Vũ Đ́nh Kh.
Tôi đến Komtum, khi nắng chiều bắt đầu ửng sắc vàng mài mại, trời
mang mang nét buồn. Cái… “buồn muôn thửơ” kiếp làm người, của vùng
đất cao nguyên chưa chịu đi vào dĩ văng một thời xót xa đă qua; và
vẫn tồn tại trong ḷng người ở nơi vùng cao địa đầu đất nước.
Thác vẫn đỗ và con sông vẫn chảy ngược như bao đời.
Komtum với tôi là tuổi thơ mộng mị, với những đàn voi, với những
“thằng Nài” ngất ngưỡng trên những thớt voi, những hàng cây cao su
thẳng tắp, đồng đều; những cây càfê ra hoa trắng nỏn mượt mà cuối
năm, những cọc tiêu nằm sát những cây cao su cao ngất, với đất đỏ
dính đặt kẹo dưới đế dép, một thời…
Ôi Komtum, Buôn Mê! Địa đầu chiến tuyến miền cao?
Các sử gia ghi chép: Mậu Thân- Huế chết sáu ngàn người! Buôn Mê,
1975 chết bao nhiêu người? Điều này chưa lư giải, v́ đó là kết cục
của chiến tranh ly tán chưa được xác nhận! Có lẽ nhiều hơn gấp nhiều
lần??? Hay ít hơn?
Nhă Ca viết: “Giải khăn xô cho Huế”, nhưng chưa ai viết… Giải khăn
xô cho Buôn Mê!
Một điều đáng buồn!
Chuyến bay từ California, rồi đến Sài G̣n, sau đó tôi bao nguyên xe
đi Pleiku, thăm lại quê cũ, đă ngốn biết bao thời gian.
Vừa về đến nhà, tôi bảo thằng cháu:
“Chở Bác đến Tân Cảnh”.
“Ơ ḱa! Bác nghỉ ngơi chứ, mai hẳn đi”.
“Cứ chở Bác đến đấy, rồi về. Mặc Bác!”
Mấy đứa em tôi khuyên, v́ nơi vùng địa đầu cao nguyên này trời nhanh
bủa chụp bóng tối, hẳn mai hăy đi. Tôi quơ tay bảo thằng cháu, chở
tôi đi. Cả nhà buồn, nhưng cũng đồng ư, v́ họ biết tôi muốn ǵ sau
ba mươi lăm năm, ngày này -ngày buồn nhất trong đời của tôi- để trở
lại quê hương.
Thằng cháu chở đi, bỏ tôi dưới đường, trước chân đỉnh núi 960, bịn
rịn chia tay, hẹn ngày mai trở lại.
Tôi đeo ba-lô, trở lại con đường cũ quen thuộc, với cái vai c̣m cỏi
trên sáu mươi năm cuộc đời. Cuộc đời là đây! Cuộc đời của một thời
tuổi trẻ chinh chiến. Sống cho quê hương, chết cho quê hương! Dường
như, quá khứ không bao giờ tha thứ, cho những con người sống v́ một
lư tưởng. Dù rằng lư tưởng ấy đúng hay sai trong cái nh́n khía cạnh
cuộc đời, mà họ phải sống và được sinh ra nơi ấy. Ông Thiên chỉ là
bịa đặt, để con người sống tử tế hơn, không chém giết nhau, hảm hại
nhau, trong muôn trùng vây hảm ư nghĩa kiếp làm người: Tôi muốn
sống!
Vậy sao trong khía cạnh nh́n cuộc sống về phía trước, sự hoài băo
thành người hoàn thiện, tôi chỉ nh́n về quá khứ?
Quá khứ làm đau dứt tâm can! Quá khứ ngàn năm Bắc thuộc, quá khứ
trăm năm bị đô hộ bởi phương Tây, và quá khứ người đồng chủng giết
nhau bằng súng đạn phương Tây!
Tôi đi đến chân núi 960, nh́n quanh quẩn, thấy dưới chân ḿnh là tấm
ảnh của Anh, được lát kỹ trên một lớp gương trắng sáng, cùng những
thức ăn, hoa quả do ai đó cúng kiến hóa vàng, với bó nhang to và
những chân nhang cắm đầy rẫy xung quanh, đă cháy hết từ lâu nhưng
mùi hương vẫn c̣n đọng trong không gian tê tái.
Lâu lắm rồi! Từ ba mươi tám năm về trước.
“Anh Năm!”
Tôi quỳ xuống, run tay sờ bức ảnh Anh, lấy tay áo miết trên mặt
gương vốn đă sạch bóng. Vài cánh bướm bay chập chờn, tôi xua tay
đuổi. Ở tuổi trên sáu mươi, nước mắt c̣n nhỏ lệ cũng làm tôi ngạc
nhiên. Tôi đă khóc ba mươi lăm năm. Đă cạn lệ và ḷng. Tù tội, tha
hương, gia đ́nh tan nát… c̣n ǵ đau khổ hơn?
Đỉnh núi cao không quá ngàn thước, buông xuống thung lũng, với ḍng
chảy cuồn cuộn sông Pôkơ và đường 14, chính là bải đáp của cứ điểm
Charlie của tiểu đoàn 11 Nhẩy Dù.
Trên, mây trôi là là, ẩm thấp sương mù mỗi khi chiều xuống âm u đất
trời, đó là cao độ 1500 thước của hai đỉnh núi Kngok Toim, Kngok Im
Derong của vùng Tây nguyên trung phần.
…
Anh Năm ra lệnh tôi trong máy:
“Đại úy cho mấy đứa con cắt lẽ ra, chia từng nhóm mà đánh chúng nó.
“Em cắt rồi Anh Năm”.
“Cắt rồi mà sao chúng nó cứ pháo hoài?”
“Bộ Tư lệnh tiền phương, không tin chúng nó có pháo tối tân như
vậy!”
Anh Năm vô Bunker một lát, tḥ đầu ra:
“Đù mẹ! Nó ở trên cao độ hơn ḿnh nên pháo xuống. Phân tán mỏng ra
nhanh! Đại úy là dân địa phương này, biết tỏ đường đi, nên rẽ đường
mà phục chúng.”
Anh Năm lại thụt vô Bunker. Tôi thốc lính răi dài ra, cố thoát hàng
loạt đạn pháo rải xuống như mưa bùn.
Mà thực, bọn chúng được tiếp vận khí tài càng lúc càng nhiều. Pháo
trên cao trút xuống măi miết và dưới đỉnh 960, bọn chúng hầm hè bắt
loa hô khẩu hiệu xung phong. Tôi ḅ, hai cùi chỏ đi như hai chân,
hai chân lại thế đôi tay mà trườn, tay nâng súng ngang vai, cứ thế
tôi ḅ gần đến Bunker Anh, th́ nghe một tiếng nổ như vỡ tan không
khí.
Thiếu úy M. la lên:
“Trời ơi! Anh Năm bị nguyên trái rồi.”
M. trườn lên, định nhào tới bunker, tôi kéo M. xuống, nhưng hắn giựt
tay tôi ra. Chạy hơn chục bước, M. bị một loạt đạn cày từ dưới đất
lên tới lưng. Thiếu úy M. ngă xuống, cái nón sắt lăn long lốc xuống
trảng sâu bên dưới.
Thượng sĩ Quí nằm sau tôi thấy vậy, bật dậy. Tôi nắm tay ông, nói:
“Ông lên không được đâu!”
“Chẳng lẽ ḿnh để Thiếu úy và anh Năm nằm lại nơi đây?”
Dứt lời ông thượng sỹ nhào lên. Khi ông vừa tới bên cái xác thiếu úy
M., cũng một loạt đạn cày như văi trấu trên thân thể ông. Xác ông
nằm úp trên thân thể M.
Đêm lại buông xuống, cho ngày mai ngầy ngụa những thứ vũ khí giết
người! Sự lập lại: Ngày và Đêm.
Đội kèn “âm binh” ở lưng chừng lũng thổi lên từng nhịp thôi thúc
điên khùng. Những cái nón cối ló lên vành miệng đỉnh 960, như những
ḥn đá tảng, hằng hà, lớp lớp. Một biển người!
Trên cao, hai khu trục cơ ào xuống, răi một loạt bom trên đầu những
cái nón cối. Tiếng rên la, kêu thét hăi hùng, lẫn tiếng kèn thôi
thúc như ma mị. Những cái nón cối, bây giờ biết đứng, chạy và la
hét, đồng loạt xông lên.
Chúng tôi vừa ném lựu đạn, ở tầm gần sát thương nhất, vừa kéo đám
lính c̣n lại mười mấy mạng, lùi xuống con dốc lài lài, bắt đầu rút
để bảo toàn tính mạng con cái.
“Anh Năm! Em xin lỗi. Không lấy được xác Anh, suốt cuộc đời này, em
…”. Tôi khóc.
2.
Ngày này, tháng này, chiều nào tôi cũng ra đứng trên mỏm 960 nh́n
xuống lũng sâu. Đứng mà nh́n! Nh́n đứa con gái tôi, cúng vái tôi,
rồi ngồi khóc một ḿnh. Đứa con gái mà tôi yêu thương, khi tôi mất
nó vừa gần bảy tuổi. Tôi cũng nh́n những người lạ hoắt, đến thắp
dưới chân mộ tôi, mà ngạc nhiên rằng: sao họ lại cúng vái tôi, khi
không một thân thích ruột rà?
Tôi biết, con gái tôi yếu đuối, cũng như những người đến cúng vái
tôi, ngại leo lên một cao độ 960 mét, đỉnh cao của núi. Tôi muốn
vươn tay ôm tất cả, nhưng tôi ngại họ sợ… một Bóng Ma!
Nhưng hôm nay, một linh tính báo cho tôi biết một điềm lành sẽ đến,
sau khi đứa con gái tôi ra về. Chốc chốc, tôi đi ra đầu mỏm, nh́n
xuống lũng nhiều lần và thấy đứa em thân thiết ngày nào đă về như
mong đợi ba mươi tám năm!
Thằng thư sinh mặt trắng, đẹp trai nhất tiểu đoàn, khi tŕnh diện
tôi là một anh chàng sĩ quan vừa mới ra trường! Mấy ông sĩ quan cứ
nói thế.
Người thanh tao, trán dựng đứng, là loại lỳ! Anh theo tôi nhiều năm,
và tôi biết khả năng anh.
V́ thế, tôi không lạ khi anh trở về nơi chốn tôi nằm lại viên miễn.
Đốt điếu thuốc, tôi trăi những tấm “boncho” dưới lớp đất đá lạnh
lẻo, quơ mớ củi khô làm mồi cho lửa, ngồi chờ.
Nh́n những tàn lửa vụt bay trên không gian mù sương đặc quánh như
sửa, tôi nhớ đến Mẹ! Tôi có hai bà Mẹ! Hai bà đều sinh ra tôi dưới
bầu trời khắc nghiệt này! Một Mẹ cho tôi bú mớm bằng những ḍng sửa
ngọt ngào hương vị lẫn đớn đau. Một hương vị để sống, để thành Người
hoàn thiện và một hương vị cũng để sống và tàn hại nhân sinh! Bà mẹ
thứ hai to tát hơn! Bà là gia tộc mẫu hệ nhuần nhuyễn! Tôi gọi bà
nhuần nhuyễn, v́ bởi, tôi thấy và biết bọn đàn ông, chỉ là kẻ thừa
hành những dục vọng, ăn xài cho chính ḿnh v́ những thói đời cay
nghiệt: chiến tranh, tư tưởng, và nhiều thứ để họ hưởng lạc an nhàn.
Vừa hút xong mấy điếu thuốc, tôi thấy An bước lên mép đỉnh 960.
“Anh chờ chú đă lâu!”
An bỏ ba-lô, hai tay nắm vai tôi:
“Em không ngờ, anh chờ em lâu đến thế!”
“Người chờ Ma, chứ làm sao Ma chờ Người!”
“Làm sao em chờ được?”
“Trong mộng mị những giấc mơ!”
“Cái anh này! Đến đă chết, mà không thể không đùa được!”
“Gặp tao, mày không sợ à?” – Tôi thân thiện.
“Sao vậy anh Năm?”
“Tao là Ma!”
“Em cũng là Ma!”
“Nói nghe nghịch nhĩ!”
“Anh Năm cứ tưởng, sống ở ngoại quốc, ai cũng hài ḷng chính bản
thân ḿnh à?”
“Th́ tao nghe đài báo, tụi nón cối năm nào, chúng nó bảo: Bọn ăn bơ
thừa sửa cặn. Tao cứ tưởng y chang, v́ nằm đây quá lâu!”
“Thằng “mặt trắng” mà Anh thích thú, đâu đến như vậy, anh Năm!”
“Thôi bỏ qua đi. Nói tao nghe, hồi tụi mày rút xuống lũng, rồi sao?”
“Băng rừng, lội suối cả tuần mới thoát v́ chúng đeo riết quá, anh
Năm!”
Mấy cành củi khô nổ lép bép, rồi phựt lên như một đóm sáng, hơi
sương lóng lánh, mờ ảo, tạo nên một cầu ṿng nhỏ trong đêm.
An lùi lại, phản xạ tự nhiên, kéo những tấm “boncho” đầy hơi sương,
ụp xuống tàn lửa.
“An ơi! Sao mày làm vậy? Anh em chúng ta đó!”
“Trời ơi! Em quên ông Thầy. Cứ thấy lửa là ḷng dạ em nó xốn sang.
Cả quê hương này bị vây chụp từ lửa! Lửa từ Quảng Trị, lửa từ Huế,
lửa từ B́nh Long, lửa từ An Lộc, lửa từ Khe Sanh, lửa từ A Lưới, A
Sao, lửa từ Komtum, lửa từ Sài G̣n và từ khắp mọi nơi trên cái đất
nước nghiệt ngă thù hận này!”
An ôm mặt khóc như một đứa trẻ.
“Qua rồi một thời trai trẻ. B́nh tỉnh chú An!”
An rũ rũ mấy tấm “boncho” trải ngay ngắn, cúi xuống vái ba lậy:
“Anh đáng chết. Mấy em bỏ quá cho! Anh quên, c̣n lại bao nhiêu anh
em trên đỉnh đồi 960 này!”
“Thôi quên đi An ơi!”
“Anh Năm, cho em hỏi?”
“Ừa!”
“Hồi đó, ở cao độ lưng chừng này, ḿnh thua là cái chắc, tại sao họ
điều về một nơi mà họ biết là thua, mà vẫn đưa đến?”
“Ở đây, tao tự bắt cái đĩa định vị vệ tinh từ lâu, xem kênh truyền
h́nh Mỹ, thấy phim “Hamburger Hill” đến phải mũi ḷng, cho cái dân
tộc giầu có, mà tâm địa xấu xa như loài cóc nhái. Hát đồng dao ban
ngày, ban đêm ḥa giải cùng lũ bành trướng đất đai phương Bắc ác
độc.”
“Một thằng giàu vậy, mà hết thuốc chữa, anh Năm?”
“Đă từ lâu! Nếu không, tao không nằm ở cái đỉnh điểm 960 chết tiệt
này, để được vinh danh: Anh không chết đâu Anh!”
“Lịch sử, phải là đau thương, đẫm máu, mới gọi là lịch sử! Không đau
thương, đẫm máu, sao làm nên trang lịch sử? Anh Năm, phải có Nguyễn
Đ́nh Bảo là làm nên lịch sử?”
“Ơ! Thằng mắc dịch. Mày nói đó nghen An!”
“Hồi đó, anh thích ăn xôi nén với thịt gà kẹp lạp xưởng.”
“Nhớ dai dữ!”
“Anh kể mà! Vợ anh…”
Tôi đạp An ngă ngửa:
“Đừng nói vợ, con với tao. Thèm lắm… cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.”
Tôi đi đến đỉnh dốc, bốc con cu đái xuống đỉnh 960 chó chết này!
Đỉnh dốc cao, ḍng chảy của sông, lớn hơn ḷng người? Sông cuồn cuộn
chảy. Chảy vào đất đá, phù sa! Hoặc chảy vào đâu?
Chiến tranh chấm dứt, sông chảy vào ḷng người!
“Một con cu, có thể thăm ḍ sự bần tiện, sung sướng, thỏa măn đến
kinh khiếp năo ḷng nhân sinh! C̣n đâu là ư chí quật khởi?”
“Anh Năm! Nghe nặng nề quá. Nắm xôi, em gói gắm từ Sài G̣n cho Anh
đây.”
Tôi chụp gói xôi Sài G̣n thân thương ba mươi tám năm chưa về, nhai
ngấu nghiến. Như nhai kỷ niệm, nhai vợ con, nhai một thời sung túc,
nhai cả quê hương bên bờ vực thẳm hiện thời. Tôi nói:
“Của cúng cho Ma, nó khác của đem đến tận tay cho Ma!”
“Anh Năm, mỗi thời mỗi khác!”
“Con gái tôi, cũng biết ư mẹ nó, hằng năm ngày này, nó đều cúng tôi
những nắm xôi nén chặt, vo tṛn. Ba năm đầu, vợ tôi nén những nắm
xôi c̣n ngon lắm, như ngày xưa. Năm thứ tư, cũng là nắm xôi vo tṛn,
nhưng trộn nhiều hạt tṛn vo, không thịt, cứng ngắt. Tôi tức giận
ném những nắm xôi, nói: Thứ này chỉ có Khỉ nó mới ăn! Đây là thành
quả của cách mạnh thành công!?”
Ăn hết những nắm xôi, tôi nói:
“Uống trà nhé?”
“Anh có trà, ở đâu vậy?”
“Khối! Có thằng này, chuyên gia về trà mà lị! À, mà chú có nhớ thằng
Bắc?”
“Bắc nào?”
Tôi bắt loa tay:
“Bắc ơi!”
3.
Đang nướng mấy củ khoai ḿ ăn cầm hơi, tôi nghe tiếng gọi của lăo
Bảo.
“Mẹ kiếp! Đồi trọc 960 này trơ nắng, trơ sương tê tái. Cái đất này
chỉ có khoai ḿ, khoai lang là mọc được, c̣n cứt ǵ mà ăn! Lăo Bảo
có thân nhân, bạn bè tứ xứ nhớ thương mà cúng vái, cũng có ăn thịt
thà chút đỉnh! Chớ bọn tôi từ miền Bắc vào đây chết, ai biết mồ mả ở
đâu mà cúng kiến.”
Tôi đánh Mỹ cứu nước từ lúc c̣n mặc quần xà lỏn, rồi đi B.
Mười bảy tuổi, tôi đôn lên đủ tuổi, trích huyết viết đơn t́nh nguyện
ăn thề, để đi vào miền Nam, nơi đang bị g̣ xiết bởi Đế quốc Mỹ,
Thiệu, Kỳ bán nước buôn dân.
Trước hôm ra đi, tôi muốn cảm nhận: Đàn ông là thế nào, khi sung
sướng tột đỉnh bản chất làm người, khi vào vùng chết!?
Ra Khâm Thiên thử thời vận th́ tôi sợ!
Mười bảy tuổi, thiếu ăn trăm bề, tôi như một đứa con nít.
“Trái chuối” của tôi cũng nhỏ lắm. Trong mộng mị, tôi tự lột “trái
chuối” của ḿnh và thấy đau xót xa. Sợi chỉ bị xé, vài giọt nước mắt
rỉ xuống, đậm đặc màu sương sửa!
Lăo Bảo, khi thân quen cùng nằm trên đỉnh 960, hỏi tôi:
“Chơi gái Hà Nội chưa?”
“Thoải mái, như… cà-rem phơi đầy đường!”
“Biết Ba vành không?”
“Ba Lẻ Bẩy Sư Đoàn, chứ Ba Vành ǵ ông”?
“Ba vành là ba tiến công thời ấy nhé! Huế một vành, Tây nguyên lại
một vành, Miền Tây lại một vành!”
“Mà lại thua!”
“Thôi ông ơi! Vậy mà nói thoải mái…! Ba vành của bà Hồ Xuân Hương
ấy.”
…
Tôi chống cây gậy tự tạo, kẹp ngang nách khật khưởng đi ra, cầm theo
mấy củ khoai. Chỗ lăo Bảo nằm, không cách xa chỗ tôi là mấy. Tôi vừa
ngồi xuống, lăo Bảo hỏi tôi:
“Ông Bắc c̣n nhớ ông An? Ổng từ Mỹ mới về.”
Tôi nh́n người đàn ông thấy quen quen, nhưng không nhớ nổi. Tôi lắc
đầu.
An chợt reo lên:
“A. Tôi nhớ ra rồi! Đây là ông Thượng úy Bắc, thương binh, bị lựu
đạn của tôi mất một cái “chân gị” được ông thiếu tá bác sĩ cứu
thoát. Ủa, ông cũng nằm lại đây?”
Tôi nh́n An cám cảnh:
“Lúc mấy ông băng bó tôi xong, bỏ tôi nằm gần cái bunker ông trung
tá Bảo này nè, tôi nằm mê man bất tỉnh. Lúc tỉnh dậy, biết ḿnh đă
là Ma. Mẹ kiếp! Đồng đội tôi, nó giết tôi chứ nào ai khác. Chúng nó
từ đỉnh 1500 cứ dội pháo liên tục xuống, bất kể đồng chí, đồng đội
chúng đang ở lưng chừng đỉnh 960 leo lên xung phong theo tiếng kèn
như ma mị d́u dắt. Không một quân đội khốn nạn nào như quân đội nhân
dân Việt Nam! Chúng coi mạng sống đồng đội như con kiến, củ khoai.
Không như phía các ông. Thằng Việt cộng thương binh là tôi, xâm lăng
miền Nam các ông, mà các ông vẫn nhân đạo băng bó vết thương tôi, ủy
lạo tôi, th́ điều tôi thấy phi lí nhất là ḿnh đă đâm đầu vào cuộc
chiến khốn nạn nhồi da, xáo thịt này.”
Bảo đùa:
“Giờ ông mới biết?”
Tôi cười buồn:
“Khi biết, th́ phải trả cái giá làm thằng Ma xó vất vưỡng núi rừng
Tây nguyên, thân nhân không ai biết, mà cúng kiến ăn cho no đủ như
ông Bảo này! Một cuộc chiến ngu xuẩn. Khi thống nhất đất nước, ḿnh
mới nh́n ra, ḿnh đi chết cho những thằng buôn dân, bán nước của hệ
thống Đỏ khốn nạn từ đẩu đâu. ”
Tôi lấy cái ca sắt nhà binh Mỹ đeo trên vai, đổ bi đông nước vào và
vùi nó vào ngọn lửa đang nung chảy đỏ rực trên quê hương khốn khổ
này, nhón vào đó một nhúm trà trên đất Bắc luôn mang theo bên ḿnh,
từ ngày ĺa bỏ quê hương, làm Ma đất người.
Bảo buồn buồn nói:
“Chúng ta đă chiến đấu cho dân tộc này, với cái nh́n từ hai phía của
những công dân yêu nước. Dù đúng dù sai, tất cả cũng đă muộn màng.
Bọn chúng đang cày nát Tây nguyên và bán đất nước này cho ngoại bang
phương Bắc. Ṿng quay lịch sử Lê Chiêu Thống đang quay lại trên cái
đất nước này. Một con đàn bà đă viết (đại khái): Đất nước Việt này
là con, là cháu của Rợ phương Bắc! Lịch sử đă và đang sắp làm điều
đó!”
…
Lửa vẫn cháy. Vẫn cháy muôn đời trên cái đất khốn khổ ngàn năm văn
hiến.
Lửa vẫn cháy.
Đêm vẫn hỗn mang đời đời.
***
Chiêu ngụm trà, chúng tôi -những người con của Tổ quốc- ghi lại quá
khứ hỗn mang.
Canada, 07-01/05/2010
Vũ Đ́nh Kh.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại