Mười Hai Bến Nước

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh

Tôi không phải là một thi nhân, để có nhiều th́ giờ nhàn rỗi ngâm trăng vịnh gió v́ cuộc đời của tôi là một chuỗi ngày phải tranh đấu liên miên. Mặt khác công nghiệp của tôi là ở trong quân đội và trong ngành giáo dục và khảo cứu về toán học nên lại càng ít có dịp làm bạn với thơ văn. Nhưng từ nhỏ tôi vẫn mơ làm thi sĩ, nghĩa là vẫn ôm mộng làm thơ. Đọc ở trong sách tôi được thấy là muốn thành một toán gia siêu việt cần phải có một bộ óc giầu tưởng tượng, phải có chút ít thơ mộng, vượt qua những tầm thường g̣ bó của thế tục. Nhà toán học Đức quốc lừng danh Karl Weierstrass (1815-1897) của thế kỷ 19 đă viết rằng:

“It is true that a mathematician who is not also something of a poet will never be a perfect mathematician”.

Câu này có thể tạm dịch là:

“Thật đúng vậy, là một toán gia nếu không cùng một lúc là một thi sĩ th́ không thể nào là một toán gia vẹn toàn được”.

V́ tin ở lời nói của Weierstrass, là một toán gia tôi rất hâm mộ, nên đôi khi trăn trở về một bài toán mà tôi chưa t́m ra được lời giải toàn vẹn, tôi cũng đă từng đổi bút, làm thơ. Cho đến nay th́ những bài thơ tôi đă làm chưa phải là thơ t́nh v́ c̣n nặng mầu sắc toán học. Dưới đây là một bài tiêu biểu:

T́nh Hư Ảo

Anh t́m em trên ṿng tṛn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
C̣n tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ước, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số t́m, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có ṿng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của t́nh thương,
Định lư đảo, t́m ra v́ giao hoán.
Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương tŕnh vô nghiệm.

Toàn Phong


Đầu năm Quư Mùi tôi viết một bài tâm tư đăng báo Xuân và ghép theo bài thơ trong đó. Sau khi số báo phát hành, tôi nhận được lác đác vài bức thư của độc giả gửi về khen ngợi ở chỗ tôi đă chuyển được ư toán thành lời thơ. Nhưng có một bức thư ở một nơi xa lạ gửi về làm tôi chú ư. Trong phong b́ nhỏ có kèm theo một bức h́nh một phong cảnh núi đồi và dưới có bốn câu thơ:

Núi Đồi

Nơi đây có núi cùng đồi,
Có con suối nhỏ, da trời mầu xanh.
Phương tŕnh, em gửi tới anh,
T́m xem đường kẻ song hành nơi nao?


Ở dưới có một ḍng chữ nhỏ viết thật đều: “Nơi đây anh ra đời-- Trang Hồng Quỳ”. Tôi nghĩ là tên tác giả chỉ là bút hiệu, và bài thơ không nặng lắm về toán nên không có nghĩa là tác giả đă cảm hứng khi đọc bài thơ của tôi mà viết ra. V́ tôi thích phong cảnh núi đồi nên đă giữ tấm h́nh và ghim trên tấm bảng ở bên bàn học.
Sang tháng sau, tôi nhận được thêm một bức thư cũng cùng một tuồng chữ, nhưng theo dấu bưu điện th́ gửi tới từ một phương trời khác. Lần này có tấm h́nh một con sông lớn, có loáng thoáng mấy chiếc tầu bể neo bên bờ. Ở dưới có đề bốn câu thơ:

Sóng Nước

Đời tổng hợp bởi muôn làn sóng cuộn,
Mà t́nh anh là quỹ tích của không gian.
Kiếp nhân sinh là hàm số tuần hoàn,
Nên quanh quẩn trên ṿng tṛn lượng giác.


Ḍng chữ nhỏ kèm theo lần này đề là: "Nơi đây anh lớn lên-- Trang Thúy Minh". Lần này tôi nhận ngay ra được con sông, một con sông quá quen thuộc, thuở nhỏ tôi thường ra chơi với một đứa bạn học nhà ở gần đó. Đứa bạn tôi tên là Nguyễn Văn Tế, sau này tôi cũng không nghe được tin tức ǵ đặc biệt, nhưng hắn có người anh ruột thật nổi tiếng là nhạc sĩ Văn Cao. C̣n con sông đó là sông Cửa Cấm ở Hải Pḥng, là thành phố mà tôi đă theo học ở trường tiểu học Bonnal, sau đổi thành trường Ngô Quyền. Và như vậy th́ bức h́nh chụp cảnh núi đồi là ở địa phương Yên Bái, nơi tôi sinh ra đời, nhưng khi được đầy năm th́ gia đ́nh lại dọn về Hải Pḥng. H́nh ảnh của người gửi thư giờ cũng dần dần hiện ra trước mắt tôi. Người đó chắc phải là một người học tṛ cũ, đă đọc những truyện tôi viết tả cuộc đời ḿnh nên mới biết rơ nơi tôi sinh ra và nơi tôi theo học trường tiểu học. Qua tên hay bút hiệu th́ tôi không thể nào đoán được tác giả là một nam sinh hay là nữ sinh v́ chỉ là tên giả, nhưng phải là một người đối với tôi có chút quan hoài nên mới theo dơi bước đường tôi đi và sưu tầm những bức h́nh, phong cảnh của những nơi tôi đă cư ngụ.

Về toán học muốn vẽ một đường thẳng, ta phải cần hai điểm. Muốn biểu diễn cho một hàm số tăng hay giảm bất thường theo một đường cong ta phải cần ít nhất ba điểm. Tác giả bí mật đă cho tôi hai thông tin, nên giờ tôi chỉ cần nhận được bức thư thứ ba là đoán rơ được nhiều chuyện. Nếu có thêm dữ kiện, tôi có thể đoán biết được rằng người viết thư thân thiết để giới thiệu những ngọn núi hay đầu sông mà tôi đă đi qua, những bến nước mà tôi đă dừng chân, người ấy có liên hệ ǵ với tôi. Cả một tháng Ba đă đi qua, mà tôi vẫn mong đợi, chờ hoài dằng dặc mà không nhận được chiếc phong b́ bé nhỏ xinh xinh. Lá thư thứ ba phải đợi đến cuối mùa xuân mới tới, và quả như tôi đă đoán trước, tấm h́nh gửi theo là h́nh hồ Gươm với tháp Rùa ở Hà Nội, nơi tôi theo học ở bậc trung học và năm đầu ở đại học. Những bức thư gửi tới mà tôi nhận được đă theo diễn biến thời gian, và tác giả những bức thư đă đọc ở đâu đó tiểu sử cuộc đời tôi. Tôi nhớ đến hai câu thơ của cụ Đồ Chiểu, viết trong cuốn "Lục Vân Tiên":

"Lênh đênh một chiếc thuyền t́nh,
Mười hai bến nước đưa ḿnh vào đâu."

Tôi mới dừng chân ở vài bến nước, và dạo đó con thuyền t́nh cảm của tôi vẫn c̣n lênh đênh trên gợn sóng chưa trôi dạt vào một bến bờ nào. Bốn câu thơ viết dưới tấm h́nh hồ Gươm, lần này nặng hơn về toán học, và cường độ thiết tha cũng đă tăng lên gấp bội:

Song Song

Ai nghiên cứu vẽ ra đường quỹ tích,
Của t́nh yêu, hàm số tuổi ngây thơ?

Lúc kề bù, thẳng tắp quăng đường mơ,
C̣n song song trên kiếp người vô tận.

Ḍng chữ phụ đề trước đây đượm mầu thanh lịch, nhưng lần này nét chữ có vẻ đậm hơn. Tôi đọc được "Nơi đây anh gặp nàng - Trang Phi Phượng." Tôi hơi thắc mắc về hai chữ "gặp nàng", và chợt nhớ ra rằng tôi đă viết cuốn truyện "Đời Phi Công" trong đó tôi đă nói là gặp một người bạn gái có tên là Phượng. Kể tuổi đời năm ấy mười tám, đôi mươi là lúc tôi đang theo học ở thành phố bên trong con sông Hồng. Cuốn truyện này được các bạn trẻ thời xưa rất ham chuộng mà h́nh như các học sinh cũ của tôi ai cũng mua một cuốn và mang tới lớp học để xin tôi chữ kư lưu niệm. Tôi nghĩ rằng một học sinh cũ hay một người bạn nào đó, từ thuở xa xưa, đă dùng lối gửi thư này để nhắc nhở và nhắn tôi hai điều. Thứ nhất là xưa kia tôi đă viết những bài về nghiệp bay, mở đầu cho một nền văn chương hướng về đề tài không gian và vũ trụ, và những người mà cuộc đời trải theo mây trời có thể khai thác như là một nguồn cảm xúc vô tận. Thứ hai là người gửi thư muốn khuyến khích tôi viết tiếp nối bài thơ "T́nh Hư Ảo" để lập ra trường phái thơ t́nh toán học, coi như là một cuộc kết hợp kỳ diệu giữa thơ văn và khoa học, và phổ biến rộng răi những bài thơ theo thể loại này để cho giới trẻ, dù cho ở ngành chuyên môn nào cũng có thể sáng tác thơ văn bắt nguồn từ môi trường hoạt động của ḿnh. Và để tỏ t́nh đồng điệu, tác giả đă đóng góp thêm mấy bài thơ.

Mỗi bài thơ tôi nhận được tôi có thể họa lại hay viết tiếp nối. Nhưng tôi nghĩ việc này tôi có thể làm về sau, khi đă nhận được hết những bài thơ theo dơi những chặng đường tôi đă đi qua. Tôi đă tặng bản quyền cuốn “Đời Phi Công” cho Hội Khuyến Học ở thành phố St Louis và hiện nay Hội đang chuẩn bị cho in lại để gây quỹ phát giải thưởng cho các em học sinh xuất sắc. Trên cuốn sách này và trên nhiều bài viết khác đă được phổ biến rộng răi, tôi đă nói sơ qua về cuộc đời của ḿnh, khi đang là sinh viên ở Đại Học Hà Nội, tôi được động viên theo học để trở thành một sĩ quan trong ngành công binh, và sau đó tôi đă đi Pháp để học thành một sĩ quan phi công. Bến dừng chân của tôi, sau khi ra trường ở Thủ Đức, là một quận nhỏ ở Thái B́nh khi tôi được quân đội giao cho công việc xây cất một cây cầu trên một mạch lộ giao thông quan trọng. Nếu tác giả ẩn danh của những bài thơ đă gửi đến mà định gợi cho tôi nhớ đến những tỉnh thành tôi đă đi qua trong binh nghiệp th́ tôi đoan chắc rằng người đó sẽ kiếm giùm cho tôi những h́nh ảnh của quân trường Thủ Đức, của những thành phố Thái B́nh, Paris, Marrakech ...., là những nơi tôi đă tuần tự đi qua theo ḍng đời nổi trôi. Đúng như tôi dự đoán, trong ba tháng liền tôi nhận được mỗi tháng một bài thơ kèm theo h́nh ảnh những đô thị tôi đă cư ngụ là Thái B́nh, Paris và Marrakech. Tấm h́nh ở Thái B́nh chỉ là h́nh chụp phía đằng sau của một người lính chiến, nh́n ra một cánh đồng hoang vu, một buổi chiều tà. Tôi nghĩ đây chỉ là một tấm h́nh cóp trên một tờ báo quân đội, v́ người chiến sĩ có đeo một khẩu súng ngắn xệ bên hông phải trông dáng điệu thật hùng dũng, c̣n tôi th́ ít khi tôi đeo súng. Hồi ở Thái B́nh thuộc Quân Khu Ba, hàng ngày ra công trường tôi chỉ sách theo một khẩu carbine mà thôi. Tên tác giả kư lần này cũng khác, duy tôi có thể đoan chắc là chỉ có một người, hay một nhóm bạn trẻ vui nghịch với nhau, rủ nhau làm thơ t́nh toán học để tặng tôi. Bài thơ nay dài hơn, và ở phía dưới có phụ đề là “Nơi đây anh vào đời - Huyền Thanh Nữ”.

Tâm Điểm

T́nh là vậy, từ chân không chợt đến,
Một ṿng tṛn quay hai nửa tim hồng.
Để mỗi ngày đôi chân bước song song
Mong đi tới tận cùng là giao điểm
Em yêu anh, nên anh là tâm điểm
Giữa ṿng tṛn hạnh phúc của đời em.
Dẫu thời gian, không gian hoài biến chuyển,
Quỹ tích này vẫn măi chỉ chờ anh.


Tấm h́nh tháp Eiffel, là biểu tượng của Paris, kinh thành ánh sáng, tôi nhận được với bài thơ tiếp nối, làm tôi nhớ lại những ngày ngồi ở trong những quán cà phê bên bờ sông Seine, như tôi đă tả trong cuốn “Đời Phi Công”. Đó là những ngày đầu tiên tôi sống trên nước người, và tôi c̣n nhớ rằng khi được thư của cô bạn gái bé nhỏ ở quê nhà hỏi có thấy nhớ nhà hay không th́ trong một phút bồng bột của tuổi trẻ, ḷng c̣n ôm mộng viễn phương, tôi đă viết thư trả lời: “Trong lúc này anh không thấy nhớ v́ ḷng c̣n đang rộn ràng với những cảnh lạ đường xa. Anh chỉ mơ hồ thấy rằng quê hương đang ở xa lắm, gần trọn nửa ṿng trái cầu, có nhớ, có thương chăng nữa th́ cũng nhớ xa sầu vời vợi, thương mênh mông như đại dương rộng lớn, c̣n có nhớ thương riêng một chút nào th́ chắc cũng chỉ gói trọn vào một ḿnh em gái anh mà thôi.” Tấm h́nh tôi nhận được, tôi không in vào đây mà thay bằng h́nh b́a cuốn sách lần tái bản, trên đó cũng vẽ tháp Eiffel. C̣n bài thơ th́ tôi để nguyên là:

Bâng Khuâng

Trời về khuya, bóng h́nh ai thương nhớ,
Muốn quên đi, v́ giấc mộng không thành.
Vẽ cho cùng, không trọn trái tim anh,
Em đành đem chuyện chúng ḿnh cất lại.
Trang giấy nhầu ghi chút t́nh thơ dại,
Ngơ ngác buồn cây bút nhạt t́nh anh.
Em đă mang lượng số tính cho nhanh,
T́m công thức đo trái tim mọng đỏ.

Tuy bây giờ tên tác giả đă hơi đổi khác, nhưng nét bút nhẹ nhàng vẫn nguyên như cũ và lần này được ghi chú là: "Nơi đây anh ngỡ ngàng - Huyền Nhi Nữ". Lần nào nhận được thư tôi cũng thấy thắc mắc nhiều về những câu phụ chú.

Những bài thơ, thật ra chỉ là những bài thơ toán học, phảng phất chen vào vài câu t́nh cảm ư nhị, và không liên hệ một chút ǵ đến tấm h́nh kèm theo. Nhưng câu phụ chú mới nói lên trạng thái, hay t́nh cảm đương thời của tôi. Người gửi tấm h́nh tháp Eiffel h́nh như đă đọc rất kỹ cuốn sách mà biết được tâm trạng lúc bấy giờ của tôi, đă được ghi lại như sau:
"Ánh sáng kinh thành huyền ảo cũng như mờ dần yếu ớt qua những lớp sương đêm. T́nh quê hương lại nhóm bồng bột trong ḷng người lăng tử. Ánh điện Nê-ông xanh rợn hay ánh lửa hoe vàng màu hỏa hoàng của ngọn đèn dầu, nhạc điệu sam-ba dậm dật hay tiếng sáo diều vi vu, Phượng ơi nào anh có biết? Chỉ biết đêm hôm nay có một anh chàng cà phê, ngồi giữa ánh sáng kinh thành mà nhớ đến quê hương."

Quả thật người viết những bài thơ đă biết là lúc đó tôi có tâm sự ngỡ ngàng của người vừa tới một phương trời xa lạ. Nếu những ngày lang thang trong ḷng thành phố Paris, giữa khu Latin, và thỉnh thoảng lại vào một quán cà phê uống một ḿnh, lặng nh́n thiên hạ mà nhớ đến quê hương, là những ngày tôi thấy ngỡ ngàng, th́ những tháng sau, được gửi sang Bắc phi thực tập phi hành, hàng ngày tập đáp phi cơ trên những phi đạo trải rộng trên những cánh đồng cát, th́ những ngày ấy mới là những ngày tôi thực sự bước chân vào đời và đă phải cố gắng hết sức mới vượt qua chặng đường huấn luyện bay đầy thử thách này. Huyền Công Nữ đến với tôi trong một bức h́nh cảnh sa mạc với mấy cây gồi và đoàn lạc đà đi trông thật là cô quạnh. Đây có lẽ là h́nh ảnh của Marrakech mà nàng thơ đă chọn cho tôi. Tôi tạm gọi tác giả những bài thơ toán là nàng thơ v́ những tên kư diễm kiều với nét chữ nhẹ nhàng. Tôi đă sống ở nơi này vào khoảng chừng tám tháng, trong suốt thời gian học bay căn bản. Những kỷ niệm đáng ghi nhớ là những buổi chiều chủ nhật đi giữa những căn phố nhỏ hẹp, để coi những thổ sản gồm có những tấm thảm dệt tay, hay những đồ đồng hay đồ da, những người bán hàng luôn luôn mời chào. Những buổi chiều ấy, tôi đă đi lạc vào thế giới của ngh́n lẻ một đêm, nhưng những nàng kiều nữ tôi đă gặp chỉ lộ ra những đôi mắt đen huyền, sâu thẫm, c̣n khuôn mặt luôn luôn được che kín bởi những làn voan đen. Sau khóa học, lại trở về Pháp, với tôi những kỷ niệm không quên c̣n có những buổi bay đêm dưới ánh trăng ngà dăi trên những cồn cát vàng hiện ra sáng lóng lánh dưới cánh người bay. Giờ đây những kỷ niệm ấy lại đến với tôi khi tôi cầm trong tay tấm h́nh đoàn lạc đà đi trên những cồn cát vàng với lời ghi chú: "Nơi đây anh mơ màng - Huyền Công Nữ". Nàng cũng gửi theo một bài thơ với ngụ ư chia ly:

Ly Biệt

Anh ngỡ ngàng, đọc phương tŕnh em gửi,
Để nhận rằng đường anh bước song song.
Đôi ta đi, dù tới cơi vô cùng,
Nhịp sống đời chẳng bao giờ hội tụ.
Thôi đi nhé, không gian và vũ trụ,
Bóng thời gian tồn tại măi không phai.
Bội số nhân, cộng lại dạ quan hoài,
Chỉ chờ anh, và chờ anh măi măi.


Sau thời gian học bay ở Bắc Phi tôi quay trở lại Trường Vơ Bị Không Quân ở Salon de Provence để học tiếp phần lư thuyết. Cũng trong dịp này tôi ghi tên ở Đại Học Marseille để học thi bằng cử nhân toán học. Nhưng nàng thơ mà tôi quen biết qua thư từ th́ lại thật lạ lùng ở chỗ khi tôi được huấn luyện về quân sự hay về phi hành th́ lại gửi cho tôi những bài thơ t́nh toán học viết thao thao bất tuyệt, mà khi tôi tới đoạn đời thiên nhiều về toán th́ lại đi ẩn luôn. Tôi đă nghĩ rằng tính trung b́nh mỗi tháng tôi nhận được một bài thơ, kèm theo một tấm h́nh theo thứ tự thời gian những nơi tôi đă đi qua th́ sau tấm h́nh ở Marrakech nàng sẽ gửi cho tôi một tấm h́nh ở miền Provence, và lần này th́ bài thơ t́nh toán học sẽ chỉ hoàn toàn về toán. Nhưng suy nghĩ của tôi chỉ đúng một nửa. Suốt hai tháng hè năm vừa qua tôi không nhận được một bức thư nào. Rồi bỗng nhiên vào cuối hè, một hôm bắt đầu vào thu trời đổ lạnh, tôi nhận được một bài thơ dài, lần này làm theo thể thất ngôn như dưới đây:

Biết Mấy Cân Bằng

Đời tổng hợp biết bao hàm số,
Mà giải nên trọn kiếp nhân sinh.
V́ t́nh yêu chính là độc nghiệm,
Ta mơ t́m phương pháp chứng minh.
Vào không gian t́nh là h́nh học,
Tính đạo hàm se sắt con tim.
Ngừng nơi đó, không ra định lư,
Chờ phút giây, cho mộng đắm ch́m.
Nguồn hạnh phúc gồm bao ẩn số?
Hệ phương tŕnh, đủ lư giải chăng?
Đẳng thức nào đem ra liên kết?
Đợi chờ nhau, biết mấy cân bằng!


Nh́n tấm h́nh kèm theo tôi không khỏi bàng hoàng, nhớ lại những kỷ niệm xưa, v́ là tấm h́nh cổng Phi Long, là cổng chính vào căn cứ Tân Sơn Nhất ở Sài G̣n, nơi tôi đă thường nhật ra vào hơn bốn năm trời khi tôi giữ chức vụ Tư Lệnh Không Quân Việt Nam, cách đây cũng đă gần nửa thế kỷ. Kèm theo tấm h́nh, lần này có lời phụ chú: "Nơi đây anh vẫy vùng - Trang Thiên Thanh".
Những tấm h́nh gửi tới đă không đi liên tục, v́ không có những tấm h́nh miền Salon de Provence, nơi tôi thao dượt trong Trường Vơ Bị, những ngày gắn lon alpha, và trao kiếm, những buổi đại lễ uy nghi, những toán sinh viên sĩ quan diễn hành, hàng hàng lớp lớp, trên trời phi cơ bay thành đội h́nh. H́nh ảnh mười hai bến nước của tôi như vậy sẽ không đầy đủ, và cuộc đời của tôi đă bị cắt một khoảng trống, khoảng thời gian những năm cuối cùng sống trên đất Pháp, khi tôi vùi đầu vào học, cố thu thập những lư thuyết quân sự, tổ chức hành chánh, kỹ thuật và hành quân trong Không Quân, và đồng thời cũng nhân dịp c̣n ở nước người học thêm về toán học, những môn chưa được giảng dậy ở quê nhà. Chính v́ nhờ có những ngày không sôi nổi, lắng đọng như vậy mà tôi đă thâu thập thêm được nhiều kiến thức, để sau này có dịp đưa tài năng phục vụ quê hương một cách đắc lực hơn.

Một năm dài đă dần qua kể từ ngay tôi phóng bút viết bài thơ Toán với đề là "T́nh Hư Ảo". Những bài thơ đáp lại, gửi đến từ bốn phương trời, nay không c̣n thấy đến nữa. Phải chăng tôi đă viết ra một phương tŕnh mà không có nghiệm số, hiểu theo nghĩa bóng, và nghĩa đen là viết lên một bài thơ mà không được mấy người đáp ứng. Tôi đă phải buồn rầu mà nghĩ rằng có thể tất cả chỉ là hư ảo, bài thơ tôi viết ra và những bài tôi nhận được, rồi đây sẽ quyện lấy nhau như một cơn gió lốc, chợt đến rồi lại đi nhanh, rồi sẽ tan ra làm mây, làm khói, đi khắp bốn phương. Rồi đây, bỗng có ai nhặt được, đăng thành bài bản, người đọc cũng không thể đoán ra ai là tác giả, và có thể cũng không hiểu được hết ư nghĩa của những bài thơ, giữa vần điệu lại có chen thêm những phương tŕnh toán học. Nhưng vào đầu thu, một tin mới lạ đă đến và giải thích được nhiều điều tôi chưa am tường, những nỗi thắc mắc vẫn c̣n vấn vương. Trong một buổi hội ngộ các cựu chiến sĩ ở Nam Cali, tôi được một phóng viên của đài truyền h́nh Michigan TV phỏng vấn. Lúc về anh gửi cho tôi một cuốn băng thâu h́nh, kèm theo một bức thư trong đó anh đă nói là thường đọc tin túc về tôi qua một diễn đàn điện tử của các bạn trẻ. Anh cho tôi tọa độ, và khi bật máy lên th́ tôi đă rất ngạc nhiên khi thấy trên diễn đàn Đặc Trưng, có mục "Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh", trên đó tôi được một số những bạn trẻ ở khắp năm châu trao đổi ư kiến và cho nhau tin tức về tôi, là người mà có lẽ phần lớn các bạn chưa hề gặp. Có những tin đưa ra trung thực, nếu lấy từ những bài do tôi viết, hay những bài do các thân hữu viết về tôi. Có những tin hoàn toàn sai lạc, và người cho tin cũng đă nói là do một người khác kể lại. Nhưng nội dung th́ trong diễn đàn này, người khởi xướng chỉ nêu lên một nhân vật, thường th́ là một khoa học gia, và những người muốn t́m hiểu thêm đă dùng diễn đàn đó dễ trao đổi tin tức để biết thêm về cuộc đời của người này. Những trao đổi này thường kéo dài chừng vài tháng, hay một năm là cùng. Vậy th́ bài thơ "T́nh Hư Ảo" tôi viết ra cũng chỉ như là một điểm tụ hợp để một số bạn trẻ gửi bài đến đóng góp và cùng chung một ư niệm là sáng tác những bài thơ tương tự gửi cho nhau coi. Mỗi lần gửi bài cho nhau họ lại gửi một bản tới tôi là người khởi xướng. Những bài thơ gửi giờ đây cũng thưa thớt, báo hiệu cái diễn đàn "thơ t́nh toán học" tôi khởi xướng cũng đă đến hồi chung cuộc. Đúng như lời tôi tiên đoán, vào ngày đầu năm, tôi nhận được bài thơ cuối cùng và nàng thơ toán của tôi với những tên khác nhau, nhưng nghe thật diễm kiều như Trang Hồng Quỳ, Trang Thiên Thanh, ... Huyền Nhi Nữ, Huyền Công Nữ, ... cách đây một năm bỗng chốc hiện ra, nay lại biến đi trong cơi nhạt nḥa. Bài thơ cuối cùng, được gửi kèm theo h́nh một bức tranh, h́nh như là của Tú Duyên vẽ một thư sinh ngồi như lắng nghe tiếng đàn, tiếng trúc ti từ nơi đâu ngân lại. H́nh vẽ có kèm theo lời phụ chú: "Nơi đây anh tâm t́nh--Huyền Thiên Nữ". C̣n bài thơ tôi in lại nguyên văn như dưới đây:

Người T́nh Không Gian

Anh với em đồng quy trên mặt phẳng,
Từ một chiều xa lạ của không gian,
Từ một buổi trao tần số ngỡ ngàng,
Vùng tiếp tuyến trên bờ môi, nhất định.
Đă trót yêu, từ tâm theo bán kính.
Mối t́nh đầu không hệ luận tương lai.
Biết anh đi trên quỹ tích đường dài,
Hồ mắt lệ, em vương chiều tọa độ.
Giải đạo hàm em mong t́m nghiệm số.
Kỷ niệm buồn, cực đại giữa tim ai?
Đem nhớ thương, không c̣n biết ngày mai,
Đă yêu rồi, t́nh đôi ta bất biến.
Anh từng nói yêu trong t́nh thánh thiện,
Rút căn rồi hội luận có bằng không.
Khi biết mai sau em phải theo chồng,
Buồn thẳng góc theo những đường tiệm cận.
Chiều nhớ thương chất chồng theo vô tận,
Anh đi rồi định lư sẽ sai đi.
Giải đoán nào lại không ướt bờ mi,
Thôi, chỉ đợi kiếp sau thành nhất thể.
Anh hiểu chưa, cơi ḷng em như thế,
Em muôn đời không đổi trục, anh ơi.
Nhớ thương anh, tuy chẳng nói nên lời,
Em mơ ước theo cung đường tối lợi.
T́m giao điểm cho ḷng ai mở hội,
Xác định rồi vẽ đồ thị triển khai,
Rồi chứng minh tỷ lệ suốt đêm dài,
Lên đáp số đóng khung đời h́nh học.
Bài toán t́nh luôn làm người mê hoặc,
Bởi muôn đời nó vô định, người ơi!!

Chép xong bài thơ t́nh toán học để kết thúc một câu chuyện tâm t́nh viết một ngày xuân, tôi đọc lại hai câu thơ cuối và thấy rằng quả là tôi đă mê say toán học trong suốt cuộc đời. Thuở xưa khi c̣n thích đọc những sách về văn học, tôi đă biết câu "Thư trung hữu nữ nhan như ngọc", nghĩa là trong sách có người con gái sắc diện ngọc ngà. Bây giờ th́ tôi hiểu được rằng không phải sách văn chương mới làm ḿnh mê hoặc như được nh́n thấy người đẹp qua những kinh văn, nhưng sách toán và khoa học cũng có thể làm cho ta có những phút mộng mơ.

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh
 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại