Thầy Chín

 

Thằng Hai cầm đồ cắt móng tay, đi lại gần Thầy Chín:

- Thưa Ba, cho con cắt móng tay.

- Ờ, con cắt giúp giùm Ba.

Thầy Chín dễ dãi đưa bàn tay ra cho con.

Dựa người vào lưng ghế, Thầy nheo nheo đôi mắt ngó cái đồng hồ treo trên tường:

- Mấy giờ rồi, Hai, ...hình như đã chiều xuống rồi phải không con !

Thầy Chín thường hay quên là mắt mình đã kém nhiều rồi, đến lúc nhìn không thấy rõ mấy con số trên mặt đồng hồ, mới quay sang hỏi con cháu giờ giấc. Thằng Hai nhìn theo ánh mắt của cha đang bâng khuâng dọ dẫm bên ngoài khung cửa. Đây đó trên sân còn vương những chiếc lá đã thâm úa.

Lòng người con nghe trĩu buồn:

- Dạ, gần bốn giờ, Ba ạ!

- Vậy mà, Ba thấy như đã đến giờ tan sở!

Thằng Hai định nói với cha, ngày nơi đây còn đang ngắn, ngày ngắn cho đến hết mùa đông; nhưng chợt nhớ, Thầy Chín vừa nhắc đến mấy chữ ''giờ tan sở", nên thôi, không nói gì thêm.

Thầy Chín đã quen, hay dùng nhóm chữ "giờ tan sở", dù mình đã bỏ nhiệm sở, rời trường lớp, về nông thôn làm ruộng.

Thằng Hai thấy xót xa ái ngại, biết là cha mình đang nhớ quê hương; nhớ nơi có mồ mả của tổ tiên, có hàng xóm láng giềng đầy chân tình đùm bọc lẫn nhau. Thầy Chín nhớ đất nước Việt Nam ngày xưa của Thầy lắm. Nhớ cái thời còn được đi dạy học, nhớ trường lớp, nhớ những đứa học trò, nhớ những bài công dân, lịch sử...

Cầm mấy ngón tay của cha, thằng Hai nghe xót xa trong lòng. Thời gian, tạo hóa, cuộc đời đã khắc nghiệt chay khô lớp da, khúc khuỷu các lóng xương tay của một người vốn là thầy giáo, học sinh với thỏi phấn, cây viết.

Hồi còn được đi học, khi hay tin cha qua đời đột ngột, Thầy Chín phải từ giã thầy lớp. Bỏ dở dang kỳ thi cuối năm, cậu học trò chuyển sang học cầm cái cày, học cuốc đất làm vườn, làm ruộng để phụng dưỡng mẹ.

Rồi chiêu bài "yêu nước" lại được nhà cầm quyền treo lên cùng với lá cờ đỏ sao vàng. Tiếng kèn thúc quân "bảo vệ dân tộc" đã lừa lọc dân làng, thúc đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc xả thân vào cuộc chiến tranh ruột thịt tương tàn. Những khẩu hiệu sắt máu cột treo khắp đường phố, cùng với lời "thề phanh thây uống máu quân thù" trong quốc ca, đã biến các thế hệ Việt Nam thành những con thiêu thân lao vào lò lửa, phục vụ cho tham vọng bá quyền của cộng sản Nga và Tàu. "Cách mạng" càng ngày càng lộ rõ ra bộ mặt thật của chủ nghĩa cộng sản đầy man trá, hủy diệt nhân tính cùng nghĩa tình dân tộc. Đêm đấu tranh, đấu tố đồng bào; ngày phơi xác người bị đảng thanh trừng để đe doạ dân lành.

Thầy Chín may mắn đưa mẹ trốn thoát về thành và chọn làm thầy giáo. Một chức nghiệp mà Thầy yêu thích và rất quý trọng, cho đến khi thủ đô Sài Gòn bị đám quân gọi là "cách mạng" cướp đoạt và cưỡng ép phải mang tên cái xác họ Hồ.

Từ đó, chương trình giáo dục đầy tính nhân bản, dân tộc và khai phóng của miền Nam tự do cũng bị nhuộm đỏ bởi chủ thuyết cộng sản bất nhân, vô tổ quốc, cưởng ép bạo ngược. Thầy cô bị chế độ cộng sản cầm quyền buộc phải làm ngơ, để giảng dạy những điều trái với lương tâm chức nghiệp. Họ phải dạy trẻ thơ tập làm toán với các đề tài bắn giết lếu láo và xác người. Họ phải uốn lưỡi để lấp liếm sự thật, phải ngậm miệng dối lòng để đầu độc tuổi thơ với các loại bài học đã bị đảng bóp méo vo tròn sai lịch sử của dân tộc. Họ phải tiếp tay với cộng sản nhồi sọ trẻ thơ để trồng người cho mưu đồ trăm năm của bạo quyền.

Thầy Chín thường xuyên khai bịnh để tránh đi dạy học!

Gom được một mớ giấy chứng của y tá, kẹp cùng với cái đơn, Thầy lọc cọc đạp xe lên Ty để xin thôi việc, xin thôi làm thầy giáo.

Ty Tiểu Học, cũng những tường vách quen thuộc này, nơi mà Thầy và đồng nghiệp, vẫn thường trở về để họp hành, hàn huyên. Nơi đây, khung cảnh sao bổng dưng trông xa lạ, thật ngỡ ngàng.Trên các bàn làm việc hầu như đều có máy phát thanh ra rã kêu léo nhéo các thứ tin hay loại nhạc gọi là "cách mạng". Lúc này, một giọng nữ đang oang oang đọc cái gì đó của đảng, của nhà nước. Chữ nghĩa của cái gọi là "nhà nước" bây giờ là những thứ ngôn từ: cờ, sờ, vờ, nờ... lờ mờ; cùng với những thứ chữ bị cắt, bị ghép, bị chế biến một cách thật kỳ lạ, ngờ nghệch, bất kể văn phạm. Các thứ ngôn ngữ khó hiểu, nghe chướng tai ấy được lập đi lập lại với giọng điệu kiêu hảnh.

Ngước nhìn quanh tường vách trong căn phòng, chừng như trời cũng vừa đổ mưa trong đây. Thầy chợt thấy không gian quanh Thầy cũng mờ mịt màu cờ đỏ!

- Kiếm ai?

Tiếng hỏi khô cộc không dấu diếm bực dọc, làm Thầy Chín thức tỉnh và nhìn xuống người hỏi. Không biết, vì trời nóng nực hay đây là một cung cách làm việc của những loại con người mới; loại con người đã được cách mạng hóa. Thơ ký mới của Ty Tiểu Học, người phụ nữ trong bộ đồ vải đen, kéo cái chéo khăn rằn quấn trên cổ, quẹt quẹt mồ hôi trên mặt, giương ánh mắt nóng nảy chờ câu trả lời.

Nghe Thầy Chín muốn gặp Trưởng Ty; chẳng cần hỏi lý do, cũng chẳng cần nhiều lời, cô gái hất mặt hướng về cái phòng bên trong, gọn lỏn:

- Đó!

Phòng Trưởng Ty, cửa không đóng, tiếng nói cười ồn ào vang ra bên ngoài. Một nhóm người đang lúm xúm trong phòng. Họ mặc áo tay ngắn, bỏ ngoài quần lè phè, lếch thếch, chân mang "dép râu". Có người ngồi rút một chân lên mặt ghế. Có người ngồi chồm hổm hẳn trên ghế dựa. Họ bình thản phì phà thuốc lá, cười nói oênh oang, khinh thường sự hiện diện của người khác. Kẻ xưng danh là Trưởng Ty Tiểu Học, chẳng màng bỏ chân xuống để đi lại bàn làm việc. Hắn ta không thèm đọc đơn từ, chỉ lơ đểnh hỏi qua lý do xin nghỉ dạy học. Quay trở lại góp chuyện với đám bạn thêm một lúc, rồi hắn mới cho Thầy Chín biết rằng: "cách mạng" quyết định tịch thu tiền hưu trí vì nghỉ dạy.

Đã từng biết quá rõ về bọn xưng danh là cách mạng yêu nước này, từ thời Thầy Chín còn tham gia Thanh Niên Tiền Phong; khi chúng nó muốn thì không thiếu lý do để chúng nó cướp lấy tài sản hoặc tính mạng con người....

Thầy Chín chấp nhận!

Thế là xong!

Thầy Chín đã trang trọng để lại thỏi phấn trắng bên cạnh cái bảng đen. Nhận chịu hình phạt là bị tịch thu trọn phần hưu bổng của một công chức có thâm niên đến Thượng Hạng Ngoại Hạng sau ba năm.

Thầy Chín không vui lòng làm nghề thầy giáo trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa!

Thầy chấp nhận rời nhiệm sở, mà không được phép sờ đến một đồng xu của mình đã chắt chiu dành dụm trong quỹ hưu trí từ khi làm thấy giáo, suốt hơn hai mươi tám năm qua.

Biển dâu!

Có ngờ đâu, bỗng dưng trở nên vô nghề nghiệp, trắng tay.

Lắm người cười, nói Thầy Chín thiếu thức thời, chỉ tự rước khổ vào thân.

Họ rất đúng!

Không những Thầy Chín bị khổ thân, mà vợ của thầy cũng khổ lây.

Ở đâu và ở thời nào, con người cũng gặp lúc khổ tâm hay khổ thân xác. Làm dân sống trong xả hội bị cai trị bởi đảng cộng sản như thế này, ngoài nỗi khổ vì miếng cơm manh áo người ta còn bị khổ vì sự sỉ nhục, khổ vì không được sống như một con người, như mọi người. Người dân bị biến thể thành một thứ đầy tớ mới của thời đại xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, những đầy tớ mới lại được tặng cho danh xưng cao cả là "người chủ đất nước".

Thật là một sự mỉa mai kỳ đị và cay độc!

Mất việc, vợ chồng Thầy Chín đành bán đồ đạt mà về nông thôn. Bán cây đàn banjo, kỷ niệm của thời còn trai trẻ. Bán đôi nhẫn cưới. Bán bộ lư hương trên bàn thờ, nhưng Thầy Chín cương quyết không bán chữ Tâm. Thầy Chín tâng tiu, gói cất đôi giày bị chê là đã quá mòn đế, không bán được. Thầy Chín vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó còn cơ hội mang lại, đi cùng anh em bè bạn trên lối xưa đường cũ.

Chất mớ đồ đạt còn sót lại lên chiếc ghe tam bản, mượn của hàng xóm. Chồng chèo, vợ bơi phụ. Lần theo con nước, bờ sông, suốt ngày dài. Hai vợ chồng Thầy Chín nhờ trời thương đất độ, nên cũng về đến bến nhà. Từ nay, Thầy Chín cầm lại cái cuốc, làm người nông dân ngờ nghệch, dốt nát chữ nghĩa và rất là mãn nguyện với cái nghề nông của mình; thà dầm mình trong bùn dơ nước đục, mà tạo được hạt gạo trắng sạch để tự nuôi cuộc đời còn sót lại.

Nắng về chiều tuy đã dịu bớt, nhưng cái chói chang vẫn còn trãi lấp lánh trên mặt nước lăn tăn gợn nhẹ sóng. Không khí như lười di động. Cái oi nồng làm người và vật như mệt mỏi hơn sau một ngày vất vả việc đồng áng.

Ông lão ngồi dựa gốc cây phe phẩy nón quạt, nhìn con trâu đang rảo bước ăn cỏ. Nghĩ rằng, chắc nó cũng nóng bức khó chịu như mình. Ông lão đứng dậy đi xuống mé ruộng lấp xấp nước, lấy tay vốc nước hất lên mình con trâu. Chẳng màng cho lắm đến những cụm nước như màn mưa đang rơi phủ trên thân mình, con trâu thở phì phò, uể oải tém nhúm cỏ vào miệng, chậm rãi nhai đôi hàm qua lại. Chừng như thấy đã đủ mát cho trâu, ông lão ngưng tạt nước, lội trở lên trên bờ.

Tay xách theo cái ấm nước, tay lấy cái khăn vải mỏng in sọc đen xám ngang dọc trên vai, vừa đi vừa lau cho khô nước trên mặt, ông lão rảo bước sang đám ruộng nhỏ bên cạnh. Bắt tay làm loa gọi vọng về hướng có hai cha con hàng xóm đang lom khom cuốc để trở đất:

- Thầy Chín ơi!

Hai cha con ngoài kia nghe gọi, ngưng tay, chống cuốc hướng về tiếng gọi. Nhận ra người quen, Thầy Chín vẫy tay chào ông lão:

- Về nghỉ hả anh Một ?

- Dạ chào bác Một! Thằng Hai tiếp lời cha, chào ông lão.

- Mệt chưa cháu!

Lão Một thân thiện thăm hỏi thằng Hai, rồi khom xuống lấy cái ấm nước đưa lên cho hai cha con dưới ruộng thấy:

- Còn ấm trà đây!... hai cha con nghỉ tay đi mà,… lên uống miếng nước với tui, Thầy ơi.

- Cám ơn anh Một, cha con tôi lội lên đây !

Ngó thửa đất cuốc dang dở, Thầy bàn tính với con:

- Chắc cũng phải một ngày nữa mới xong ! ... Chiều rồi con, thôi mình lên uống miếng nước với bác Một, rồi con còn phải đạp xe về kẻo tối quá. Ráng giữ mình với chúng nó, con à.

Lấy nấp ấm nước làm chén uống trà.

Thằng Hai không có kinh nghiệm, nên chỉ ngồi lắng nghe Lão Một và Thầy Chín bàn chuyện ruộng nương với nhau, hơn là góp ý.

Lão Một tuổi cao hơn Thầy Chín cả con giáp. Tóc râu Lão Một đã bạc trắng và chỉ còn sót lưa thưa sau ót. Thân người Lão Một gầy dẹp, nhưng cử động vẫn còn nhanh chắc và gọn gàng. Hồi còn trẻ, sau lần vật ngã Tư Cò của đám chăn trâu ở ngang sông, dân làng trong ngoài truyền miệng nhau câu chuyện và rất nể nang Lão Một.

Tư Cò không có chút nào giống như cái tên mang cái hình dạng của loài chim trắng, khoan thai vươn cái cổ ốm dài mò cá, mò tôm ở ngoài đồng ruộng. Ngược lại, da nó thì đen ngâm, dáng người vạm vỡ. Cho nên, dân làng hay gọi Tư Cò là Tư "Cui", ám chỉ cái sức mạnh và vóc váng của con trâu, trâu cui. Gọi là Tư Cui lâu ngày rồi, người ta như quên mất cái tên Cò của cha mẹ đã đặt cho anh ta.

Vừa nhập trận, Tư Cui ra đòn ngay tức khắc, quờn tay bấu ghịt cổ đối thủ. Lão Một gặp đối thủ to lớn, biết mình không phản đòn nhanh lẹ thì nguy khốn, bèn đảo nhanh hai tay đánh phá bung cái khoá của Tư Cui. Khi hai tay cuộn vòng trở vào trong thì Lão Một đã chuyển sang phản thế; khoá và bẻ lọi hai chỏ của Tư Cui. Giữ chặc khoá tay, Lão Một gài chân lên, xoay người chịu hông, quăng vật Tư Cui xuống. Nhưng thân người của Tư Cui vừa to lớn, vừa nặng và có lẽ Lão Một đã không đủ nhanh khi phản thế, nên Tư Cui đã kịp chịu đòn và ghị lại.

Thấy vậy, Lão Một bèn đảo ngược vòng tay, buông đối phương và lẹ chân nhảy lùi ra, không cho Tư Cui chiếm cơ hội tiếp tục phản thế.

Nhập trận tiếp, lần này tay Tư Cui vừa vớ lấy cổ của Lão Một, đã kéo vít đầu Lão Một vào mình rồi vòng tay lên cặp khóa cổ đối thủ vô hông. Tư Cui có ý nâng thân người Lão Một lên, để rồi đập đối thủ xuống sàn đình. Lão Một người nhỏ hơn Tư Cui cả hơn cái đầu, bị loạng choạng, nhưng vẫn cố ráng trụ người ghị giựt ngược lại. Tưởng dễ thắng, không ngờ gặp đối thủ nhỏ thó mà cứng lì.

Tư Cò từng tự hào với cái tên Cui được dân làng tặng thưởng, nên thấy mình bị mất mặt với đám đông lắm!

Nóng giận quá, Tư Cui bèn ráng sức kéo mạnh Lão Một. Đang ngã người ra sau, cố nhấc đối phương cao lên cho hàng xóm biết cái sức của mình, bất chợt Tư Cui bổng thấy Lão Một trở nên nhẹ hỏng. Biết mình trúng kế của Lão Một, nhưng quá muộn màng; Tư Cui bị chới với, loạng choạng. Đang ráng gắng gượng để trụ người đứng chưa vững thì Tư Cui lại thêm kinh hoảng khi nghe tiếng hét cướp tinh thần của Lão Một. Cùng lúc với tiếng hét, toàn thân người Lão Một chớp nhoáng phóng bật tới, húc mạnh vào Tư Cui.

Đang mất thăng bằng lại bị húc.

Huỵch !

Tấm lưng dềnh dàng của Tư Cui đập lên nền gạch nghe như người ta quăng cái bao gạo xuống sàn đình.

Tư Cui té ngữa và trợt dài ra sau, nghe đau rát khắp mảng lưng. Gắng gượng nhóng giữ cho cái ót đừng bị đập vỡ, chưa kịp hoàn hồn vía thì Tư Cui loáng thoáng thấy cái bóng của Lão Một nương đà, đã lộn tròn ra phía sau đầu của mình. Trong chớp mắt, Lão Một khóa chặt đầu và cánh tay của đối thủ. Tư Cui bị đau tối tăm đầu óc, không nghĩ ra cách phá gỡ cặp đầu gối và đôi tay khóa thật khéo của Lão Một thì Lão Một lại nhóng người cao lên thêm, làm cái đau chói lói càng kinh khiếp hơn ở khớp chỏ. Toàn thân Tư Cui như hoàn toàn tê liệt, rũ cả người xuống, buông xụi cánh tay còn lại trên sàn gạch, nhăn nhó kêu lên xin thua.

Lão Một thả tay ra, nhảy lùi nhanh ra phía sau, đứng nhìn Tư Cui chờ đợi.

Tư Cui ôm cánh tay của mình, xoa bóp nơi khớp xương còn đau nhức, lắc đầu không chịu đấu tiếp.

Sau trận đấu vật, Tư Cui phục tài và cảm mến Lão Một, hay kéo đám bạn bơi sang chơi với đám chăn trâu của Lão Một.

Giặc đến làng của Thầy Chín. Đội tiền phong của làng thành hình. Hầu hết, họ là thanh niên trai trẻ nông dân. Ngoại trừ bầu nhiệt huyết, chẳng mấy ai biết quân sự quyền cước gì cả; vậy mà họ vẫn tay dao tay gậy hăng hái đi đánh Tây. Rồi dân ở tận làng trong cũng kéo sang giúp sức, trong đó có Lão

Một và Cui. Hễ rảnh rỗi, Lão Một kéo dân làng ra, dạy cho đánh côn và mã tấu.

Khi được hỏi nhắc đến chuyện luyện võ, Lão Một vỗ đùi cười khoan khoái :

- Thầy Chín dạy anh em tụi tui chữ quốc ngữ là chữ thứ thiệt, còn cái thứ võ nghệ của tui chỉ là giả bộ! Tui bày đặt cái vụ tập luyện võ nghệ là để cho vui thôi, với lại cho bà con mình có mà lên tinh thần mà đánh giặc, chứ tui nào có biết võ nghệ với lại võ hành cái gì đâu! ... Thầy dạy võ cho tui là đám bạn chăn trâu, là đào kép, là mấy ông thầy bán thuốc cao đơn hoàn tán.... Không biết sao, cái vụ học chữ, tui vừa lười, mà lại chậm nhớ quá !..

Lão Một cầm cái nấp nước trà, uống rồi đẩy ấm trà sang mời mọi người, nhắc tiếp chuyện:

- Thiệt tình, nhiều anh em trong làng đọc được chữ. Thằng Mẹo còn biết chép mấy câu Kiều trong sách của Thầy để đọc cho con đào nó nghe. Thiệt tình, tui thấy Thầy Chín cũng hết hơi hết sức với tui, vậy mà tui chỉ đọc lõm bõm... Chữ nghĩa tới giờ cũng còn ba mớ lắm! Nhưng mà, hễ bắt chước đánh vật thì tui y như là có khiếu hơn, Thầy ơi!

- Thầy biết mà, hồi nhỏ đi giữ trâu, cả ngày ngoài đồng, bọn tụi tui phải kiếm cái gì đó chơi cho vui chớ!... Hết trò chơi, học lóm nhớ gì thì cứ bày ra trò câu cổ "oánh" vật với nhau cho vui vậy mà.

Lão Một vuốt cái trán trần, cười móm hủm hĩm, hạ giọng:

- Nói chứ!... có khi nổi nóng, thì cũng có oánh thiệt vậy!

Ngó chừng sang con con trâu bên dưới ruộng, Lão Một miên man trở về với thời trẻ nhỏ:

- Hễ mà có gánh hát đến, tụi tui rủ nhau lùa trâu ra ngoài đình cho ăn. Thay phiên nhau, vài đứa giữ trâu. Cái đám còn lại, hết cả đám chui vào phía sau đình để coi tập tuồng. Thấy cái gì hay hay, lạ lạ, thì bắt chước. Bọn tui chặt cây làm côn làm đao, đánh nhau u đầu sứt trán, vậy mà vẫn cười vui. Có điều, Cậu Mợ thấy tui bị thương tích lại sót ruột, bắt tui cúi xuống quất thêm cho mấy roi rát cả mông, rồi mới lôi tui dậy thoa dầu xức muối cho. Tui khoanh tay xin lỗi, hứa chừa. Vậy rồi mấy hôm sau tui lại bị sưng bầm, đi khấp khểnh. Riết rồi, thì Cậu Mợ tui hết thèm thăm hỏi hay đánh khảo tui làm gì cho mệt nữa. Nhưng có hôm, mặt mày tui u có cục, miệng sưng méo mó coi tệ quá nên tui đâu dám vô nhà gặp Cậu Mợ. Tui ra lảng vảng ở ngoài chuồng trâu rồi ngủ ở ngoài đó. Cậu Mợ tui, con cái thì nhiều, chiều về lo miếng ăn cho cả nhà, lo cho Út Chị và Út Em là ổng bả đủ bù đầu óc rồi.... giống như là không cần thiết coi tui có mặt hay không. Chỉ cần thấy sáng trâu đi, chiều trâu có về, ổng bả biết là tui còn sống và chơi quanh quẩn đâu đó là yên tâm rồi!

Thằng Hai thấy cái sống của những anh hùng vô danh sao giản dị, mà cao cả tuyệt vời quá.

Trước nhục nước, Hội Diên Hồng, không hòa, thề quyết chiến, liều thân. Họ ra đi hy sinh mạng sống, giữ nước bảo vệ làng xóm, bình thản như đi làm ruộng, dẫn trâu ra đồng, như bế con, gồng gánh bán buôn.

Bên cạnh xác chồng và thùng lựu đạn. Tay vung lên, chị Phạm Thị Thàng tung từng quả đạn ra ngăn chận biển người của giặc Cộng. Tiếng nổ lấn át cả tiếng khóc của trẻ thơ. Người vợ lính nghĩa quân thủy chung và chiến đấu dũng cảm ở Đồn Giồng Riềng, đã dành lại trái lựu đạn cuối cùng cho chính mình và hai đứa con.

Xong mùa lúa, thằng Hai cũng không còn về làm ruộng.

Nó rời xa Thầy Chín, Lão Một và quê hương; không bao giờ còn cái dịp để đạp xe trở về, uống miếng trà nguội trong cái nắp ấm với Lão Một.

Hương vị trà chát nguội lạnh, nhưng đượm thấm nghĩa tình, không sao quên được.

Lau sạch chút bụi vụn vương trên móng tay, thằng Hai để bàn tay của Thầy Chín xuống:

- Dạ xong rồi Ba. Bây giờ Ba cho con cởi vớ để cắt móng chân.

Nhìn con ngồi trên nền nhà, Thầy Chín khom người xuống, đưa tay vuốt tóc con, thăm hỏi:

- Hai à, năm nay con bao nhiêu tuổi, mà sao tóc con bạc hết rồi vậy con?

Thằng Hai ngước nhìn Thầy Chín, khẻ cười và nói cho cha an tâm:

- Dạ, chắc tại tóc của con bạc sớm đó Ba !

- Ờ,... Ba cũng không nhớ tóc Ba nó bạc tự lúc nào...

Bỏ dở câu nói, Thầy Chín dựa người vào thành ghế yên lặng, mắt vẫn ngó theo mấy cái lá còn sót lại trên cành cây trơ trụi đang chao mình rơi theo cơn gió đông bên ngoài khung cửa.

Ký ức, như là một lối đi xưa, âm thầm đưa dẫn mình trở về miền dĩ vãng!

Xoa bàn chân của cha, cho cha được ấm. Bàn chân gầy, khô cằn nhăn nheo. Thầy Chín như những cội thông, không bao giờ chịu đổi màu lá theo thời tiết, vẫn cố vươn mình đứng thẳng và reo vui trong gió bão của thu đông.

Mang lại đôi vớ cho cha, thằng Hai nén nước mắt, muốn nói với Thầy Chín:

- Con thương Ba!

* * *

Tháng Mười, sức khỏe Thầy Chín bắt đầu sa sút.

Tháng Mười năm sau, Thầy Chín phải vào ra bệnh viện mấy lượt.

Tối cuối năm, thằng Hai mất vĩnh viễn một chiến hữu, một người cha, một vị thầy kính mến.

Đã bao lần lá rụng,
Vẫn còn kiếp tha hương.
Nay lá thu lại vàng,
Gió hú gào nhớ thương.

Nhớ cha đi miên viễn.
Thương mẹ già sương mai.
Lặng nghe chim gọi đàn,
Mình còn mất những ai?!


Cuối năm 2016 - BK Tính 323

 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển bão tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện tình với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người còn nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
BÌNH-TUY, những ngày cuối cùng...
Tình Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Trìu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người tình
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện tình chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
Tìm lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn còn đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương tình anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất chữ "S"
Thân phận người lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm giòng đời...
Không cho phép mình quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại