi em, chỉ ngồi bên cạnh em, không phải bồng bế em
là sướng lắm rồi.
Những lời quen thuộc mở đầu "Hồi Ba/ Mẹ bằng con, ở Việt Nam..." tôi
nghe nhiều lần, vẽ ra trong đầu tôi một đất nước VN chiến tranh lúc
Ba Mẹ c̣n nhỏ, cái ǵ cũng thiếu thốn. Và v́ vậy tôi trân trọng
những ǵ ḿnh đang có, những thứ mà tôi biết, cũng như những người
Việt Nam tỵ nạn đến Mỹ với hai bàn tay trắng, Ba Mẹ phải vất vả rất
nhiều để thế hệ chúng tôi có được ngày hôm nay.
Đất nước Việt Nam quê cha đất tổ của chúng tôi, mờ ảo với tôi (một
người Việt Nam sinh ra ở Mỹ), nhưng là một "trời kỷ niệm" với thế hệ
Ba Mẹ, là cả một "nỗi niềm mang theo" của ông ngoại, một cựu Sĩ quan
QLVNCH phải chịu hơn 10 năm tù đày của đất nước xă hội chủ nghĩa.
Nên càng lớn tuổi, ông ngoại càng buồn và khó tính hơn. Nhiều khi bà
ngoại nửa đùa nửa thật với ông mỗi khi ông phàn nàn, bắt bẻ về một
chuyện vặt vănh nào đó:
- Ông ơi, tui chứ không phải là lính của ông trong quân đội hồi xưa
mà ông cứ áp dụng nguyên tắc "làm trước khiếu nại sau".
Tôi phải vận dụng hết khả năng của ḿnh trong môn Tâm Lư học để
khuyên bà đó chỉ là trạng thái tạm thời của một người lớn tuổi đă bị
ức chế tinh thần trong một thời gian dài ngày c̣n trẻ. Không biết v́
thấy tôi có lư hay v́ nghĩ đến thời gian khổ trong hơn 10 năm tù đày
của ông ngoại trong các trại tù cải tạo của VC từ Nam ra Bắc, rồi từ
Bắc vô Trung, bà ngoại chỉ bực ḿnh đôi chút, rồi vẫn ch́u theo ư
ông.
H́nh như với thế hệ của ông ngoại, những người đă cầm súng chiến đấu
bảo vệ tự do, rồi phải buông súng một cách đột ngột v́ vận nước, 40
năm dài đăng đẳng chỉ như một cái chớp mắt, và vết thương thể xác dù
lành, nhưng vết sẹo vẫn c̣n đó, nhắc nhở một vết thương ḷng măi măi
không lành? Phải chi lúc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, chính quyền
Bắc Việt đối xử với quân đội miền Nam như người Mỹ đối xử với nhau
khi Civil War (1861-1865) chấm dứt th́ trong tâm hồn của cả một, hai
thế hệ Việt Nam không hề có một vết thương ḷng chưa bao giờ lành.
®®®
Mới đây ở năm cuối ngành Dược của UCI, tôi đi làm thêm ở một
pharmacy để vừa có kinh nghiệm, vừa có tiền đổ xăng hay sắm những
thứ vặt vảnh của con gái mà không phải ngửa tay xin tiền Ba Mẹ.
Như thường lệ, tôi đến nơi làm việc, chỉ kịp bỏ phần ăn trưa của
ḿnh vào tủ lạnh, khoác cái áo blouse trắng có gắn bảng tên, check
trên computer các yêu cầu refill thuốc online, và bắt đầu đếm thuốc
cho vào từng túi giấy nhỏ, có labels với tên thuốc, tên bệnh nhân,
và liều lượng uống thuốc mỗi ngày. Công việc này tưởng đơn giản
nhưng phải biết nhận ra các viên thuốc nhỏ xíu đủ màu đôi khi rất
giống nhau về h́nh thức nhưng khác xa về thành phần và công dụng.
Chỉ có vào buổi trưa khi nhân viên đứng ở quầy giao thuốc được nghỉ
ăn trưa, tôi mới phải tiếp xúc với khách hàng, hay gọi điện thoại
trực tiếp cho các vị bác sĩ khi không thể nào đọc ra chữ của họ trên
các toa thuốc.
Hôm đó, tôi vẫn làm công việc "một ngày như mọi ngày" th́ có cảm
giác là ai đó đang quan sát ḿnh. Tôi đảo mắt một ṿng chung quanh,
không có một khuôn mặt nào quen thuộc, ngay cả các khách hàng đến
pharmacy nhận thuốc vài lần mỗi tuần.
Tôi tiếp tục làm việc và vẫn có cảm giác "đang bị nh́n", nhưng vẫn
không phát hiện ra ai đang nh́n ḿnh. Đến lúc giao thuốc cho một
người Việt Nam, sau những giao dịch thông thường chuyên môn của
ngành Dược bằng tiếng Mỹ, chú hỏi tôi với tiếng Việt giọng Saigon:
- Có phải má của cháu tên Duyên không?
Tôi ngạc nhiên vô cùng, trả lời bằng giọng Biên Ḥa pha Quy Nhơn:
- Thưa phải, chú biết má của cháu?
- Không những biết mà c̣n học chung lớp với má cháu nữa.
- Chú có thể cho cháu biết tên để cháu về kể cho má cháu.
- Không cần đâu, cháu cứ nói là bạn học cùng lớp 12, thấy cháu giống
hệt má cháu hồi xưa nên hỏi thăm vậy thôi.
Ông khách Việt Nam quay ra khỏi cửa, tôi ṭ ṃ nh́n vào tên tuổi
bệnh nhân ḿnh vừa giao thuốc, đó là một cái tên Việt Nam của đàn bà
con gái, độ tuổi cũng khoảng bằng tuổi của Mẹ tôi. Nghĩa là ông
khách vừa rời khỏi quầy nhận thuốc cho một bệnh nhân nữ, chắc là vợ
của ông ta.
Tối đó, về nhà tôi kể cho Mẹ nghe tường tận chi tiết về người bạn
cùng lớp thời Trung học của Mẹ. Tưởng là Mẹ sẽ ngạc nhiên, sẽ cố
đoán tên người bạn cũ, nhưng thật không ngờ, Mẹ cười mỉm chi:
- Mẹ biết chú đó là ai rồi! Lần sau nếu có gặp chú đi refill thuốc,
con nhắn chú là Mẹ con hỏi chú c̣n nhớ mấy phương tŕnh Lượng giác
không?
Tôi vừa rời Trung học chỉ vài năm, nếu t́nh cờ gặp một người bạn
cùng lớp 12 ngoài đường, nếu không thân chắc cũng không nhớ tên. Vậy
mà t́nh bạn thời thơ dại của Mẹ vẫn c̣n nguyên sau bao nhiêu năm
tháng.
* * *
Ba Mẹ luôn luôn giữ truyền thống Việt Nam ở nhà, giúp chị em chúng
tôi sống dung ḥa được với cả hai nền văn hóa Việt và Mỹ. Không c̣n
nhớ từ lúc nào, Ba Mẹ đă đưa chúng tôi đi chợ Tết hàng năm của người
Việt ở miền Nam California với áo dài Việt Nam. Lâu dần trở thành
một thói quen không thể thiếu của cả gia đ́nh. Hồi nhỏ là v́ có được
những tờ tiền mới, được tha hồ ăn nhiều món ngon ở chợ Tết. Ngày
Tết,giữ một truyền thống từ xa xưa, Ba Mẹ thường không từ chối những
yêu cầu của hai chị em. Lớn lên, tôi có cảm giác tà áo dài Việt Nam
làm có nhiều nữ tính hơn, dịu dàng, và... giống Mẹ hơn. Từ thương
Mẹ, tôi thuơng luôn áo dài Việt Nam từ lúc nào không biết! Tôi thích
mặc áo dài đi chợ Tết của người Việt lưu vong ở Little Saigon,
Orange County mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Cầm cái bánh chưng vuông vức
làm bằng nếp pha lá dứa với nhân đậu xanh, hay nhân thịt bên trong,
chúng tôi liên tưởng đến h́nh ảnh của ông Hoàng Tử Tiết Liêu hiền
lành làm món ăn có ư nghĩa cho vua cha nhân ngày Tết. Thấy trái dưa
hấu bày bán ở chợ Mỹ quanh năm, chúng tôi nhớ đến chuyện ông Hoàng
Tử An Tiêm bị lưu đày, vẫn sống được bằng sự cần cù như bao nhiêu
người nông dân b́nh thường khác.
Ngược lại, chúng tôi cũng ăn món bắp cải màu xanh, mặc áo xanh lá
cây vào ngày St, Patrick của người Mỹ gốc Irish; và đón lễ độc lập
của Hoa kỳ bằng ḷng tự hào như một người bản xứ. Hai nền văn hóa
Việt Mỹ lúc nào cũng sống đoàn kết, ḥa thuận trong tôi.
Tôi tin chắc chắn là truyền thống Việt Nam của người Việt tha hương
(nhất là những nơi có đông người sống quần tụ) ở khắp nơi trên thế
giới vẫn được ǵn giữ đến thế hệ thứ tư dù nhiều khi lúc đó cũng như
cả triệu người Việt Nam khác, chúng tôi vẫn phải sống đời lưu vong.
Mỗi lần đến Tết, như cây cỏ đâm chồi nẩy lộc hồi sinh sau mùa Đông
lạnh giá, hy vọng của mọi người lại dâng cao. Ông ngoại, một cựu Sĩ
quan QLVNCH mong ngày xuôi tay nhắm mắt được gởi thân ở quê nhà tự
do dân chủ. Mẹ, thế hệ tỵ nạn đầu tiên, mong được về dạy Công dân
giáo dục và "Tâm hồn cao thượng" cho học sinh ở Việt Nam. Thế hệ của
chúng tôi mong các bạn trẻ ở trong nước biết học hỏi cách làm việc
của người Mỹ thay v́ chỉ nhiễm một số thói hư tật xấu của người Tây
phương.
Mong vô cùng người ta nhớ là tiền chưa khi nào, và sẽ không bao giờ
mua được hạnh phúc. Đất nước phát triển nhờ các nhà máy sản xuất,
nhờ tŕnh độ dân trí. Chưa một đất nước nào phát triển nhờ những
quán cà phê, và những khu du lịch ăn chơi. Hy vọng làm chúng ta có
thêm niềm tin vào cuộc sống. Rồi sẽ có một ngày hy vọng thành sự
thật. Phải tin như thế để sống, để nh́n ngày quê cha đất tổ được hồi
sinh.
Nguyễn Trần Diệu Hương
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012