KỶ NIỆM NỔI TRÔI CÙNG TRÍ NHỚ

Tống Phước Hiến

Tôi là một trong những người trai sinh và lớn lên giữa thời tao loạn. Lư tưởng dâng cao theo những bài sử bi hùng oanh liệt, bất khuất. Hồn quê và hồn người ḥa nhập nên cũng lăng mạn và cũng ngây thơ trong sáng. Tôi không nhớ ai đó đă vẽ chân dung chúng tôi:

Cứ cộng năm thằng đủ chẵn trăm,
Những thằng mười tám tới hai lăm
Bán trời không chứng, thiên lôi đả
Trời rủa cho rằng lũ chết băm !

Đêm đêm bên ngọn đèn dầu tù mù, lâu lâu những tiếng đại bác từ xa xa vọng lại, chúng tôi ngừng học. Những suy tư vây quanh ư sống! Gịng sống đưa chúng tôi dần xa tuổi ngọc. Rồi áo trận thay áo trắng thư sinh. Và rồi, tiếng súng không c̣n xa xa vọng lại mà ngay sát cạnh cuộc đời. Lâu lắm và may lắm vài thằng bạn ngày xưa bất ngờ được gặp. Và cũng ai đó nói giùm tâm tư kẻ tha phương giữa đêm trừ tịch nơi chúng tôi phải ngăn quân thù trên từng thước đất quê hương:

Ba năm không về thăm Mẹ
Chiều nay nằm với sương phong
Bốn năm không về thăm chị
Chiều ngả nghiêng dâng trong
Nghe giữa chiều hoang pháo nổ
Mây c̣n nổi ở đầu sông
C̣n có ai về gơ cửa
Mà với tay về trong không
Ừ mai, ừ mai nhớ về nhé!
Sao con không về – Mẹ trông ?
Ừ mai, ừ mai nhớ về nhé !
Sao em không về – chị mong ?
Dan dúm cùng lửa đạn
Về th́ làm sao tang bồng .

Lâu quá, trí nhớ ṃn hao khá nhiều, dù cố gắng vẫn không thể nhớ tên tác giả và e rằng những câu thơ trên không nguyên vẹn chính xác. Xin cúi đầu tạ lỗi và mong chờ lượng thứ.
Vâng, chúng tôi chiến đấu trong thể chất thanh niên tràn đầy lư tưởng với một tâm hồn như thế. Sau bao năm lăn lóc cùng đao cung súng đạn, sống chết cận kề, chân dung chúng tôi vẫn như thế. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng tôi vừa bàng hoàng ngơ ngác, vừa xót sa thân phận phải rời xa chiến trận.
Ngày xưa, v́ giành sự sống cho chính ḿnh, cho đồng đội và cho lư tưởng mà ḿnh tin tưởng là tương đối đúng hơn; nên đạn phải lên ṇng cơ bẩm, và ngón tay phải xiết c̣. Nhưng chúng tôi đă không gạch thành rơ nét Và cứ thế, chúng tôi lại lăng mạn, lại ngây thơ, dùng đôi mắt thật thà t́m gịng máu Việt Nam đang luân lưu trong mỗi cơ thể của nhau. Chúng tôi không tin vào chủ nghĩa mà họ theo đuổi, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chất Việt Nam trong máu họ vẫn chưa biến đổi, nhạt màu Mang tâm trạng ấy, chúng tôi đi vào xă hội do người cộng sản thống trị.
Xă hội mới này hằn sâu trong tôi nhiều vết thương, có cái đă thành sẹo, có cái vẫn c̣n tấy sưng đau đớn và hầu hết c̣n di lụy nặng nề trên mạng mạch quê hương. Dưới đây là một vài kỷ niệm trong vô số kỷ niệm. Bài viết này chú trọng vào vài kỷ niệm tại trại giam A.20 c̣n được gọi là trại kiên giam, trại trừng giới, thung lũng tử thần... V́ giới hạn, nên chúng tôi chỉ xin vắn tắt tâm sự. Đă là tâm sự th́ cũng xin được nổi trôi, không xếp đặt thứ tự, và cũng không bố cục chặt chẽ.
***

Nói đến cộng sản mà không đề cập đến lừa gạt là không đầy đủ bản chất thật của cộng sản. Kỹ thuật lừa gạt của cộng sản đạt đến mức thượng thừa. Bạn hỏi xem bất cứ ai trên cơi nhân sinh từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây tự động đóng tiền để xin được đi tù không? Khó tin, nhưng là sự thật. Ai thế? Xin thưa, đó là những người đă trưởng thành, có học vị, cũng từng giữ chức vụ chỉ huy từ Hành chánh, Chính trị đến Đảng phái, Quân đội; từ kẻ thừa hành đền người lănh đạo Miền Nam. Nhiều lắm, nhiều lắm ...trong đó có cả tôi! Tất cả những người này đều đă làm cái chuyện khó tin nhưng có thật đó là đóng tiền để đi tù!.
Nền giáo dục Miền Nam dạy dỗ chúng tôi về ḷng nhân ái, về t́nh tự dân tộc, về những ǵ thuộc nhân cách làm người. Nền giáo dục ấy dạy rằng, trong vị thế phải cầm súng, chiến đấu v́ sự tồn vong của Tổ Quốc, th́ trên chiến trường, súng trong tay, người lính cần phải nhanh chóng thanh toán mục tiêu để tự vệ, để giành chiến thắng. Nhưng khi súng đă không c̣n trên tay th́ kẻ đó là không c̣n là kẻ thù mà là đồng loại, đồng chủng và cuộc sống của họ cũng cần phải được tôn trọng.
Những tấm h́nh có ngôn ngữ mà các phóng viên ghi nhận từ trong lửa đạn, ngay trên chiến trường, đă mô tả được bản chất rất thật, rất cao thượng và cũng rất lăng mạn. Đó là h́nh ảnh một chiến thương cộng sản, không c̣n khả năng chiến đấu, đang trong tư thế đau đớn quằn quại, trên người chỉ c̣n manh chiến y không nguyên vẹn, đang được hai chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa tiếp nước cứu sống. Hoạt cảnh ấy mô tả lại: Một người lính VNCH nâng đầu người lính cộng sản và người lính cộng sản này đang uống gịng nước ân t́nh từ chiếc bi đông của một chiến sĩ VNCH khác.

Một h́nh ành khác cùng một bối cảnh, cũng lăng mạn một cách cao cả; và cũng cay đắng tàn bạo một cách đê hèn. Đó là một chiến sĩ VNCH cơng trên vai một thương binh cộng sản chạy song song cùng với một chiến binh VNCH khác cũng trên vai đang cơng một đồng đội chạy lao về chiếc trực thăng mang dấu hiệu cứu thương Hồng Thập Tự trên nền trắng đang chờ tải thương binh giữa cảnh mịt mùng khói súng và những đợt mưa pháo liên tục của cộng sản lợi dụng tải thương để sát hại thêm những người đă mất khả năng chiến đấu và cũng không thể chiến đấu v́ phải cứu đồng đội, cứu luôn cả kẻ thù vừa mới nhắm bắn vào ḿnh và nay cũng là thương binh đang lâm nạn.
Tại quân y viện, hai người lính, từng là tử thù trên chiến địa, nay đều là thương binh, đều là những mạng người và đều phải được cứu sống. Người chiến binh kẻ thù được đối xử, được tôn trọng như những con người. Tôi không thêm bớt, không điểm tô. Tôi hănh diện được chiến đấu trong hàng ngũ của đội quân ắp đầy t́nh người ấy. Tôi không hổ thẹn khi đọc và học những trang quốc sử của Cha Ông và tôi sẽ măi măi như thế, dù rằng có thể đó là một trong những lư do khiến chúng tôi thất trận; nhưng đó cũng là hành trang để chúng tôi nhập cuộc chiến đấu mới. Dù cuộc chiến nào, chúng tôi vẫn phải là kẻ kế thừa mạch sống lịch sử, chúng tôi có nhân cách, có trái tim thuần Việt, có chính nghĩa. Đó là lư do khẳng định rằng, chúng tôi chỉ thất trận chứ không hề thua cuộc.
Từ những gịng tâm sự trên, minh định chiếc áo trận của chúng tôi gói bọc ư thức tự vệ, và tấm ḷng thật thà nhân ái. Tổ quốc, t́nh người gắn liền với kiếp nhân sinh trong cuộc sống. V́ không biết lừa gạt, nên đến khi biết ḿnh bị lừa gạt th́ sự phẫn giận vụt bừng bừng lớn dậy như triều sóng. Kẻ thù nh́n thấy được tư cách đáng nể trọng nhưng vô cùng hiểm nguy cho sự tồn vong của họ và thế là Trại giam trừng giới A.20, trong mật khu Thung lũng Tử Thần Kỳ Lộ được thiết lập. Mỗi người tù trong trại giam tử thần này đều có thời gian thai nghén và h́nh thái biểu lộ sự phẫn hận. Tôi không thể thay thế những chiến hữu ấy của tôi, dù rằng hoàn cảnh và tâm sự rất gần nhau. Tôi chỉ xin nói vài kỷ niệm mà tôi c̣n nhớ trong những ngày anh em chúng tôi thể xác hao ṃn tàn tạ, nhưng tinh thần và ư chí vững vàng để cùng bảo vệ cho nhau, CÙNG D̀U NHAU VƯỢT QUA CỬA TỬ THẦN .

Và câu chuyện xin được bắt đầu:
Sau hết hạn mười ngày học tập như thông báo của Ủy Ban Quân Quản, phía cộng sản vẫn b́nh thản, được hỏi th́ họ né tránh. Tiếp theo là những lời giải thích vu vơ xấc láo: Nào là cần phải tiến bộ, nào là xă hội cần ổn định, nào là v́ bảo vệ an ninh bởi sợ nhân dân trả thù...Rồi những đ̣n thù trừng phạt được xuất chiêu. Những đoàn sát thủ đến từng mỗi trại giam đe dọa tù dưới lớp áo gọi là Ṭa Án Đặc Biệt và họ hèn hạ bắn chết tù – những người không có điều kiện tự vệ, những người đă v́ cả tin vào họ mà phài sa cơ thất thế! Sau những phát đạn thảo khấu đê tiện đó là một loạt những chính sách đốn mạt lưu manh ti tiện.
Ngoài đời thường, chúng thực hiện chính sách: Kinh tế mới, di dân, đổi tiền; tạo ra những điều kiện sống khắc nghiệt nhằm trợ sức cho sách lược đập phá tan tành hệ ư thức đạo đức cũ và h́nh thành hệ ư thức đạo đức mới dưới tên: ”Chính sách đền ơn đáp nghĩa”. Họ cổ động, khuyến khích và ngầm ép buộc vợ con Tù Sĩ Quan VNCH khinh bỏ chồng, cha, để lấy thương binh cộng sản. Bàn tay sắt với đầy đủ nanh vuốt búa liềm nhằm hổ trợ cho sách lược rừng rú được thành công là nhà tù mọc nhanh hơn nấm. Trường học, đ́nh làng, miếu mạo đều có thể biến thành trại giam.
Trong tù, cộng sản dùng chính sách bỏ đói để hèn hóa, biến tù Sĩ Quan thành những kẻ nô hèn không c̣n nhân phẩm, thấp dưới cả súc vật; nhà kỷ luật nhiều thêm với những kỹ thuật đày đọa ngày càng tinh ác và kinh khiếp.
Thiện chí và ḷng tin tưởng chân thật nơi những con người được giáo dục luôn xiển dương giá trị đích thực con người đă đến cuối đường. Ngay cuối đường này, người tù Sĩ Quan phải công khai thực hiện một cách triệt để đức tính rất quan trọng không có nó là không c̣n nhân cách. Đức tính đó là: “Ḷng Tự Trọng”. Người Sĩ Quan VNCH hiểu được rằng Ḷng Tự Trọng là nền tảng của sự suy tư, của sự nhất quyết phải dám chống lại bất cứ h́nh thức áp bức hay lừa gạt nào. Đó cũng là lư do mà tôi và các chiến hữu của tôi gặp nhau tại Trại Trừng Giới A.20.
Tôi cùng người bạn đời và sau này là chiến hữu, cùng đóng tiền để đi tù cộng sản tại trường Nguyễn Bá Ṭng, cùng bị đưa đến Trại Suối Máu, ít ngày sau bên nữ chuyển trại không rơ về đâu. Kể từ đêm di chuyển ấy măi đến gần bảy năm sau chúng tôi mới được sum họp, trong hoàn cảnh thể xác và đời sống hai chúng tôi ḥa theo nỗi thống hận và cùng chia chịu với quê hương những bươm nát, những khốn cùng, ngút ngàn những phẫn hận, tận đường của mạt vận. Thời gian gần bảy năm ly biệt này, chúng tôi gặp nhau một lần duy nhất tại trại giam Z.30.D, chuyện tṛ trong sự vội vàng và thúc giục của những cai tù và một lần tôi được đứng nh́n để thấy nàng cùng đứa con gái đầu đời, nhưng không được gặp mặt. Thời gian nầy tôi đang bị kỷ luật, chúng đưa tôi trong văn pḥng của chúng, đứng nh́n ra khu thăm nuôi. Nếu tôi chịu viết vào tờ giấy của tên chấp pháp rằng “Tôi sẳn sàng khai báo đồng bọn” th́ sẽ được gặp vợ con. Tôi mỉm cười khinh bỉ ḷng dạ lang sói dơ bẩn, đốn mạt đó của cộng sản. Cũng từ buổi hôm ấy tôi thường bị kêu làm việc nhiều hơn cho đến một đêm tôi được tháo cùm chân để mang cùm tay số tám”, cùng với gần 70 chiến hữu được “tuyển chọn” từ khoảng 120 người thuộc thành phần mà theo tên Thượng úy Vọng trưởng ban giáo dục trại giam Z.30 D là “cần qua cuộc giải phẫu” tại “pḥng hồi sức” (tức pḥng biệt giam tập thể – nguyên nhà 7 nữ tù vừa chuyển trại) để “tái giáo dục cải tạo”, có điều kiện học tập tốt hơn”. Chúng c̣ng hai người thành một cặp. Xe bít bùng chở chúng tôi lăn bánh khoảng lúc 3giờ sáng. Khi những tia nắng cuối cùng tắc hẳn, chúng tôi xuống xe. Nơi chúng tôi “có điều kiện cải tạo tốt hơn” đây rồi!”
Chúng tôi đứng trước cổng trại giam A.20 trong thung lũng Kỳ Lộ, Huyện Đồng Xuân, Tỉnh Phú Yên. Nh́n toàn cảnh đồi núi, sông suối, ruộng đồng, tất cả đan kết gắn chặt vào nhau như cái chảo lớn mà bầu trời là cái vung thiên nhiên khóa chặt cuộc đời của những người sa chân mạt lộ. Rồi ṿng rào, nhà giam kiên cố, thái độ hung hăng, lời nói chất chứa hận thù độc ác, chúng tôi biết sắp phải đương đầu với bao nghiệt ngă khốc liệt tàn ác nhiều lần hơn các trại trước.
Tuần sau, một số tù khác từ trại Z.30 C chuyển đến. Họ có cùng tâm cảm như tù đến trước khi nh́n không gian và cảnh vật.
V́ kẻ thù gạn lọc, nên đến đây hầu hết là “thành phần cứng đầu bất trị” !. Nhờ vậy, tù tự thấy không hổ thẹn mỗi khi nghĩ về tư cách của chính họ, tư cách của những Quân Dân VNCH, đă từng chiến đấu cho lư tưởng Quốc Gia Dân Tộc. Hôm nay dù với tư thế nào, họ vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu v́ danh dự giống gịng, v́ lư tưởng và v́ lẽ phải của lương tâm.
Tháng sau, tù thuộc phân trại E bị xáo trộn và “biên chế” lại, đại khái như sau :
1/- Nhà 1 gồm các đội như :
- Đội Vệ sinh gồm những người tàn tật, đau yếu, già lăo.
- Đội Văn thể gồm những người có đôi chút hiểu biết về ca hát, viết lách và thể thao. V́ trại có chính sách ưu đăi như phần ăn có nhích hơn, phần quà thăm nuôi được nhiều hơn đôi chút, nên hầu hết là t́nh nguyện, hoặc do ban thi đua đề nghị và được cai tù đồng ư. Đội Văn-thể dường như do nhà văn Phan Lạc Giang Đông trong nhóm chủ biên tờ “Mă Thượng” làm đội trưởng.
- Đội Y tế có các BS.Trần Quư Nhiếp, Nguyễn tấn Chức, Nguyễn văn Lịch... Đội y tế c̣n có một số tài phiệt gốc Hoa, được mệnh danh là những ông vua từng gây mưa gió thương trường, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thời VNCH như vua điện ảnh, vua lúa gạo, vua sắt thép. Đó là các ông Trương Dĩ Nhiên, Lư Sang, Trần Thành, Lưu Trung. Những người nầy được chăm trồng vài loại cây gọi là “dược thảo”.
- Đội nhà bếp.
Những đội này chung nhà nhưng cách vách ngăn với ban thi đua do Dương đức Mai (nguyên Trung Tá - BĐQ) làm trưởng ban, và toán Trật tự gồm các tên: Quư đen (lai Mỹ đen, nghe nói trước kia là binh sĩ), tên Trực, tên Thanh (hai tên Trực và Thanh đều nguyên là cán bộ cộng sản, không rơ tại sao phải đi tù).
2/- Nhà 2 là Đội bị án tử h́nh và trên 18 năm. Đội này đa số là các Linh Mục: Vũ-Huy Chương, Trần Công Chức, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Tiến Khẩu, Huỳnh Linh, Lê Văn Ḥa, Nguyễn Duy Linh và các Sư huynh gịng Tabert như thầy Đào, thầy Phượng. Các chiến sĩ trong vụ khởi nghĩa vào những ngày đầu khi Cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam tại nhà thờ Vinh-Sơn Saigon như Linh Mục Nguyễn Quang Minh. Và các tổ chức kháng Cộng khác.
3/- Hai nhà c̣n lại, th́ nhà cuối cùng, là nhà bốn tập trung tù bị bịnh nặng, thường là lao phổi. Nhà ba là tù bị “án tập trung cải tạo”. Gồm Sĩ Quan, Viên chức VNCH, tu sĩ Phật Giáo như thầy Đạt thường gọi Thầy Chùa Đạt, và một vị nữa, thế danh Bùi Lưu không rơ Pháp danh nguyên Tuyên úy Phật giáo. Nghe nói vi tu sĩ nầy rất kiên cường, đă bị bắt lại.
Sau khi tạm ổn định, chúng tôi phải đem tất cả hành trang (hành trang, ôi nghe vừa văn chương, vừa mai mỉa! - Làm ǵ có cái gọi là hành trang nơi những người ở cuối tầng địa ngục!) lên hội trường. Cai tù gọi một số trong anh em chúng tôi (trong đó có tôi) đứng lên cho cai tù “chiêm ngưỡng”. Các anh em tù đă nhập trại từ trước, ịn bảng khuôn dấu gỗ với mực sơn đen (dường như hắc ín) có khắc chữ “cải tạo” chiều cao chừng 2/3 gang tay và chiều dài gấp rưởi lên quần áo chúng tôi. Những bạn tù này đă bị tuyên án, là tử h́nh, 20 năm, 18 năm.... Họ là những Anh Hùng đă dùng máu lệ, khổ nhục viết tiếp trang bi tráng sử Việt Nam bất khuất. Họ là những Chiến Sĩ Vinh Sơn, Giáo phái Ḥa Hảo, những Chiến Sĩ được gọi chung là Phục Quốc. Tôi cúi đầu ngưỡng mộ và cám ơn họ. Nhờ họ mà trang Quốc sử không bị gián đoạn, nhờ họ mà Thế giới ngưỡng phục sức đề kháng của Dân Tộc VN, nhờ họ mà tôi biết rằng tuổi thanh xuân của tôi không phí uổng. Máu và lao tù của họ đă tô đậm cho hai chữ Chính Nghĩa, cho niềm Tin, cho chân lư, cho sức tiến Lực lượng Dân Tộc. May thay, và vui thay chiến hữu của tôi và gia đ́nh tôi đă từng vinh dự được đứng trong Lực Lượng đó.
Kiểm tra xong, chúng “biên chế” tôi ở đội đào đất.
Vừa đặt chén khoai ḿ, những lát khoai ḿ H.34 chỉ dùng trong kỷ nghệ, không thuộc thực phẩm v́ chứa quá nhiều độc tố. Những lát khoai ḿ khô mỏng dính, mỏng đến độ bạn ném nó vào vách th́ bạn cũng khó lấy ra được nguyên vẹn, nếu bạn thích đếm, cam đoan là khoảng độ non “tiểu đội lát khoai ḿ” th́ anh Lại Tŕnh Xuyên, Tiến Sĩ Công Pháp, giáo sư Luật khoa đến than:
- Hiến ơi, anh bị tụi nó bắt làm đội trưởng, Hiến làm tổ trưởng tổ 1 giúp anh nhé
Tôi biết anh Xuyên qua anh Khuất Duy Trác. Tôi thấy khó chịu khi nghe lời than và đề nghị của anh:
- Sao anh không từ chối. Tôi thật không hiểu nổi! Tôi không làm, không giúp ǵ cả!.
H́nh như cái cằm bên dưới của anh trề ra. Thoáng như nét vừa đau, vừa buồn anh tiếp:
-Anh đă có nghĩ đến, nhưng nếu không nhận th́ chúng có cớ để nhốt kỷ luật. Vả lại, ḿnh không làm th́ nếu thằng mất dạy nào đó sẽ làm và khổ thêm anh em. Anh nghỉ ḿnh cứ nhận, anh em thoải mái được ngày nào tốt ngày ấy. Ḿnh làm cũng chỉ bảo vệ lẫn cho nhau thôi.
Không đợi tôi nói, anh bảo:
- Chiều nay, anh phải ở lại để họp “giao ban”, Hiến dẫn đội đi lao động nhé!
Anh đi rồi, tôi phân vân. Lúc ấy, tôi thật vụng về. Phản ứng chậm chạp và cuối cùng th́ tôi cũng phải cùng anh em ra khu đào đất có tên “ao cá bác Hồ”. Hôm ấy, gọi là tạo “khí thế”, bọn cán bộ cho hát văn nghệ, phất cờ đánh trống náo nhiệt. Trong số bọn chủ ngục có tên Lê đ́nh Đổng (hổn danh Lê văn Nhừ) y gốc người thiểu số, dáng gầy hơi cao, da mặt tái ch́, môi thâm đen. Tôi thấy hắn đi qua, đi lại hai lần và tôi tảng lờ như không thấy. Hắn hỏi ai là Đội trưởng, anh em chỉ vào tôi. Hắn hỏi, tôi trả lời nhát gừng rằng tôi chỉ là tổ trưởng, đội trưởng ở nhà. V́ tôi vờ không thấy hắn nên không chào...Và thế là: Tôi được “cách chức” và biên chế sang đội mộc của anh Huỳnh Cự.
Qua sách báo, thông tin tài liệu và công việc, tôi biết có ba nhân vật cùng có tên Huỳnh Cự. Đó là: - Huỳnh Cự Trung đội trưởng trung đội Du kích đă đi vào lịch sử bằng cuộc nổi dậy đánh thực dân Pháp ở Ba Tơ, Quảng Ngăi. Huỳnh Cự tên đội trưởng đội cải cách trong tác phẩm “Ba Người Khác” của nhà văn Tô Hoài và Trung Tá Chiêu Hồi Huỳnh Cự, tù nhân đội trưởng đội mộc, kiêm nhà trưởng nhà 3 là một hay không ? Nhưng theo chủ quan của tôi th́ nhân vật cùng có tên Huỳnh Cự của Tô Hoài không phải là Huỳnh Cự A.20 mà chúng tôi sắp kể sau đây.
Theo tôi biết, cùng với vài chi tiết do anh Huỳnh Cự kể lại th́ Anh Huỳnh Cự nguyên là Trung đội trưởng du kích Quận Ba Tơ Tỉnh Quảng Ngăi, cấp bậc khi anh ra hồi chánh với Quốc Gia tại Quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngăi là Trung Tá Trưởng Pḥng Quân Huấn Liên Khu 5. Anh được Bộ Chiêu hồi cử làm Tham Nghị Bộ Chiêu Hồi và là Ủy viên công cán. Anh thường xuyên đi thuyết tŕnh về kinh nghiệm cộng sản.
Tôi có nghe các bạn tù, những người có tư cách, đáng tin cậy cho hay rằng cộng sản ngụy tạo ra tai nạn giao thông để giết chết anh. Tóm tắc câu chuyện như sau:
Một buổi trưa, tại ngả tư Hàng xanh, khi đèn giao thông báo đỏ. Anh Huỳnh Cự đang cởi xe honda, chờ đèn giao thông, xe anh ngừng sát bờ lề đường th́ một chiếc xe jeep nhà binh mang dấu hiệu Quân y Cộng sản cũng đứng chờ sẳn phía đối diện bỗng nhiên lao nhanh nhắm thẳng vào anh. Anh Huỳnh Cự ngă xuống nằm sóng soài trên mặt đường và chiếc xe Quân y Việt cộng cán lên trên người anh, rồi b́nh thản bỏ nạn nhân lại hiện trường và cũng b́nh thản chạy đi như chưa tùng có chuyện ǵ vừa mới xảy ra trước mắt những công an giao thông trật tự và sự ngỡ ngàng của dân chúng.
Cộng sản xem mạng người như cỏ rác.Thời chiến tranh, xă hội chúng cai trị c̣n trong bức màng sắt, CS ngang nhiên thủ tiêu tuy không công khai nhưng cũng không cần dấu giếm. Nhưng khi thế giới CS xụp đổ, v́ cần tồn tại, chúng bắt buộc phải mở cửa, phải thay đổi phương pháp giết người, Quá nhiều vụ án sát nhân được ngụy tạo dưới những h́nh thái như: ẩu đả, ghen tương, trấn lột, xă hội đen, nhưng phổ thông nhất là tai nạn giao thông mà nạn nhân chết oan ức, thủ phạm b́nh thường nhỡn nhơ thách đố pháp luật. Đảng cộng sản không thể nào chối cải tội trạng thủ tiêu ngay đồng chí của chúng như Trung tướng CS Nguyễn B́nh, Dân biểu CS Dương bạch Mai, Nông thi Xuân cán bộ hộ lư và đă có con với Hồ chí Minh, Ủy viên Bộ Chính trị CS Nguyễn đ́nh Tứ, Đại sứ cộng sản tại Liên Hiệp Quốc Đinh bá Thi; những người chúng lo sợ nguy hại cho chúng như nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư, Kịch tác gia Lưu quang Vũ, Thượng tọa Thích Thiện Minh... Do đó, việc cộng sản hèn hạ giết anh Huỳnh Cự để trả thù cũng không có ǵ làm lạ!
Tôi không nhớ các anh Nguyễn văn Học nguyên Đại úy Biệt Động Quân, cán bộ Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân tại Huấn Khu Dục Mỹ, Anh Đại Úy Phan Văn Mùi Biệt Cách Dù nhà ở chợ La Hay và tôi quen biết nhau trong trường hợp nào. Tôi chỉ nhớ sau thời gian ngắn ăn “cơm” chung, anh Mùi bị biên chế chỉ c̣n tôi và anh Học Anh Học có biệt danh là:“Bắc kỳ đểu” v́ mỗi khi phải phát biểu, anh không quên châm chọc chính sách của cộng sản; bọn cán bộ có nghe, có biết, có hiểu nhưng chịu thua, không bắt lỗi được. Anh Học chơi với anh em ḥa nhă. Nhắc đến anh là bạn bè nhớ ra anh Học đầu 3 phân (1 phân th́ đúng hơn). V́ khéo tay, anh làm đồ thủ công như ống vố hút thuốc, dao, kéo, và kiêm luôn thợ sửa ch́a khóa. Tôi nhớ anh có g̣ một bộ đồ nấu theo kiểu réchaud tim bằng vải và nấu bằng dầu lửa. Anh em chúng tôi nghèo lắm, tôi thường đặc trách nấu mướn cho những anh em có thăm nuôi nhưng “nhát gan”.
Sở dĩ chúng tôi có dầu lửa để nấu là v́ lúc ấy anh Nguyễn tú Cường nhờ có tài vẽ, bọn cán bộ nhờ anh vẽ những hoa, cảnh, độc b́nh...trên các vách như hội trường, nhà ở, nhà ăn...Nguyễn tú Cường kéo thêm anh Học và tôi. Tôi không biết vẽ, Cường bảo tôi đồ và sơn lại những h́nh Cường đă vẽ và đă pha màu. Thường số dầu chúng cung cấp nhiều hơn nhu cầu. Phần thặng dư ấy chính là vật liệu cho cái réchaud hoạt động.Cũng nhờ vậy mà số khoai ḿ có tăng thêm dăm ba lát.
Khi mới đến trại A-20, một hôm lên cơn sốt, người tôi cứ run bần bật. Anh Học bèn đè tôi xuống, lấy “mền” phủ kín rồi ủ lên người tôi bằng hơi ấm từ anh chuyền sang Câu chuyện tôi có mặt trong đội quân bệnh nhân sốt rét kinh niên như thế này:
Măn khóa Sĩ Quan tại Học viện CSQG, tôi được giữ lại phục vụ tại Bộ Tư Lệnh CSQG Sài G̣n, nhưng thưở ấy tôi quá trẻ, lại có “máu giang hồ vặt” nên tôi làm đơn xin đổi ra khỏi Sài G̣n. Đơn xin thuyên chuyển tôi ghi rằng “T́nh nguyện phục vụ bất cứ nơi nào trên toàn lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa”. Đơn đệ tŕnh khá lâu, nhưng không hồi báo. Một hôm, có nữ Sĩ Quan phụ trách thuyên chuyển khối Nhân Huấn có công việc trực tiếp với tôi. Nhân tiện tôi hỏi về đơn xin thuyên chuyển và được cô trả lời phải đợi có người điền thế. Mấy ngày sau, cô cho hay có người muốn hóan chuyển, tôi đồng ư. Nhưng khi đến nơi, th́ nhiệm sở hoán chuyển như trong Nghị Định đă có người. Tôi đồng ư phục vụ tại vùng thượng du cao nguyên, không khiếu nại. Trước khi chia tay, người nữ Sĩ Quan nầy ngạc nhiên hỏi v́ sao tôi thích về nơi xa, trong khi nhiều ngưới đang t́m cách về BTL để được b́nh an và dễ thăng tiến. Cô dặn tôi, nếu đến đơn vị mới gặp khó khăn không như ư, cứ tin về và cô có thể giúp tôi trở lại Sài G̣n. Tôi cám ơn và trả lời rằng: ”Tôi không bao giờ ân hận quyết định của ḿnh”. Đến nhiệm sở mới, tôi viết thư cám ơn và cho cô biết những khó khăn, nguy hiểm đang chờ chào đón tôi. Những lá thư qua lại đó giúp chúng tôi hiểu nhau, yêu kính nhau và trở thành bạn đời của nhau. Thưa các bạn, đó chính là nguyên nhân khiến tôi có tên trong đội quân sốt rết.
Một buổi trưa, đang nhâm nhi những lát khoai ḿ th́ anh Học bảo:
- Chút nữa anh Cự sẽ nói chuyện với ông đấy.
Tôi hỏi:
- Anh có biết chuyện ǵ không? Anh Cự nói ǵ với anh ?
Anh Học bảo không nói được bây giờ, để sau khi anh Cự nói chuyện vói ông xong, ḿnh xem thử có giống nhau không.
Quả nhiên, không lâu sau đó – vẫn thói quen ưa khịt khịt ở mũi, anh Cự vào ngay vấn đề. Đại ư với tư cách người vừa lớn tuổi hơn, vừa có nhiều kinh nghiệm về cộng sản hơn, anh khuyên tôi cẩn thận, đừng để thái độ chống đối lộ liễu quá, không có lợi. Anh kết luận rằng: Đất nước cần người trẻ, nên ráng nhịn, ra khỏi trại giam rồi muốn làm ǵ th́ làm. Trong tù mà chết th́ lăng nhách; c̣n nếu không c̣n phương cách để tồn tại th́ phải lựa cách chết vừa xứng đáng với danh dự, vừa không bị thua lỗ. Rất nhanh gọn, anh dứt khoát chấm dứt câu chuyện và tôi cũng chưa kịp có phản ứng ǵ. Anh đi thật nhanh. Anh Học cho biết rằng Anh Huỳnh Cự cũng nói như thế đối với anh.
Mấy hôm sau tôi “biên chế” qua đội cuốc đất do anh Nguyễn Trọng Nghị làm đội trưởng. Anh Nghị nguyên là Thiếu Tá, người ốm, cao; khuôn mặt rất giống dân Âu châu, chúng tôi thường gọi anh là ông tây nhà đèn. Anh có cách nói chậm, rơ và dứt khoát, được anh em kính trọng. Khi ra khỏi tù, gia đ́nh tôi có đến thăm anh Khuất duy Trác và anh Nguyễn trọng Nghị; hai chiến hữu đàn anh mà tôi kính trọng cả về nhân cách lẫn kiến thức.
Một buổi chiều, tất cả anh em ra khu lao động cuốc đất. Riêng anh Cái Trọng Ty phải ở lại làm việc với tên Quyền quản giáo đội. Tất cả anh em lo ngại v́ nghe nói anh Ty và một anh nữa (không nhớ tên), Hai anh gánh lúa giống. V́ cái thúng bị đứt vành mà lúa th́ đong cao có ngọn và phải gánh chạy, do đó lúa rơi văi ra ngoài một ít. Sự lo ngại đă có hồi ứng. Chúng tôi nghe tiếng la phản đối của anh Cái Trọng Ty, tôi chạy vội về phía anh Ty. Khi anh Ty ra đến nơi với chúng tôi, anh em chúng tôi không ai bảo ai tất cả ngầm đồng ư không lao động. Quyền giận lắm, y ra lệnh là cứ hai người một cặp, người đứng cuốc cỏ, người ngồi gom cỏ thành từng đống; nhưng chẳng có ai động tịnh ǵ. Quyền bèn giở tṛ hù dọa rằng là hắn gọi tên ai th́ người đó phải cuốc đất lao động. Tôi bị hắn gọi tên trước. Tôi trả lời dứt khoát là không làm, nại cớ anh em tù chúng tôi bị đánh. Chúng tôi không an tâm cải tạo và việc cán bộ đánh tù là vi phạm chính sách. Sau một hồi kèn cựa, Quyền dẫn đội về lại trại giam.
Sáng hôm sau, chúng tôi không nhận phần ăn sáng. Lư lé, tên cán bộ an ninh cùng một số tên khác vào, nhưng anh em tù nhất quyết không nhận phần ăn, không xuất trại. Tôi và bốn anh em bị gọi đi làm việc. Đầu tiên tên trật tự Quư đen đưa tôi ngồi chờ ở nhà “Văn Hóa”, sau lại đưa vào chờ ở khu kỷ luật và cuối cùng là tại nhà tên cán bộ Chi. Trong số những tên cai ngục th́ Chi rất thâm hiểm, nhưng nhờ có học hơn, nên hắn che đậy được bộ mặt gian ác. Khi vào trong nhà Chi, tôi thấy một số các tên hung ác đă có mặt. Riêng Quyền, trong tay cầm sẳn thanh cây cỡ loại thước của thợ hồ. Tôi đoán chúng sẽ đánh, tôi hét toáng lên: “cán bộ không được đánh tôi, tôi sẽ tự sát”. Mắt tôi lục t́m bất cứ vật ǵ làm vũ khí hộ thân. Tôi đoán, Chi thấy không thuận lợi và có thể gây phiền toái nên Chi đuổi bọn Quyền ra và “ôn tồn giải thích”, hắn giả lả hỏi về anh em tù, về hoàn cảnh gia đ́nh tôi. Tôi ngỏ lời cám ơn về cá nhân và gia đ́nh của tôi, c̣n sinh hoạt anh em th́ tôi trả lời không biết.
Rồi t́nh h́nh cũng theo thời gian lắng đi, trôi vào quá khứ. Rồi một số rất đông anh em được thả về. Tôi được anh Lê văn Sanh, Thiếu Tá Pháo Binh Pḥng Không cũng gốc Huế như tôi gọi ăn cơm chung. Anh Sanh có tật nói to và nhanh. Bởi sự chênh lệch quá xa, Anh được thân nhân có lẻ khá giả, c̣n tôi nghèo. Anh biết tôi ngại nên không ép, nhưng anh thường chia thức ăn cho tôi, anh thay cho tôi bàn chải đánh răng mà tôi mang theo từ lúc “giả nhà, đeo kiếp lao tù”, cũng đă non 7 bảy năm trời. Lần đầu tiên trong đời tù, tôi được dánh răng bằng kem đánh răng, được tắm xà pḥng thơm. Tôi biết, trong hoàn cảnh tù đày, khốn khó như thế mà anh chia cho tôi những thứ đối với tôi là quá xa xỉ, và anh cũng chẳng dư thừa. Chia sớt nhau trong cảnh ngộ nầy là cả một tấm ḷng, là một sự hy sinh và yêu thương. Tôi không đủ văn tài để tả lại cái cảm giác khoan khoái đó. Và tôi biết, chỉ nên một lần. Một lần từ của người đàn anh, rồi thôi. Tôi trở về thân phận và suy tư riêng. Tôi thuộc loại con bà phước, có được một lon goz cũng đủ rồi. Bây giờ anh em thương t́nh cho quá nhiều. Trong tù, lon Guigoz quư, quư lắm, nhưng có cũng chẳng biết để làm ǵ. Tôi không trông chờ ngày về. Gần nửa năm sau, tôi nhận được thư của anh Học. Tôi cố t́m ẩn ngữ trong thư, nhưng nội dung không có ǵ như mong chờ. Tôi lại vẩn vơ nh́n mây và thời gian trôi, trôi măi... Tôi biết chắc vợ con tôi không thể thăm nuôi, đời sống những người thân yêu này vất vả, khổ nhục trăm chiều.
Nhưng thật bất ngờ, một buổi sáng gần ngày Quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1982, Vơ thành Mân, Phan Vỹ Huệ (Kathy Huệ) và tôi được thả. Khi nhận giấy ra trại th́ được biết có thêm một vị nữa ở phân trại B, dường như là Trung Tá Tâm, BTL/CSQG. Trên đường trở về với gia đ́nh, ba anh em chúng tôi được anh Mùi ra đón. Anh chị nghèo lắm, h́nh như có được hai cháu lúc bấy giờ cũng khoảng 5 hay 6 tuổi. Chị bán mắm muối tiêu hành ở chợ. Tôi thấy anh gánh hàng về trước, chị về sau. Anh nấu cơm, chị làm đồ ăn. Ôi bữa cơm thấm sâu t́nh chiến hữu.
Chừng hai năm sau, tôi bị lao phổi nặng, phải lên Sài g̣n t́m phương chữa trị. Tôi gặp anh Nguyễn bá Tước. Trong tù, tuy chúng tôi không ăn cơm chung, nhưng anh xem tôi như đứa em. Anh hỏi tôi đă lập hồ sơ đi Mỹ chưa? Thấy tôi ngơ ngác, anh lấy giấy ra trại và các giấy tờ khác làm copy và gởi qua Bangkok (Thái Lan). Gặp anh lần thứ hai, anh đưa cho tôi giấy báo nhận của Ṭa Đại sứ Mỹ ở Thái Lan. Sau nầy, lúc gia đ́nh chúng tôi đă được phép tỵ nạn cộng sản tại Mỹ, tôi hay tin trể anh đă măn phần. Tôi bùi ngùi gởi về gia đ́nh anh nén nhang ân nghĩa. Tôi cầu xin cho anh được trở về cơi Thiên Quốc. Cầu xin Đấng tối cao ban hồng phúc cho anh, một con người đầy ḷng nhân ái.
Cũng thời gian tôi bị lao phổi suưt chết nầy, anh Lê văn Sanh gởi về cho tôi 50 dollars Mỹ. Thực tế, giữa lúc khốn cùng của tôi th́ số tiền 50 đollars Mỹ là quá lớn. Xin cám ơn tấm ḷng của anh
Những điều tôi viết về anh Huỳnh Cự, có thể làm một số anh em không hài ḷng. Tôi không dám phê b́nh đúng hay sai. Tôi chỉ xin những chiến hữu ấy vui ḷng cho phép tôi được nói những ǵ dù rất hạn chế, kém cỏi. Nhưng với tôi, riêng tôi, tôi đoan quyết là sự thật, và sự thật cần phải được nói ra. Lần cuối, xin hăy lượng thứ cho tôi.
Tôi c̣n nợ anh Huỳnh Cự một nén nhang “tử biệt”. Tôi c̣n thiếu anh Mùi một tấm ḷng của đứa em đối với người anh.
Bây giờ, tuy đă quá lâu, trí nhớ cùn theo thời gian, nhưng ân t́nh chiến hữu vẫn mặn nồng.
Xin cám ơn đời, xin cám ơn cảnh ngộ tuy tủi nhục khốn cùng; nhưng chính nơi cảnh ngộ tủi nhục khốn cùng ấy, hoa nhân ái ngát đầy hương sắc nở rộ. Và nhờ đó, tôi đă được hiểu, được biết và cũng đă nhận được t́nh người, t́nh đời, và nhất là t́nh chiến hữu. Nhờ thế, đầu tôi ngẩn cao nh́n về tương lai, về niềm tin rằng sẽ có một ngày mai. Ngày đó, ánh sáng sẽ rạng rỡ trên quê hương. Chỉ nghĩ đến đó mà ḷng tôi đă rộn ràng.
Cùng với thế hệ kế tiếp, tôi vẫn bước tới, bước mạnh mẽ, không ngại ngùng chông gai. Tôi đă là và măi là Chiến sĩ của Chính Nghĩa Quốc Gia Tự Do và Nhân ái.
Rồi mai đây ra đi ĺa bỏ cuộc sống này, tôi sẽ đem theo nụ cười và niềm hănh diện hôm nay của tôi.
Xin cám ơn đời, cám ơn bè bạn chiến hữu, cám ơn những người thân quyến cả cuộc đời đă v́ tôi, cho tôi dự phần và chung phần.

Tống Phước Hiến
Viết nhân ngày Gia đ́nh A.20 Hội Ngộ 3/7/2011


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại