Phạm Tín An Ninh
Lần cuối cùng tôi gặp lại anh, khoảng tháng 7 năm 1978 tại Nghĩa Lộ.
Trong những người tù ốm o đang vác những bó nứa, băng qua khu ruộng
khô mà đám tù chúng tôi đang “lao động” , bất ngờ tôi nhận ra anh,
khi anh hỏi xin bọn tôi một ngụm nước. Tôi ngỡ ngàng đứng nghiêm đưa
tay lên chào:
- Đại Tá!
Anh nh́n lên, nhận ra tôi và nở nụ cười:
- Mi ở đây à? Chừ c̣n tá với tướng chi mi. Mi khỏe không?
Tôi đưa cho anh lon guigoz nước rồi nắm lấy tay anh. Anh gầy hơn xưa nhiều, chỉ có nụ cười vẫn vậy, không thay đổi. Chưa kịp hỏi anh ở trại nào và vợ con ra sao, th́ tên vệ binh hét: “không được quan hệ linh tinh, khẩn trương về trại”. Tôi phụ đưa bó nứa lên vai anh. Bước đi, anh nói vọng lại một câu:
- Mi nhớ giữ ǵn sức khỏe hỉ!
Có một thời báo chí và nhiều người gọi anh là “Người hùng Ban Mê
Thuột”. Điều đó rất xứng đáng. Khi chỉ có trong tay một tiểu đoàn và
được tăng cường Đại Đội 23 Trinh Sát tinh nhuệ, nhờ hầm hố công sự
vững chắc, anh cùng đơn vị đă phải chiến đấu đơn độc nhưng thật
quyết liệt can trường trước nhiều đợt tấn công biển người của địch,
giết hằng trăm địch quân và bắn cháy nhiều chiến xa T-54, giữ vững
vị trí đến sau khi cả thành phố Ban Mê Thuột đă lọt vào tay giặc gần
một tuần trước đó. Ngày 17.3.75, một lực lượng địch đông đảo có
nhiều chiến xa kéo đến bao vây tấn công để bằng mọi giá phải nhổ cái
gai làm chúng vô cùng căm tức. Với hàng ngàn quả pháo, chúng muốn
san bằng cái cứ điểm cuối cùng mà đơn vị anh đang tử thủ, quyết sống
chết trong căn cứ B50 bên cạnh phi trường Phụng Dực, cách thị xă Ban
Mê Thuột 8 cây số về hướng Đông. Anh đă cùng đồng đội vẫn không nao
núng, đánh thật đẹp một trận để đời. Một số binh sĩ hết đạn, anh ra
lệnh cho thu nhặt súng đạn của địch để đánh lại địch. Rất tiếc, phi
vụ tiếp tế thả dù cuối cùng không may rơi ra ngoài vị trí, lương
thực và đạn dược đă cạn kiệt. Anh khôn khéo lừa địch, cùng những
thuộc cấp sống sót mở đường máu lúc nửa đêm, phân tán thành nhiều
toán nhỏ, vài toán rút về hướng Lạc Thiện, vài toán đi về khu làng
Thượng thuộc tỉnh Tuyên Đức, riêng anh cùng một toán trên 20 người
đến được Phước An, hai ngày trước khi quân lỵ cuối cùng của tỉnh
Darlac này rơi vào tay Cộng sản. Anh và đồng đội đă tạo thêm một
huyền thoại trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Đặc biệt, anh cũng là cấp chỉ huy trực tiếp cuối cùng của tôi vào
những giờ thứ 25, trước khi Quân Lực VNCH bị bức tử, để những chiến
sĩ anh hùng như anh phải đành đau đớn tức tưởi kết thúc binh nghiệp
nửa đường.
Vào đầu tháng 4/75, QĐ II&QK2 lần lượt lọt vào
tay giặc, sau những cuộc triệt thoái tồi tệ và bi thảm nhất trong
lịch sử chiến tranh. Hầu hết quân nhân các cấp thuộc các Sư Đoàn và
Tiểu Khu thống thuộc c̣n sống sót đă tiếp tục di tản vào B́nh Tuy,
Vũng Tàu, Sài g̣n. Được lệnh của Bộ TTM truyền đi trên các đài phát
thanh, truyền h́nh, kêu gọi “đến tŕnh diện tại Trại Chí Linh, Trung
Tâm Huấn Luyện XDNT Vũng Tàu” để sau đó được bổ sung tái lập một sư
đoàn duy nhất: Sư Đoàn 22BB với Thiếu Tướng Phan Đ́nh Niệm tiếp tục
làm tư lệnh, đặt dưới quyền xử dụng của Quân Đoàn III.
Không ngờ số lượng đến tŕnh diện thật đông đảo. Đa số là sĩ quan,
chỉ có khoảng một phần ba là hạ sĩ quan và binh sĩ. Khi lang thang
đi t́m mấy thằng bạn cùng đơn vị cũ, xem ai c̣n ai mất sau trận
chiến Khánh Dương và một số phải di tản theo Tỉnh Lộ 7B oan nghiệt,
bỗng tôi nghe trên loa có một giọng Huế quen thuộc gọi tên ḿnh, và
yêu cầu đến dăy nhà số 4 gặp Đại Tá Vơ Ân. Tiếng gọi quen thuộc ấy
cũng chính là tiếng nói của anh.
Tôi t́m đến dăy nhà số 4, nơi đặt BCH Trung Đoàn 47 (tái lập). Vội vàng t́m gặp anh, để xem người hùng của trận chiến Ban Mê Thuột bây giờ ra sao. Anh ngồi trên dăy bàn dài với một vài sĩ quan cấp trung tá, có nhiều vị tôi quen biết. Tôi đưa tay chào, chưa kịp tŕnh diện lời nào, th́ anh đă phất tay bảo tôi ngồi:
-Tau được chỉ định tái lập gấp Trung Đoàn 47 này. Mi về đây với tau cho vui. Anh em 23 nhiều lắm. Tụi ḿnh “đánh đấm” tiếp.
Thoáng một chút xúc động. Nghĩ ḿnh là một sĩ
quan đàn em cấp thấp, cũng chẳng tài cán ǵ, chỉ gặp gỡ một vài lần
và được anh quí mến. Vậy mà hôm nay, trong cái cảnh chợ chiều, hổn
tạp rối ren này, anh vẫn c̣n nghĩ đến ḿnh.
Ba ngày sau, Trung Đoàn 47 BB được tạm tái lập với một quân số mà
quan nhiều hơn lính. Một tiểu đoàn có đến 2 trung tá. Cấp đại đội có
1-2 thiếu tá, có vị đă từng làm tiểu đoàn trưởng hay chi khu phó. Có
nhiều trung đội được chỉ huy bởi một đại úy với quân số không quá 25
người, mà 50% là sĩ quan. Chắc chắn trên thế giới không có một đội
quân nào với bản cấp số kỳ quặc và “ghê gớm” như thế.
Trong hầu hết những bài viết về các trận chiến cuối cùng của QLVNCH, dường như chưa có ai nói đến sự kiện này. Tại sao những sĩ quan cấp tá, cấp úy lại sẵn sàng nhận lănh những chức vụ quá nhỏ nhoi như thế, trong lúc t́nh h́nh nguy ngập, chiến trường đang từng giờ thu hẹp lại, mà mọi bất lợi, hiểm nguy đang chờ họ đối mặt? Hơn nữa hầu hết đều bỏ lại gia đ́nh ở miền Trung mà bây giờ đă thuộc vùng địch chiếm. Bao nỗi ưu tư canh cánh bên ḷng. Nếu không phải là “Tổ Quốc, Danh Dự. Trách Nhiệm”, sứ mạng cao cả mà họ đă tuyên thệ nhận lănh khi qú xuống vũ đ́nh trường trong ngày măn khóa?
Ngay tại BCH Trung Đoàn, ngoài Đại tá Vơ Ân Trung đoàn trưởng, c̣n có đến 4, 5 trung tá. Trung tá Nguyễn Thắng Phùng, chỉ huy trưởng TTHL/SĐ 23BB nhận lănh chức vụ Phụ Tá Hành Quân kiêm Trưởng ban 3. Vai tṛ này anh đă từng làm cách đây trên 10 năm, khi c̣n mang cấp bậc thiếu úy. Tôi vẫn c̣n nhớ, khi mới ra trường vài tháng, dắt trung đội biệt phái đến tŕnh diện BCH Trung Đoàn 45BB của Trung tá Vơ Văn Cảnh, đóng trại giữa rừng để chỉ huy trận chiến Quảng Nhiêu đang hồi khốc liệt nhất, tôi được gặp Thiếu Úy Nguyễn Thắng Phùng, đang là Trưởng Ban 3 Trung Đoàn. Anh rất vui vẻ, niềm nở hướng dẫn trung đội tôi ra nằm giữ an ninh cho một Pháo Đội Pháo Binh 155 ly, đóng bên cạnh BCH Trung Đoàn. Anh dặn ḍ chỉ vẽ những điều cần thiết. Chỉ với câp bậc thiêu úy, nhưng tôi nghĩ anh là một Trưởng Ban 3 nhiều kinh nghiệm, khả năng. Tôi có cảm t́nh với anh kể từ ngày ấy. Anh đă đảm trách chức vụ này từ khi c̣n thiếu úy, bây giờ mang đến cấp bậc trung tá, anh lại trở về với cái chức vụ hơn 10 năm trước. Vậy mà anh rất vui vẻ, b́nh dị, thường thân t́nh đùa cợt với anh em và chu toàn trách nhiệm của ḿnh. Anh bảo:
- Được làm việc với Đại Tá Ân là vui rồi!
Tôi rất nể phục thái độ và tư cách của anh.
Trong BCH Trung Đoàn có một vài vị nguyên là tiểu khu phó, tham mưu
trưởng của các tiểu khu. Tôi cũng gặp một anh thiếu tá, nguyên là
tiểu đoàn trưởng xuất sắc của một tiểu đoàn ĐPQ tại TK B́nh Định.
Năm 1971 có một thời tăng phái hành quân cho Chiến Đoàn 44 của chúng
tôi tại An Khê, khi ấy tôi là Trưởng Ban 3 Chiến Đoàn nên thường gặp
và biết khả năng điều quân của anh, c̣n bây giờ th́ anh đang vui vẻ
làm đại đội trưởng với quân số chưa tới 80 người.
Tôi được anh Ân thương mến, giao cho một chức vụ cũng không có trong bản cấp số: Sĩ Quan Hành Quân & Tiếp Vận. Thực chất, đó chỉ là một loại “thượng sĩ thường vụ” của Trung Đoàn, chạy ngược chạy xuôi lo đủ thứ việc.
Ngày 17/4/1975, chưa kịp trang bị xong, một số quân nhân chưa có cả súng đạn, Trung Đoàn được lệnh di chuyển xuống Long An, đảm trách hành quân an ninh trong vùng Bến Lức. Ban đêm, từng đoàn xe từ Tổng Kho Long B́nh chở vũ khí, quân trang quân dụng xuống để đơn vị vừa hành quân vừa trang bị tiếp. Đạn th́ thiếu nhưng súng lại thừa. Một người có thể được trang bị một khầu M16 và thêm một súng Colt 12 nếu muốn.
Ngày 22/4/75 có khoảng 10 tân sĩ quan hai khóa 28
và 29 của Trường VBQGVN vừa tốt nghiệp “non” tại Trường Bộ Binh Long
Thành, đến tŕnh diện. Các anh vẫn giữ đúng nề nếp, cử một đại diện
chỉ huy tŕnh diện đơn vị trưởng theo đúng lễ nghi quân cách. Nh́n
họ mà tất cả chúng tôi ai nấy cũng đều cảm kích, chạnh ḷng. Những
sinh viên đă từ bỏ học đường chọn binh nghiệp bảo vệ giang sơn tổ
quốc. Bây giờ giang sơn đang như sợi chỉ mành trước gió, tổ quốc lâm
nguy, vậy mà họ vẫn đến đây, để chấp nhận một cuộc chiến ở giờ thứ
25, trong một hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi, khi chưa hề có được một
ngày kinh nghiệm chiến trường. Trong những đôi mắt nhuốm chút ít ưu
tư ấy vẫn tỏa ra đầy khí phách, sẵn sàng nhập cuộc.
Đại Tá Vơ Ân đến bắt tay từng người một. Im lặng một lúc, anh lấy
giọng:
-Thay mặt đơn vị, anh cám ơn và hoan nghênh các em đă đến tŕnh diện. Các em đă cho chúng tôi một nguồn sinh lực mới, sau thời gian trải qua những mất mát, giao động. Điều đó cũng đă là một góp phần xứng đáng rồi. Anh biết các em chưa nghỉ phép sau khi làm lễ ra trường. C̣n đơn vị lại đang trong thời kỳ tái tổ chức. Bây giờ theo thông lệ, anh cấp cho các em giấy nghỉ phép mười ngày, để các em về thăm gia đ́nh. Mong là các em hiểu sự quyết định này của anh.
Hầu hết các tân sĩ quan nhất quyết xin ở lại để
chiến đấu cùng đơn vị. Có anh bảo là gia đ́nh ở ngoài Trung, không
có ai ở đây. Nhưng tất cả sĩ quan chúng tôi có mặt lúc ấy đều thấy
quyết định của ĐạiTá Ân là có cân nhắc và có t́nh có lư, nên khuyên
các anh nên chấp nhận quyết định của Đại tá, nếu anh nào gia đ́nh ở
miền Trung có thể về Sai gon tạm nghỉ ngơi chờ lệnh, sau khi hết
phép trở lại đơn vị cũng chưa muộn (?)
Ngay chiều hôm ấy, có lệnh bàn giao vị trí cho một đơn vị khác của
Quân Đoàn III, chúng tôi khẩn cấp di chuyển đêm xuống giải tỏa áp
lực địch tại Quận Cần Giuộc. Theo tin tức, đă có hơn một trung đoàn
địch đang trên đường tiến đến uy hiếp khu vực này.
Tất cả chúng tôi đều đến từ Vùng 2, nên không ai biết rành địa thế và t́nh h́nh trong khu vực lạ lẫm này. Để tránh chậm trể và nguy hiểm, Trung Đoàn được biệt phái một toán Cảnh Sát do một Thiếu Tá chỉ huy, dẫn đường. Khởi hành từ 10 giờ tối, cho măi 5 giờ sáng đơn vị mới tới địa điểm. Toán Cảnh sát “hướng lộ” đă dẫn chúng tôi đi sai lộ tŕnh. Rất may là tất cả an toàn, không đụng độ với bất cứ lực lượng nào của địch.
BCH Trung Đoàn đóng tại Trường Trung Học Cần Giuộc. Phía trước là đồng ruộng, sau mùa gặt nên đất đă khô và trơ những gốc rạ. Tổng Kho Long B́nh có lệnh phân tán quân trang quân dụng, nên đă đưa xuống đây cả mấy chục chiếc xe GMCvà xe jeep các loại, kèm theo một lệnh miệng: “ Mỗi xe chỉ có đầy b́nh xăng, xử dụng chiếc nào đến hết xăng là bỏ luôn.” Vừa xe, vừa gạo, và quân trang chất thành những đống cao giữa trời, trên những đám ruộng khô.
Trung Đoàn có ba tiểu đoàn, không có đại đội trinh sát và đại đội chỉ huy công vụ. Một tiểu đoàn đóng chung với BCH Trung Đoàn, làm lực lượng trừ bị, hai tiểu đoàn bung ra xa. Trong đó có một tiểu đoàn hành quân tái chiếm xă Mỹ Lộc, một khu trù phú của quận Cần Giuộc, bị một tiểu đoàn địa phương của địch xâm nhập, truy giết các nhân viên xă ấp và các trung đội nghĩa quân.
Giữa một cuộc chiến không nh́n thấy tương lai, và phải chỉ huy một đơn vị như chiếc áo cũ mục nát,được vá víu bằng những tấm vải đủ màu, nhưng Đại tá Vơ Ân cùng tất cả chúng tôi đă sống với nhau thật vui vẻ, chí t́nh. Với tôi, đó lại là thời gian đáng ghi nhớ nhất trong cả mười một năm binh nghiệp. Cái ranh giới chỉ huy gần như nhỏ lại, để nhường cho cái t́nh huynh đệ. Điều này có được phần lớn là nhờ vào anh - Đại tá Vơ Ân.
Ngày xưa, khi c̣n chỉ huy các tiểu đoàn, trung đoàn hùng mạnh, tham dự nhiều trận chiến cam go ở B́nh Định, Pleiku, Kontum, Quảng Đức, anh vẫn vui vẻ thân t́nh như hôm nay. Với bạn bè hay đàn em, thuộc cấp lúc nào anh cũng dùng hai chữ “mi, tau”. Sĩ quan trong đơn vị thực sự xem anh như một người anh, hay một ông thầy của thời trung học.
Tháng 11 năm 1973, Phóng viên chiến trường Dương Phục, trong một lần đặc biệt đi theo đơn vị của anh, khi ấy là Trung Đoàn 53 thuộc Sư Đoàn 23BB, đang quần thảo với địch trong một trận chiến vô cùng khốc liệt tại Quảng Đức, đă viết:
“Tôi vác ba lô ra xe và hai tiếng đồng hồ sau
có mặt bên cạnh đơn vị có nhiệm vụ tái chiếm hai tiền đồn Bu Prang
và Bu Bong đă lọt vào tay địch quân trong cuộc tấn công ngày 4.11
vừa qua.
Trung Tá Vơ Ân, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 Bộ Binh, trông giống
một giáo sư hơn là một đơn vị trưởng tác chiến. Cả bộ chiến phục bụi
bậm, bẩn thỉu, và khẩu súng lục Colt 12 đeo lủng lẳng bên hông cũng
không giúp anh có vẻ ngoài oai hùng của người lính chiến. Nhưng tất
cả những thứ đó chỉ là bề ngoài. Sức chịu đựng bền bĩ và ư chí sắt
thép của anh Ân được truyền tụng theo chiều hướng huyền thoại hóa
trong trung đoàn.
Ân tiếp tôi ngay tại vị trí chiến đấu của Tiểu Đoàn 2/53. Khuôn mặt
trẻ trung, nhưng dầy dạn vẻ phong trần, nụ cười chân t́nh như chỉ
những người lính chiến mới biết cười như vậy. Ân bảo tôi :
- Anh đến chậm mất hai ngày.
- Hai ngày sớm hơn đă xảy ra chuyện ǵ?
- Pháo. Địch pháo như mưa, pháo dội vào các đơn vị chúng tôi. Sau
pháo, chúng xung phong.”
Sáng ngày 27 tháng 4 /1975, khoảng 10 giờ sáng. Khi chúng tôi đang
ngồi uống cà phê trong một pḥng học được dùng làm Trung Tâm Hành
Quân, nghe tiếng trực thăng đang đảo thấp một ṿng đáp xuống đám
ruộng khô phía trước, cách chúng tôi chừng hơn100 mét. Nghĩ là trực
thăng CNC đến làm việc cho Trung Đoàn, Đại Tá Ân bảo tôi lấy một
chiếc xe jeep mới toanh, không mui, chạy ra đón phi hành đoàn. V́
trời nóng, nên đa số chúng tôi đều mặc áo thun. Tôi không kịp mặc áo
lính, lái xe chạy băng qua mấy đám ruộng khô và dừng lại trước chiếc
trực thăng vừa đáp xuống. Bỗng bất ngờ, ngạc nhiên khi thấy một
người vừa bước xuống, tay cặp chiếc mũ sắt ngụy trang có gắn 3 ngôi
sao. Theo sau là một vị trung tá trên tay cầm khẩu M-18. Tôi giật
ḿnh, nhận ra đó là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng. Vội vàng bước
xuống xe, tôi đứng nghiêm đưa tay chào. Ông bước tới gần tôi. Trong
tiếng cánh quạt trực thăng chưa dừng hẵn, tôi nghe ông hỏi lớn:
- Có Đại Tá Ân trong đó không?
- Tŕnh Trung Tướng, có .
Tôi trả lời và mời ông lên xe, nhưng ông từ chối, bảo là ông muốn đi bộ. Có thể là ông có ư cho tôi chạy vào trước để báo cho đại tá Ân, tôi đoán thế.
Tôi vội vă lái xe chạy vào BCH la lớn cho Đại Tá Ân và mọi người biết: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tới thăm chứ không phải phi hành đoàn.
Tất cả vội vă mặc áo và sửa soạn lại tấm bản đồ
lớn được treo trên bảng đen (của lớp học). Tôi xếp mấy chiếc ghế lại
cho ngay ngắn. Khi Đại Tá Ân chưa kịp bỏ áo vào trong quần thi Tướng
Trưởng đă bước vào pḥng. Anh chỉ c̣n kịp đứng nghiêm hô to: “vào
hàng, phắc” rồi đưa tay lên chào.
Tướng Trưởng trông khá mệt mỏi, ánh mắt h́nh như bị mất ngủ. Ông hỏi
với một giọng buồn bă:
- T́nh h́nh thế nào em?
Đại Tá Ân đưa cây que chỉ bảng lên tấm bản đồ,
định tŕnh bày t́nh h́nh, th́ Tướng Trưởng đưa tay ngăn lại. Ông chỉ
nói một câu ngắn ngủi:
- Phải cẩn thận. Đừng để hao tốn sinh mạng của anh em một cách vô
ích.
Sau khi đưa tay bắt từng người có mặt trong TTHQ,
Tướng Trưởng cho biết ông không có nhiều th́ giờ v́ chỉ mượn được
trực thăng trong một thời gian ngắn, và bảo Đại Tá Ân lái xe chở ông
sang thăm ông Quận trưởng Cần Giuộc. Tôi gọi toán cận vệ lên một xe
jeep khác chạy theo, nhưng Tướng Trưởng khoát tay, bảo không cần.
Sau này Đại tá Ân cho biết, anh Trung tá Quận Trưởng này cũng là một
thuộc cấp được Tướng Trưởng tin cậy và quí mến, thời Ông c̣n làm Tư
Lệnh QĐIV.
Cả đại tá Ân và chúng tôi không biết lúc ấy Tướng Trưởng giữ chức vụ
ǵ. Chỉ biết là ông đến thăm anh Ân và dặn ḍ đôi điều. Anh Ân cũng
cho biết là chưa từng làm việc dưới quyền Tướng Trưởng, có lẽ ông
chỉ nghe nói đến anh Ân “người hùng trong trận chiên Ban Mê Thuột”,
nên đến thăm và khen ngợi anh như từng khen ngợi những sĩ quan,
những đàn em xuất sắc của ông ở Quân Đoàn I, nơi có nhiều cấp chỉ
huy lỗi lạc với cái tên chỉ có hai chữ như anh (Vơ Ân): Lê Huấn, Vơ
Toàn, Vĩnh Dác, Hoàng Măo, Nguyễn Hóa,Vơ Vàng...
Tôi gặp và biết anh Ân lần đầu tiên vào khoảng cuối năm 1972, khi
anh mang cấp bậc trung tá, dắt một tiểu đoàn thuộc Sư Đoàn 22BB, từ
B́nh Định lên tăng cường cho Trung Đoàn 44BB chúng tôi, để giải tỏa
Trung Nghĩa, một ngôi làng Công giáo, dưới sự chỉ huy của một vị
linh mục, quyết tử chiến với Cộng quân, nhưng v́ không đủ hỏa lực
nên bị một lực lượng địch cấp tiểu đoàn chiếm hơn nửa làng. Một trận
chiến phức tạp, khốc liệt, và cuối cùng anh đă chiến thắng ngoạn
mục. Bằng một lối đánh giặc rất đặc biệt, xử dụng toàn súng cối 60
ly thay cho Pháo Binh và phi yểm.
Sau nhiều lần tấn công bất thành, do lực lượng địch trú ẩn bám trụ trong các giao thông hào kiên cố và chống trả mănh liệt. Lệnh của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tránh tối đa việc xử dụng phi pháo có thể gây thiệt hại cho khu nhà thờ và nhà cửa của dân chúng. Hơn nữa, Pháo Binh khó cận yểm v́ khoảng cách giữa địch và dân quá gần, tiền sát viên của ta khó tiếp cận để điều chỉnh cho thật chính xác.
Anh lệnh cho các đại đội tạm rút ra, lựa chọn các binh sĩ trẻ và có năng lực tác chiến, chỉ trang bị súng nhẹ, không mang theo ba lô, chia thành nhiều toán nhỏ, làm lực lượng xâm nhập, tấn công. Các binh sĩ lớn tuồi hay yếu kém theo sau, làm lực lượng tải đạn, tản thương và án ngữ. Anh tâp trung cơ hữu và xin chúng tôi tăng cường thêm cho anh nhiều súng cối 60 ly (ít được các đơn vị xử dụng) với đầy đủ đạn dược, cùng một số xạ thủ có kinh nghiệm về loại vũ khí này. Tôi được Đại Tá Phùng Văn Quang, Trung Đoàn Trưởng 44, chỉ định đảm trách công việc này. Anh và tôi cùng hướng dẫn cấp tốc các tiểu đội trưởng cũng như xạ thủ, điều chỉnh súng cối từng mét một. Khi các tiểu đội ḅ vào tiếp cận các hầm hố của địch, đích thân anh điều động trên 20 khẩu súng cối 60 ly tác xạ theo sự điều chỉnh của các tiểu đội trưởng. Kết quả thật không ngờ. Địch quân bị tiêu diệt bởi các khẩu súng cối 60 ly này, số c̣n lại bị thương và bị bắt sống, bên ta không có binh sĩ nào tử thương.
Sau trận chiến, trước khi trở về đơn vị gốc, anh gọi tôi ra ăn bữa cơm chia tay, cùng với vài sĩ quan của anh ngoài tiệm Thiên Nam Phúc. Và có lẽ do chiến công này, chỉ một thời gian ngắn sau đó anh được thuyên chuyển về Sư Đoàn 23 BB để giữ chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 53 thay Đại Tá Trần Văn Chà. Sau này, tôi cũng được nghe kể lại, anh Ân là người chưa từng giữ cấp “phó” bao giờ.
Anh tốt nghiệp Khóa 12 Thủ Đức, là người thăng
cấp trung tá sớm nhất và cũng là người duy nhất của khóa mang cấp
bậc đại tá . Hầu hết những sĩ quan giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng dưới
quyền, đều là khóa đàn anh, có người xuất thân trường Vơ Bị đồng
thời với anh. Nhưng tất cả đều nể phục và kính mến anh.
Ngày 30-4-75, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chúng tôi đang
quây quần trong pḥng học được dùng làm TTHQ. Đại Tá Ân gục đầu
xuống bàn. Tất cả im lặng. Cái im lặng thật rợn người. Có lẽ trong
đầu mỗi người đang suy nghĩ về một điều ǵ đó. Tôi bước lại ôm vai
anh. Trung Tá Phùng lệnh cho gọi tất cả anh em tập họp trước sân
trường để nghe anh Ân ra lệnh lần cuối cùng. Anh cám ơn, bắt tay và
ôm từng người, chúc tất cả trở về an toàn và gặp lại gia đ́nh. Anh
cũng ra lệnh phá hủy tất cả các loại súng ống trước khi rời vị trí.
Anh bảo tôi tâp trung tất cả tài xế lái các xe GMC khả dụng chở anh em về cầu chữ Y. Không đủ xe, tôi chạy đi mướn thêm hai chiếc xe đ̣. Tôi nghiệp hai anh tài xế đến giờ này vẫn c̣n chí t́nh với lính, t́nh nguyện chở giúp bọn tôi về đến Sài g̣n. Tôi đưa anh về nhà (chị Ân thuê để cùng các con tạm trú ở đây, sau khi theo đoàn quân di tản từ miền Trung). Anh bắt tay tôi thật chặt, nh́n tôi rồi bỗng nở một nụ cười, như chưa hề có chuyện ǵ xảy ra:
-Mi về xem vợ con ra sao. Cẩn thận hỉ.
Tôi nh́n anh, chưa biết nói lời ǵ để an ủi anh, th́ lại nghe tiếng anh đùa:
-Que sera sera! Chừ tau chỉ tội nghiệp cho vợ con, c̣n tau th́ phó thác số phận cho ông trời!
Tính anh là vậy đó, lúc nào cũng bất cần, cũng
cười đùa, mặc dù trong ḷng đang rối như tơ ṿ.
Chia tay anh, tôi bước đi mà nước mắt lưng tṛng. Bước chân nhẹ tênh
như không c̣n cảm giác, và trong ḷng bây giờ dường như chỉ là một
khoảng trống mênh mông!
Anh bị tù hơn 14 năm. Sang Mỹ cùng gia đ́nh năm 1992 theo diện HO,
và chỉ vài năm sau anh qua đời tại Florida, do bị đột quỵ (tai biến
mạch máu năo). Có lẽ do hậu quả từ những cơn say và nhiều đêm mất
ngủ. Anh dùng rượu để có thể tâm t́nh với hư vô, với những đồng đội
đă vĩnh viễn nằm lại ở đâu đó trên các chiến trường xưa, và đă ân
hận v́ không trả được món nợ máu xương này cho họ.
Anh ra đi, nhưng không hề chết. Tên tuổi Vơ Ân
vẫn c̣n vang vọng măi trong tâm khảm của mọi người đă từng quen biết
và sống chết cùng anh. Lịch sử dân tộc chắc chắn c̣n ghi đậm tên
anh. Một người lính đă sống hết ḷng với đồng đội anh em, và chiến
đấu bằng tất cả danh dự cùng cả trái tim ḿnh.
Phạm Tín An Ninh
(40 năm sau ngày tan đàn xẻ nghé)
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
42 năm t́nh
cảm đồng môn
42 Năm T́nh
Chúc mừng hội ngộ
Tôi và Tiểu Đoàn 7
TQLC
Thơ gửi Đại Gia
Dấu ấn vào đời
USA 20 năm và Tôi
Hăy c̣n đó niềm
tin
Pleiku và hoài
niệm
Kư sự
những ngày tháng 2
Một mảnh đời
Xuân quê hương
Một chuyến về
thăm nhà
Tết đến
Một buổi
chiều, hai người già
Đời người như
thoáng mây bay
Mùa lá thay màu
Hồi tưởng về
một cánh Dù đơn lẻ
Bất Khuất của tôi
Nó và Tôi
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Về từ Tân Cảnh
Cô đơn và ước mơ
Trên đồi cao
Phạm Thị
Thàng - Nữ anh hùng đất G̣ Công
Bạn cũ năm mươi năm
Hương xưa ngày ấy
Đại Bàng gẫy cánh - F5
Sự thật đời tôi / Trung Tướng Trần Văn Minh
Thèm
Sao chổi
Đừa con dâu
Đại đội 17 "Hoàng Gia" 1
-
2
Sau cuộc biển dâu
Những người lính Dù
Tiễn nhau ngàn dặm cũng chia phôi
Tấm Poncho
Người bạn học và
ông thầy cũ
Mối hận ngh́n trùng!
Những mùa Trung Thu
Tấm ảnh hai người
lính
Tin quan trọng gửi
đến các anh em TPB ở Việt Nam
Chim bay về biển
Văn chương
Việt Nam và chữ “Y”
Hạnh phúc và bất hạnh
Chữ "Tín"
Nếu ngày ấy...
Thuận An
Thôi ! Ḿnh
về Linh Xuân Thôn, đi em !
Văn hoá phương Nam
Thức tỉnh
Sự xâm lăng văn
hóa của việt cộng
Tác giả
“Những Đồi Hoa Sim” đă chết trên đồi hoa sim
Hành trang và lư
tưởng
Góp nước miếng
húp chung
Đêm chờ sáng 1975
Thuốc lào trong tù....
Người chồng một đêm
Khóa 8 B+C/72
SQTB/Thủ Đức họp mặt
Trở về cố hương
Trôi theo ḍng đời
Ngộ chiêu
T́nh người
trong cuộc chiến
Khóc bạn
Cư An Tư Nguy
Con c̣n nợ ba
Không Quên những người Chiến Sĩ QLVNCH
Những
người chiến sĩ đáng hănh diện
Nắng chiều vẫn đẹp
Hạnh phúc vẫn
long lanh
Con Trâu đâu có cải tạo
Nhớ nhà
Bác sĩ trong tù
Nhà bốn anh em
Tháng Sáu và Tôi
Chuyện về một cô gái
Chuyện một người mang tên Nguyễn Thị Di Tản
Cái giường đôi
Ưu việt nhất !!!
Hậu nhân trả lời VC
Huỳnh Tấn Mẫm
Chúng tôi vẫn sống
Bọt không cần vớt
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Ḥa, Chuyện kể từ đầu
Làm sao để chôn hai Chế Độ?
Cà-phê lính
Cuộc trùng phùng
bi thảm
Tuổi trẻ nghĩ ǵ ?
Tiển con
Nhớ anh linh Anh
hùng Nguyễn Ngọc Trụ
40 năm nhớ về
C̣n đó niềm đau
Viết cho con cháu
Tưởng nhớ bác Thái Văn Kiểm
Người bạn thân
Người già cả, người bệnh tật
Người tỵ nạn và
Việt kiều
Sự ra đi
của hai vị Tướng Tư Lệnh
Nhạc Sĩ Thục Vũ
Câu chuyện
của Nguyễn Thị Thái Ḥa
Một thoáng Pleiku
Bạn đồng môn khóa 2 CSQG
Quân đội bị quên
lăng của Việt Nam Cộng Hoà
Nhạc sĩ Lê
Trạch Lựu và bài hát Em Tôi
Bắc Kỳ
Văn chương trào
phúng truyền khẩu
Mậu Thân Huế – Nhân chứng sống
Kỷ niệm với Hồ Ngọc Cẩn
Điều c̣n lại sau
40 năm
Thương
Tiếc những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù
Anh là áng mây trôi
Tâm thức
người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc
Rợp bóng cờ
Trên núi Hoàng Liên
Kư ức mùa Xuân
Để tưởng niệm một
người Anh
San Jose, năm hết tết
đến
Valentine trong di sản Chiến Tranh
T́nh như gió thoảng
Thằng Thời
40 năm cuộc sống người thương phế binh VNCH
Ăn Tết thôn quê
Hạt bụi nào trong mắt
Giọt nắng cho người
Gặp tướng Ngô Quang Trưởng Lần Cuối Cùng...
Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam VN
Quê Hương, chùm khế ngọt
Quả tim người tử tù
Anh hùng Ngụy Văn Thà
Người ở lại Hoàng Sa
Trận Hoàng
Sa, biểu tượng hội tụ ḷng yêu nước
Ngày 19-01: Tưởng Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Em gái hậu phương Dạ Lan là ai?
Hồi kư Việt Nam
Để nhớ một thời áo trận
Con dao xếp trong ngày Tết Tây
Người về từ Đại Dương
Lễ Tưởng Niệm Tử
Sĩ Hoàng Sa
Lăo Mốc
Lên núi t́m chồng
Bài vở cũ 2014
Bài vở cũ 2013
Bài vở cũ 2012