(Mến
tặng các chiến hữu trung đoàn 44/SĐ23 BB)
(Trích Tâp san BĐQ số 33 : Sông Mao,…)
Tốt nghiệp khóa 4 Chỉ huy Tham mưu vào cuối tháng 6/ 1968. Tôi nhận
được sự vụ lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu (TTM) ra tŕnh diện Sư đoàn 23
BB. Theo lời ghi trong lệnh: để bổ sung cán bộ tiểu đoàn trưởng theo
phiếu tŕnh của SĐ23 trước đó.
Thật ḷng mà nói, tay cầm tờ sự vụ lệnh mà chẳng thấy chút nào vui.
Nửa tháng trước ngày măn khóa, tôi nhận được tin cáo phó khi đọc
trên báo hay tin tiểu đoàn trưởng của tôi là đại úy niên trưởng
Nguyễn văn Tạo, Khóa 16 Tiểu đoàn trưởng 2/11 sư đoàn 7, bị tử
thương trong một trận đánh nội tuyến ngay tại căn cứ đóng quân của
tiểu đoàn tại căn cứ Đồng Tâm.
Nhớ lại, chúng tôi có một thói quen, cứ mỗi buổi tối, khi tới giờ
phát h́nh của đài vô tuyến truyền h́nh Việt Nam, các sĩ quan tham
mưu tiểu đoàn thường tụ tập tại ngay căn pḥng khách của bộ chỉ huy
tiểu đoàn (BCH/TĐ) để nghe tin tức trong ngày và xem chương tŕnh
văn nghệ. Buổi tối ngày 17 tháng 6 năm 1968 định mệnh ấy đă xẩy ra
ngay khi chương tŕnh chấm dứt và đám tân binh mới măn khóa huấn
luyện tại trung tâm huấn luyện sư đoàn tại B́nh Đức vừa được bổ sung
cho đơn vị chúng tôi đă đồng loạt tung lưu đạn và xả súng bắn vào
ngay khu pḥng ngủ và pḥng khách của BCH/TĐ. Đơn vị cộng sản này
vốn là các binh sĩ đặc công trá h́nh đầu quân vào làm lính t́nh
nguyện của sư đoàn! Đó là tất cả những ǵ sau này tôi được biết qua
lời kể của các bạn bè c̣n sống sót sau trận nội ứng đêm 17 tháng 6
ấy.
Nh́n bản tin cáo phó ghi danh tính đầy đủ của của những đồng đội đă
hy sinh trên nhật báo vào buổi sáng thứ bẩy ngày 20 ḷng tôi xúc
động đứng không muốn vững. Tôi thật sự không tin vào đôi mắt ḿnh.
Tôi tự nhủ thầm “Nếu tôi không được gọi đi học lớp Chỉ huy tham mưu
này không biết tôi có c̣n sống sót không?”
Tạo là đàn anh của tôi. Anh tốt nghiệp trước tôi một khóa. Vốn là
một sĩ quan thủ kỳ của Tiểu đoàn 1 SVSQ khi c̣n ỡ trường Vơ Bị nên
anh khá bảnh trai, trắng trẻo và cao lớn. Anh về làm Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 2/11 vào khoảng gần cuối năm 1967. C̣n tôi cũng bàn
giao lại đại đội 11 trinh sát cho một người bạn đồng khóa, đại úy
Nghê hữu Cung, để về làm Tiểu đoàn phó cho anh. Hai anh em phải nói
là rất ăn ư với nhau, từ cách quản trị đơn vị cho tới việc bàn thảo
kế hoạch hành quân. Anh cho rằng tôi có nhiều kinh nghiệm chinh
chiến trong suốt thời gian lăn lóc với đại đội trinh sát nên anh
thường đồng ư với những ǵ tôi làm khi điều động trong tác chiến.
Tính anh thẳng thắn và không ngại va chạm với cả thượng cấp trong
những kiểu chỉ huy tùy tiện hoặc ra lệnh miệng nên anh thường nói
đùa với tôi: “Tớ nói thật với Vũ đời tớ chỉ có sợ ông bà già thôi.
C̣n bất kỳ ai ra lệnh cho tớ cũng phải hợp lư và hợp pháp mới được.
Đời ḿnh nhà binh, lính t́nh nguyện, đi đâu cũng vậy, làm ǵ cũng
được nhưng làm sao để cho thuộc cấp và đồng đội đừng khinh ḿnh. C̣n
lon lá cùng ḿnh mà dùng thủ đoạn lén lút thượng đội hạ đạp th́
không có tớ đâu”. Từ lúc về làm việc chung với anh thời gian chừng
nửa năm, trải qua hai ba trận đụng độ lớn, lúc ở chiến trường Đồng
tháp với tiểu đoàn 261, 263, 265… hoặc trận đánh tại Hoà Đồng G̣
Công khi đụng với tiểu đoàn 514. Cả hai trận thắng đă mang lại danh
tiếng cho tiểu đoàn với danh hiệu tiểu đoàn Chim Ưng Cổ nâu v́ chiếc
khăn choàng cổ mầu nâu phân biệt với các đơn vị bạn khác có màu xanh
vàng hoặc đỏ.
Tôi nhớ hôm chia tay nhận sự vụ lệnh đi học, anh em trong đơn vị ăn
bữa cơm thân mật buổi chiều tại bộ chỉ huy tiểu đoàn. Cả “một ḷ” Vơ
bị gồm gần chục tên kể cả đám khóa đàn em từ tiểu đoàn 3/11 đóng sát
bên hè cũng qua “ăn ké” . Anh Tạo là đại niên trưởng, Tôi là khóa
kế, tiếp sau là đám Trần tấn Trung K19 Chương Khóa 19, Phạm ngọc
Tài, Nguyễn đào Đoán Ngô gia Truy; Bùi văn Nữa, Thanh Khoá 21. Anh
em vui vẻ uống bia, nói chuyện tán dóc. Tan tiệc, Tạo kéo tôi ra sân
dặn ḍ đủ thứ rồi luôn nhắc chừng “Học xong th́ về lại đơn vị với
tụi này nghe không “. Tôi bùi ngùi nh́n anh. Cả hai anh em im lặng
chia tay. Không biết tại sao lúc đó tôi lại cảm nhận một điều ǵ đó
rất lạ lùng không mấy vui khi xa anh.
Mới đọc tin buồn trên báo, hai ngày sau tôi nhận được điện tín của
trung tá Trần tiến Khang, trung đoàn trưởng 11, yêu cầu tôi sau khi
măn khóa về ngay trung đoàn để giữ chức vụ tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 2/11 thay thế cho anh Tạo. Trong ḷng biết bao ưu tư. Tôi nhớ
tới những sĩ quan trong ban tham mưu tiểu đoàn, nhớ tới những sĩ
quan đàn em đồng trường mới hôm nào c̣n nói vui đùa với nhau giờ đây
không c̣n nữa.
Ba tuần lễ sau cái tin sét đánh đó chúng tôi tốt nghiệp. Trước khi
tốt nghiệp 3 ngày, tôi nhận được lệnh gặp trung tá trưởng pḥng I
của Sư đoàn 23, trung tá Nguyễn văn Nam. Ông cho tôi biết tôi được
chọn về SĐ 23 theo nhu cầu bổ sung sĩ quan chỉ huy cấp tiểu đoàn của
đơn vị này. Tướng Trương quang Ân là Tư lệnh SĐ 23 lúc đó đang muốn
trẻ trung hoá các cấp chỉ huy tiểu đoàn trong đơn vị của ông. Thực
ḷng tôi muốn trở về lại đơn vị cũ, v́ dù ở đâu, tôi cũng vẫn chỉ
huy tiểu đoàn nhưng ở một nơi tôi đă biết rơ thuộc cấp của ḿnh,
thông thuộc địa thế và t́nh h́nh địch bạn dù sao, theo tôi nghĩ cũng
vẫn thuận lợi hơn. C̣n thêm một yếu tố riêng tư nữa, gia đ́nh tôi
đang sinh sống tại Sài G̣n và mẹ tôi sức khoẻ cũng ngày càng yếu v́
căn bịnh phổi của bà. Tôi thực sự mong được sống gần bà để có thể
chăm nom săn sóc.
Tôi đă từ chối và nêu ra các lư do kể trên với Trung tá Nam. Ông có
vẻ không hài ḷng. Ông bảo ai cũng muốn về đơn vị cũ th́ làm sao thi
hành được lệnh này. Tôi nhớ trong 4 người do ông muốn điều chuyển
gồm các đại úy Phạm Dũng thuộc SĐ1, Lê văn Thâm SĐ22, Nguyễn minh
Quân (cùng khóa với tôi) SĐ5, và tôi thuộc SĐ7. Chỉ có duy nhất Dũng
là một sĩ quan t́nh báo thuộc SĐ1 không về 23, c̣n lại 3 chúng tôi
đều phải ra tŕnh diện BTL/ SĐ23 để nhận nhiệm vụ mới.
Giữa tháng 8/1968 Tôi theo phi cơ C47 từ Tân Sơn Nhất đi Ban mê
Thuột sau hai tuần nghỉ phép khi măn khóa học. Đại úy Dương đức Sơ,
người bạn cùng khóa, lúc đó là phó pḥng I ra đón và đưa tôi về nghỉ
tạm tại câu lạc bộ sĩ quan của sư đoàn có tên là Hội quán Biên Thùy
ngay tại trung tâm thành phố Ban mê thuột.
Trong thời gian này, Tướng Ân đang bận chỉ huy hành quân tại Đức Lập
nên tôi phải chờ đợi gần 10 ngày mới được gặp ông. Ông dặn ḍ đủ
điều và với cung cách cư xử của ông tôi có phần càng buồn hơn. Khác
hẳn với lần tŕnh diện đơn vị đầu tiên của tôi khi mới ra trường vào
đầu tháng 4/1963 với Đại tá tư lệnh SĐ 7 lúc đó là Đại tá Bùi đ́nh
Đạm. Đại tá Đạm vui vẻ thân thiết và cởi mở hơn. Ông tạo cho các tân
sĩ quan chúng tôi một niềm hănh diện và tin tưởng vào công việc của
ḿnh. Tướng Ân ngược lại, tỏ ra không mấy thiện cảm với tôi, một tên
đại úy non choẹt dám có ư kiến ư c̣ thẳng thắn với ông, mà vốn dĩ
tính cách của ông, một cấp chỉ huy luôn yêu cầu tinh thần phục tùng
tuyệt đối nơi thuộc cấp của ḿnh. Tính tôi vốn từ lâu vẫn thói nào
tật nấy, tôi luôn tôn trọng mọi người bất kể người đó cấp bực ǵ, và
cũng đ̣i hỏi được tôn trọng trở lại. Vốn có thành kiến với một số sĩ
quan chỉ huy tiểu đoàn cũ dưới quyền mà ông cho là kém khả năng và
sử dụng đơn vị dưới quyền như một phương tiện thu vén cá nhân. Dưới
mắt ông mọi sự “đánh phủ đầu” là cần thiết! Ông quên một điều căn
bản, là quân nhân, bất kể cấp bực ǵ, họ cũng có niềm tự hào riêng
về cá nhân và mọi ư kiến của thượng cấp không phải lúc nào cũng là
chân lư tuyệt đối, nhất là những giả định có tính áp đặt kiểu ai
cũng giống ai là điều rất khó chấp nhận.
Cho nên hậu quả là thay v́ “Để bổ xung cán bộ tiểu đoàn trưởng”
chiếu theo phiếu tŕnh của BTL/SĐ 23 do Bộ TTM/P1 cấp cho tôi th́
khi tôi được lệnh xuống tŕnh diện Trung đoàn 44 trở thành ” Bổ sung
cán bộ chỉ huy, tùy theo khả năng chỉ định chức vụ!” Trung tá Nguyễn
bá Thịnh là trung đoàn trưởng 44 lúc đó, ngay trong đêm hôm tôi chờ
phương tiện di chuyển xuống Sông Mao tŕnh diện đă điện thoại cho
tôi phàn nàn “Chú mày làm ǵ để cho ông tướng bực ḿnh vậy?‘’ Trung
tá Thịnh là thầy dậy chúng tôi môn tác chiến ở trường Vơ bị. Tôi trả
lời ông “Chuyện dài lắm, khi nào xuống gặp trung tá tôi sẽ kể”.
Tôi lại đáp phi cơ C47 đi Sông Mao vào đầu tháng 9 năm 68. Khi bánh
phi cơ chạm đất, nh́n phi đạo lót bằng những tấm PSP đục lỗ tṛn nằm
lọt thỏm giữa một thung lũng nhỏ mà hướng bắc, và đông bắc là những
rặng núi trùng điệp cao ṿi vọi tôi thấy trống trải trơ trọi lạ
lùng. Kể từ ngày ra đơn vị, lăn lộn trên chiến trường đồng bằng c̣
bay thẳng cánh nh́n bốn hướng chẳng t́m thấy một bóng đồi núi giờ
đây là ngược lại. Đeo trên lưng chiếc ba lô nhỏ, tay xách một “sac”
đựng quân trang lớn tôi lên xe jeep của BCH/TRĐ ra đón tại sân bay
do thiếu úy Mai xuân Bê, sĩ quan ban 1 TR/Đ.
Xe chạy chừng chưa tới 5 phút, tôi ghé ngang qua ban 1 gặp trung úy
Huỳnh tương Đương, trưởng ban, để tŕnh sự vụ lệnh. Ngồi chờ nửa
tiếng tôi được Đương hướng sẫn đi gặp trung tá Thịnh trung đoàn
trưởng. Trung tá Thịnh vẫn ốm nhom như hồi nào c̣n ở quân trường, ra
đón tôi trước cửa văn pḥng, ông kéo tôi vào ngồi trên bộ ghế salon
bằng ghỗ pháo binh ở góc pḥng rồi bắt chuyện.
Ông hỏi tôi từ chuyện gia đ́nh vợ con, những đơn vị tôi đă phục vụ
kể từ ngày ra trường… cho tơí lư do khiến vị Tư lệnh sự đoàn không
hài ḷng trong buổi tôi tŕnh diện. Tôi kể ông nghe hết các chi tiết
trong buổi tŕnh diện ấy. Tôi nói với ông “Tôi là một sĩ quan hiện
dịch. Từ ngày ra trường tôi đă lăn lộn trên nhiều chiến trựng tôi
luôn thực hiện nhiệm vụ được giao trong tinh thần trách nhiệm và tôn
trọng kỷ luật của quân đội. Tôi tự nhận ḿnh không làm những điều ǵ
sai trái với quân kỷ, lại càng không vi phạm những quy tắc đạo đức
của một sĩ quan. Tôi luôn tôn trọng thượng cấp và thi hành nghiêm
chỉnh lệnh được ban ra. Tuy nhiên, tôi cũng đ̣i hỏi cấp chỉ huy của
tôi cũng phải tôn trọng tôi trong tư cách một sĩ quan thuộc cấp.”
Tôi cũng kể ông nghe, khi tướng Ân nói với tôi “Tôi không muốn một
sĩ quan từ ở đơn vị khác xin về đây cướp cơm chim của các sĩ quan
trong sư đoàn chúng tôi”. Câu nói đă làm tôi mất kiên nhẫn và vượt
qua sự chịu đựng của tôi. Tôi đă trả lời ông “Tôi quan niệm vào quân
đội để phục vụ đất nước, bảo vệ dân chứ không phải phải vào quân đội
để kiếm cơm. Vả lại tôi được điều ra đây là do lệnh điều động bổ
sung cán bộ chỉ huy của Bộ TTM và ngược với nguyện vọng của tôi là
muốn trở về phục vụ tại đơn vị cũ. Điều này trung tá Nam trưởng
pḥng 1 có thể xác nhận cho tôi.” Đó là lư do khiến Tư lệnh không
hài ḷng. Trung tá Thịnh cười bảo tôi “Tao nghĩ chú mày chỉ là gà
non háu đá! Ông tướng dặn ḍ điều ấy đâu có ǵ qúa đáng mà phải phản
ứng?” Tôi cười buồn trả lời ông: “Có lẽ trung tá nói cũng đúng, tôi
quá mẫn cảm và không hiểu rơ ư của ông ấy.
Dù sao câu chuyện cũng đă xẩy ra rồi. Tính tôi là vậy, trung tá c̣n
nhớ lời Đại tá Trần ngọc Huyến chỉ huy trưởng trường Vơ Bị trong một
bài học Lănh đạo chỉ huy tổ chức hàng tuần trước ngày chúng tôi ra
trường không? Thầy Huyến khuyên chúng tôi muốn là một sĩ quan giỏi
trước hết phải là một con người trong ư nghĩa đích thực của nó trước
đă. Thành công tuy quan trọng nhưng không quan trọng bằng thành
nhân. Muốn thành nhân phải đặt ra cho ḿnh một lư tưởng mà noi theo.
Lư tưởng giống như chiếc la bàn chỉ hướng cho ḿnh đi suốt cuộc đời.
Cái hướng chỉ đường đó được cụ thể hóa ra bằng một câu châm ngôn.
Rồi ông nêu ra câu châm ngôn cho chính ông. Câu đó là “Thà sống cho
người ta ganh ghét chứ không để cho chúng khinh”. Trung tá Thịnh
đứng lên khỏi ghế vỗ vai tôi “Chú mày c̣n lư tưởng lắm, hăy ráng
sống với lư tưởng của ḿnh đeo đuổi, nhưng cũng không nên quên ngộ
biến tùng quyền.” Tôi đă ghi nhớ lời dặn ḍ ân cần của ông trong
buổi nói chuyện thân mật ấy măi cho đến tận ngày hôm nay.
Tôi được ông cho theo Bộ chỉ huy trung đoàn để học làm quen trong
lúc chờ giao nhiệm vụ. Cùng một đợt ra tŕnh diện với tôi, các đại
úy Thâm và Quân lần lượt nhận được lệnh bàn giao các chức vụ tiểu
đoàn trưởng 1 và 4/44.
Đầu tháng 9 trung đoàn tổ chức cuộc hành quân vào mật khu Văn Lâm
thuộc lănh thổ Ninh Thuận, vùng giáp ranh với tỉnh B́nh Thuận.
BCH/TRĐ đóng ven quốc lộ 1 cách Cà Ná chừng 5 cây số. Tiểu đoàn 1/44
của thiếu tá Trương văn Anh là nỗ lực hành quân chính. Sau khi được
xe GMC chở đến tuyến xuất phát, tiểu đoàn nhắm thẳng hướng đông là
rặng núi Đá Bạc cao độ 644 mét chạy song song với Quốc lộ Một hướng
ra biển. Cuộc hành quân kéo dài ba ngày không có đụng độ ǵ lớn
ngoại trừ vài lần chạm súng lẻ tẻ với các toán du kích trong vùng.
Buổi chiều ngày hành quân thứ tư, trong lúc BCH/TRĐ đang theo dơi
diễn tiến th́ sĩ quan truyền tin vào báo tướng Tư lịnh Sư đoàn ghé
thăm. Sĩ quan ban ba lúc đó là trung úy Đặng trung Đức K19 chuẩn bị
phần thuyết tŕnh. Thiếu tá Nguyễn công Ba nguyên trước đó là tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn 3/44 đă bàn giao đơn vị đang chờ nhận nhiệm sở
mới và tôi là người mới được bổ nhiệm về chờ quyết định đang xớ rớ
không biết làm ǵ th́ Tướng Ân bước vào lều chỉ huy. Sau khi trung
tá Thịnh thuyết tŕnh xong t́nh h́nh, tướng Ân quay qua nh́n thấy
tôi, ông hỏi trung tá Thịnh “Ông này làm ǵ ở đây?” Trung tá thịnh
trả lời “Thưa thiếu tướng, tôi đang cho đại úy Vũ đi theo làm quen
với đơn vị để chờ bổ nhiệm”. Tướng Ân ra lệnh “Làm quen th́ đi theo
đơn vị tác chiến chứ làm quen ǵ ở đây?! Cho ông ta ra ngay theo
tiểu đoàn đang hành quân.” Ngay sau đó, tướng tư lệnh cho phép dùng
trực thăng chỉ huy của ông để đưa tôi ra ngay đơn vị đang trên đỉnh
núi Đá Bạc. Quyết định khá bất ngờ khiến cho thiếu tá Anh tiểu đoàn
trưởng phải cho dọn gấp một băi đáp khẩn cấp để trực thăng hạ cánh.
Ngoài chiếc ba lô, thậm chí cả cây súng cá nhân tôi cũng chưa kịp
lănh, tôi đă tŕnh diện thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1 trong
t́nh trạng như thế. Thiếu tá Anh tiếp tôi trong cái bắt tay đầy cảm
thông. Và tôi được biết sau đó, trung tá trung đoàn trưởng ra lệnh
miệng cho thiếu tá Anh bổ nhiệm tôi là tiểu đoàn phó tiểu đoàn này.
Buổi tối trên núi cao đầu tiên trong cuộc hành quân leo núi của tôi
là một đêm nhiều hoài niệm. Nằm nghe tiếng gió ŕ rào hoà trong
tiếng sóng biển ào ào nghe rất lạ, khác hẳn với không khí yên ắng
tịch mịch của những đêm miền đồng bằng mà tôi đă gắn bó trước đó rất
lâu. Tôi buông lỏng hồn ḿnh bay bổng vào khoảng không bao la đầy ắp
sao đêm trên trời
Sông Mao là một thị trấn nhỏ c̣n có tên nghe mỹ miều hơn: Quận Hải
Ninh, hoặc quận Phan lư Chàm.
Từ ngă ba Phan Lư nằm trên quốc lộ 1 đi vào hơn 3 cây số là quận lỵ.
Dân số phần đông là thân nhân của những quân nhân thuộc Sư Đoàn Nùng
từ miền bắc di cư vào trấn đóng trước đó mang theo. Sư đoàn này là
tiền thân của sư đoàn 5 sau này. Ngoài khu ven chợ Sông Mao, thị
trấn chỉ có những con đường nhỏ có những căn nhà trệt một hoặc hai
lầu. Dân số không đông, đa phần là người Hoa vùng Móng Cáy.
Phía bắc đông bắc là ngọn núi Bèo cao độ 632m cây thưa vách đá dựng.
Tây bắc là ngọn Cà Tăng thấp hơn, cao độ trung b́nh 600m. Nước từ
trên các cao độ này theo đường thông thủy chảy vào Sông Mao theo
hướng tây bắc đông nam. Mang tiếng là sông nhưng nước lúc nào cũng
cạn lắm, giống như một con suối lớn th́ đúng hơn.
Nói chung thị trấn có phong cách của một khu trại lính hơn là một
thị trấn b́nh thường. Trên phố xá lính luôn nhiều hơn dân. Thị trấn
luôn làm cho người ta quên đi nếp sống b́nh thường thoải mái đáng lẽ
nên có của một nơi dựa lưng vào núi ngoảnh mặt ra biển như nơi đây.
Năm tôi ra tŕnh diện đơn vị t́nh h́nh chiến sự nói chung không căng
thẳng và gay cấn như thời gian trước đó khi tôi c̣n ở trong Nam.
Quốc lộ 1 quăng đi qua Sông Mao chỉ có một đoạn là nguy hiểm, khúc
Lương Sơn, nơi đó thuộc mật khu Lê Hồng Phong. Mật khu này nằm thu
gọn trong vùng rừng cây rậm gồm nhiều bụi cây gai, loại cây thích
hợp cho khí hậu sa mạc nằm ở phía nam quốc lộ, một mặt giới hạn bằng
quốc lộ c̣n phía kia là bờ biển Phan Thiết. Nằm giữa mật khu là ngọn
núi Tà Dôm không cao lắm. Trên đỉnh là một đồn do địa phương quân
(ĐPQ) tiểu khu trấn đóng. Nơi đây BCH44/TRĐ đặt một toán truyền tin
để chuyển tiếp tin tức từ Tiểu khu Phan Thiết với Sông Mao, đồng
thời cũng dùng làm điểm trung chuyển truyền tin cho các đơn vị của
Trung đoàn khi hành quân xa căn cứ.
Ngày 8 tháng 9, buổi sáng ngày hành quân cuối cùng sau một tuần lặn
lội. Tiểu đoàn lục soát xong mục tiêu trên đỉnh Ḥn Mai và được lệnh
hạ sơn lục soát mục tiêu cuối cùng trên đồi nhỏ 358 ở hướng bắc.
Cũng phải đến hơn sáu giờ chiều chúng tôi mới ra tới điểm tập trung
nằm ngay tại khúc dẫy Trường sơn đâm ngang ra biển. Nơi đây quốc lộ
1 đổi hướng từ đông tây trở thành hướng chính bắc.
Nằm trên ghềnh đá sát bên tuyến đường sắt, lính của tiểu đoàn chia
phiên nhau xuống tắm biển. Tôi tự nhủ thầm đây quả thật là một kỷ
niệm khó quên trong đời lính. Thỉnh thoảng một chiếc xe hàng chở
khách đi Ninh Thuận hoặc Nha Trang chạy ngang qua, hành khách trên
xe dơ tay vẫy chào lính, lính đưa tay vẫy chào trở lại cười đùa…
Buổi chiều khoảng bẩy giờ, tôi được tin thiếu tá Anh cho biết tướng
Ân Tư lệnh sư đoàn cùng phu nhân tử nạn trong một tai nạn máy bay
khi đang bay hành quân trên vùng trời Đức Lập. Tôi nhớ lại mới đó
không lâu, trong lần tŕnh diện ông, ông chắc hẳn không mấy hài ḷng
về tôi, một tên đại úy vô danh tiểu tốt dám “có ư kiến ” với ông,
một điều tối kỵ với tính cách riêng của ông trong cung cách cư xử
với thuộc cấp của ḿnh. Đặc biệt là một tên lính mới được bổ sung
đến, chưa lập được thành tích ǵ.
Tôi tự nhủ thầm cầu mong ông bà được siêu thoát, đừng vướng bận ǵ
với cơi ta bà đầy rẫy những trí trá lọc lừa này nữa. Những muộn
phiền v́ nhiệm vụ và công việc của một cấp chỉ huy có tinh thần
trách nhiệm cao như ông nên được bỏ xuống để nghỉ ngơi. Suy cho
cùng, làm thân phận một người lính lẽ sống chết là điều hiển nhiên
chỉ có khác chăng là cách hy sinh thôi. Tôi vẫn nghĩ, một vị tướng
chết trong khi thi hành nhiệm vụ luôn xứng đáng và đáng trân trọng
hơn bất kỳ những kiểu ra đi nào khác. Bất giác tôi nhớ tới hai câu
thơ cổ “Giai nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạch
đầu.”
Buổi tối nằm trên ghềnh đá nghe tiếng sóng biển ́ ̣m đập lên vách đá
nghe thật thoải mái dễ chịu dễ ngủ. Thân thể mát mẻ, tâm hồn buông
lỏng cùng đất trời, những âm thanh của tự nhiên như tiếng vỗ về
giống tiếng hát của mẹ tôi khi tôi c̣n nhỏ. Giấc ngủ đến rất tự
nhiên và ngọt ngào.
Đoàn xe đến đón chúng tôi trở lại Sông Mao vào sáng hôm sau. Khi
chạy vào đến doanh trại của trung đoàn bụi cát mù trời. Tiếng lính
tráng gọi nhau ơi ới, gia đ́nh binh sĩ từ những trại gia binh kế cận
cũng ùn ùn kéo tới đón chồng con thân nhân. Tôi xách ba lô vào pḥng
ngủ sĩ quan độc thân, quăng chiếc ba lô lên ghế bố nằm suy nghĩ vẩn
vơ.
Kể từ ngày ra trường cho tới thời gian này tôi mới được hưởng cái
thú đơn vị sau khi hành quân về, trở về doanh trại nghỉ ngơi! Nghĩ
đến đơn vị cũ của tôi mà ḷng lại thấy thương đồng đội vô cùng. Các
đơn vị tôi phục vụ trước đó thuộc trung đoàn 11 thuộc Sư Đoàn 7 BB.
Mang tiếng là có bộ tư lệnh (BTL) đóng tại Mỹ Tho và bộ chỉ huy
trung đoàn (BCH/TRĐ) tại Phú Lâm nhưng chưa bao giờ tôi biết đến
doanh trại là ǵ! Hành quân xong là kéo về một xóm hẻo lánh nào đó
hoặc dọc theo quốc lộ để trú qua đêm. May mắn lắm, năm th́ mười họa
đôi khi về ghé nghỉ ở chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho một hai đêm. C̣n phần
lớn là trên các xóm bên đường dọc theo quốc lộ 4. Suốt cuộc đời
người lính trong đơn vị cũ của tôi thực sự chẳng bao gị có được một
thời gian nghỉ quân theo đúng nghĩa. Chỗ nào cũng là mặt trận, chỗ
nào cũng có thể bị đánh lén hay pháo kích. Có những gia đ́nh binh
sĩ, hạ sĩ quan sống lay lất theo lính đi hành quân. Quân vừa tới vị
trí dừng nghỉ là đă có gia đ́nh vào thăm ở lại. Câu chuyện lính và
gia đ́nh đi theo ngay sau khi đơn vị dừng nghỉ quân từng là mối đau
đầu của các cấp chỉ huy chúng tôi thời điểm ấy. Nhu cầu chiến trường
qúa lớn, lực lượng tham chiến lúc nào cũng thiếu. Thành ra có lúc
chúng tôi nói đùa với nhau chỉ có súng đạn có lúc được nghỉ c̣n lính
th́ chỉ được phép nghỉ khi cuộc sống dừng lại. Một cuộc nghỉ ngơi
theo đúng nghĩa.
Đang mơ màng tôi choàng dậy khi nghe tiếng gọi tên. Tiếng Quân người
bạn đồng khóa và cùng học chỉ huy tham mưu với tôi đi tới. Quân bảo;
“Tao về nhận bàn giao tiểu đoàn 4.” Mày muốn làm việc chung với tao
chứ?” Tôi hững hờ, “Sao cũng được”.
Sáng hôm sau Mai xuân Bê sĩ quan ban 1 TR/Đ tới tiểu đoàn chuẩn bị
lễ bàn giao giữa thiếu tá Anh và
Đại úy Quân đồng thời thông báo cho tôi biết trở về BCH/TRĐ nhận
lệnh mới. Mai xuân Bê là anh chàng chuẩn úy tôi quen khi c̣n ở trung
đoàn 11 cũ. Bê bảo ” Anh được bổ sung qua tiểu đoàn 2 làm tiểu đoàn
phó cho đại úy Lê văn Anh nhân tiện mời anh đi ăn sáng luôn với em”.
Chúng tôi vui vẻ kéo nhau ra quán Kỳ Hương, quán ăn ngon nhất của
Sông Mao. Quán nổi tiếng với hai món đặc sản bồ câu quay và chân gị
heo hầm. Bê cười hỏi tôi “Anh thấy t́nh h́nh sinh hoạt ngoài này ra
sao?” Tôi ậm ừ “B́nh yên hơn so với đơn vị cũ phải không?” Rố thêm
vào “Ở đây buồn qúa, một Thị trấn buồn hiu!” Cả hai cùng cười.
Đại úy Anh là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44 tốt nghiệp khóa 8 Đà
Lạt. Người gốc miền tây, tính t́nh xởi lởi dễ thân. Đại úy Anh bảo
tôi “Cậu về làm việc với tôi là tôi vui rồi.” Ông mời tôi về nhà ông
tại khu cư xá gia đ́nh sĩ quan ăn bữa cơm gia đ́nh. Ông hỏi tôi “Sao
đang ở vùng đồng bằng vui vẻ thế mà lại lặn lội ra nơi khỉ ho c̣ gáy
này? ” Tôi mỉm cười, “Đại úy cũng biết đấy, đời nhà binh nào ai cứ
muốn là được đâu” Đại úy Anh nói với tôi “Ở nơi này có khi hành quân
cả tuần chẳng thấy bóng một người! Chẳng bù cho vùng đồng bằng miền
tây đi đâu cũng gặp dân gặp đồ ăn nước uống!” Chúng tôi ngồi ăn uống
tṛ chuyện với nhau cho tới gần 9 giờ đêm mới ra về.
Về tiểu đoàn 2 chưa đầy ba ngày th́ tôi lại nhận được lệnh bàn giao
nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44 với đại úy Anh. Đại úy Anh
được thuyên chuyển vể tiểu khu Định Tường- Nơi tôi từng làm việc và
có biết bao kỷ niệm đời lính- Tôi nhủ thầm quả đất thật vần xoay kỳ
lạ. Duy có điều tôi biết chắc khi nhận được lệnh thuyên chuyển này,
đàn anh của tôi, đại úy Anh rất vui, khác hẳn tâm trạng của tôi khi
cầm tở sự vụ lệnh tŕnh diện đơn vị mới.
Tháng 10, tôi được lệnh đưa tiểu đoàn đi tŕnh diện tiểu khu Phan
Thiết để hành quân khu đông bắc vùng Thiện Giáo và Phú Hội, Phú
Long. Những ngày hành quân tại đây cũng chỉ là những cuộc hành quân
nhỏ phối hợp với lực lượng ĐPQ t́m lùng địch. Đơn vị địch đối đầu
với chúng tôi là các đơn vị địch thuộc quân khu 6 của tướng cộng sản
Nguyễn văn Ngà là tư lệnh. Hai tiểu đoàn cơ động chính là là các đơn
vị 491 và 492. Đa phần hoạt động của các đơn vị này là tổ chức các
cuộc phục kích trên quốc lộ 1, trên các khu vực tiếp giáp với mật
khu lê Hồng Phong.
Cuối năm 1969 có những cuộc đụng độ cấp tiểu đoàn khi địch tổ chức
phục kích các đoàn xe cơ giới của Hoa Kỳ khai quang mật khu Lê Hồng
Phong. Từ đó, các đơn vị của trung đoàn 44 luân phiên nhau tăng
cường hành quân phối hợp cùng tiểu đoàn 3 thuộc Lữ đoàn 506 Nhẩy dù
của Hoa kỳ. Thay thế trung tá Thịnh, Trung đoàn trưởng 44, lúc này
là trung tá Phạm Ngân cũng là người tôi biết khi ông c̣n là một tiểu
đoàn trưởng của trung đoàn 10 Sư đoàn 7, thường tham gia hành quân
chung với đơn vị cũ của tôi.
Sau trận đánh phục kích của cộng quân thất bại trên quốc lộ 1 khu
gần Lương Sơn đă gây tổn thất lớn cho đơn vị địch, địch quân phân
tán nhỏ để tránh giao chiến và hoạt động du kích. Cho đến khi mật
khu Lê Hồng Phong bị chia ô khai quang thành từng giải rừng cách
nhau 3, 4 trăm thước trông giống như một sân bóng tṛn th́ mưu đồ
dùng mật khu Lê hồng Phong của địch để quấy rối không c̣n áp dụng
được nữa.
Măi đến tháng 4 năm 1970, địch mới tổ chức được một cuộc tấn công có
tính quy mô. Lần này mục tiêu là Sông Mao. Đơn vị địch tham chiến là
hai tiểu đoàn chủ lực 481 và 482 cùng đặc công. Chỉ có điều những
tính toán của địch và kế hoạch tấn công không được nghiên cứu kỹ nên
khi cuộc tấn công bắt đầu họ không xác định được chính xác mục tiêu
chủ yếu thành ra các đơn vị dẫn đầu đi lạc lung tung bên ngoài bờ
rào kẽm gai các doanh trại đơn vị của trung đoàn. Mớ đạp phải ḿn
claymore, mớ bùng nhùng trong giây kẽm gai khiến cho sau đợt pháo
kích bằng 82 ly của họ không đủ để hỗ trợ cho các đơn vị đặc công và
xung kích xâm nhập mục tiêu. Thậm chí sau này khi bắt được tù binh,
qua cung từ, chúng tôi được biết họ muốn nhắm đánh vào BCH/TRĐ nhưng
trên thực tế họ lại đi lộn vào khu vực của tiểu đoàn 2 chúng tôi!
Gần 1 giờ đêm họ mới khai hỏa, cho đến gần 3 giờ sáng th́ biết chắc
đă thất bại, địch cho lệnh rút quân. Sáu giờ sáng Tiểu đoàn 2 và
3/44 cùng đại đội trinh sát 44 được lệnh hành quân truy kích
địch.Tám giờ sáng một hợp đoàn trực thăng thuộc phi đoàn 269 từ Nha
Trang vào hỗ trợ hành quân theo yêu cầu của trung đoàn. Tiểu đoàn
2/44 được trực thăng vận thẳng vào chân núi Cà Tăng phía tây bắc lục
soát dọc theo các đường thông thủy Sông Mao đi ngược về căn cứ. Đại
đội 44 Trinh sát được thả vào chân núi Bèo ở hướng bắc lục soát về
hướng nam. Tiểu đoàn 3 mở rộng ṿng đai lục soát khu vực phi trường
Sông mao. Từng toán nhỏ địch quân lần lượt lọt vào tầm hỏa lục của
chúng tôi và các trực thăng vơ trang bay truy đuổi trên đầu. Bốn giờ
chiều cùng ngày, cuộc hành quân truy kích chấm dứt. Kết quả thiệt
hại bên ta không đáng kể, đặc biệt là không có ai bị tử thương.
Ng̣ai số xác chết địch bỏ lại ng̣ai ṿng rào các doanh trại tiểu
đoàn 2 và 3 trong cuộc truy kích chúng tôi c̣n tiêu diệt và bắt sống
một số lượng tù binh và thương binh binh địch đáng kể. Đây là trận
đánh quy mô tôi tham dự kể từ ngày về tŕnh diện đơn vị này.
Từ giữa năm 1970 trở đi, khi trung đoàn phối hợp hành quân cùng đơn
vị Hoa kỳ thuộc Lữ đoàn nhẩy dù 506 tăng phái cho tiểu khu B́nh
Thuận nhằm phá nát mật khu Lê Hồng phong, chúng tôi sử dụng chiến
thuật mới. Thay v́ như trước đây, cả tiểu đoàn tiến theo một trục và
các mục tiêu được xác định rồi đánh số trên các phóng đồ hành quân
th́ bây giờ tiểu đoàn được giao phó cho một khu vực hành quân. Căn
cứ theo t́nh h́nh, tiểu đoàn trưởng tùy theo địch t́nh khu vực và
sáng kiến cá nhân, tự hoạch định mục tiêu cho đơn vị ḿnh. Thực ra,
chiến thuật này không mới mẻ ǵ, chỉ là áp dụng theo kiểu hành quân
của các đơn vị Hoa kỳ đang làm thôi. Trước đây v́ thiếu phương tiện
yểm trợ và chuyển quân nên không thể áp dụng được.
Giờ đây, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, các đơn vị không
quân trực thăng tăng trưởng nhanh nên việc xin phương tiện tương đối
dễ dàng hơn nhiều. Ngoài ra cũng phải nói thêm một điều, đó là lực
lượng địch trong vùng sau các lần giao tranh trước đây, bị tổn thất
lớn không bổ xung kịp nên tương đối yếu, phần v́ thiếu lương thực và
tiếp tế quân trang dụng, phần v́ địa thế núi non hiểm trở không dễ
dàng ǵ che dấu khi di chuyển trên các thung lũng hoặc các đụn cát
vốn dĩ rất rộng của khu vực này. Những đụn cát trắng mênh mông đặc
biệt từ khu vực giáp ranh giữa Phan Thiết và Phan Rang nằm chen giữa
khu vực núi đá trọc ở phía bắc và một khoảng băi cát rộng trên bờ
biển phía nam. Nằm giữa là quốc lộ 1 chạy nối liền giữa những tỉnh
lỵ duyên hải.
Tôi nhớ lại thời gian trước đây, trong vùng hành quân Đồng Tháp, cả
đơn vị kéo nhau đi trong mưa trên trời đổ xuống và biển nước phèn
mênh mông của đồng ruộng dưới chân, Giờ đây th́ ngược lại. Dưới chân
là cát trắng trắng đến lóa mắt, trên trời là nắng chói chang. Mồ hôi
đầm đ́a trên mặt, những hạt cát theo từng cơn lốc ùa vào đoàn quân
đang di hành mù mịt. Cơ thể trở nên ngứa ngáy khó chịu v́ mồ hôi hoà
với cát trên người, trên mặt. Suy cho cùng, từng vùng chiến thuật có
những đặc tính riêng cho ḿnh, duy chỉ có một điều chung nhất đó là
trên từng địa h́nh người lính đều có những vất vả khó nhọc như nhau.
Tháng 8, đơn vị tôi và tiểu đoàn 1/44 cùng đại đội 44 Trinh sát tham
dự cuộc hành quân quy mô thứ hai. Lần này mục tiêu là khu tam giác
giáp ranh 3 tỉnh Phan Thiết, Lâm Đồng và Đà Lạt. Nơi đây là nơi đặt
Bộ chỉ huy của quân khu 6 cùng các cơ quan hành chánh thuộc các tỉnh
kể trên của cộng sản.
Nắm vững tin tức t́nh báo về tổ chức lực lượng của địch đa phần là
các đơn vị hậu cần và y tế nên kế hoạch hành quân cũng đổi khác.
Thay v́ tổ chức t́m và tiêu diệt địch theo theo cấp tiểu đoàn lục
soát một cánh quân theo các mục tiêu được xác định sẵn từ trước. Lần
này v́ khu vực hành quân khá rộng và là vùng núi đồi xen lẫn nhau
giữa các đồi thưa và vùng rừng rậm rạp nên tiểu đoàn được trực thăng
vận xuống một khu trung tâm, từ đó thiết lập căn cứ hành quân rồi
tung ra các lực lượng để lục soát truy quét. Chiến thuật này rất
thích họp v́ với phương thức này, vùng hành quân sẽ được lục soát kỹ
càng hơn và gần như phủ khắp khu vực với chĩ hơn hai tiểu đoàn và
một đại đội trinh sát trong khu vực hành quân trên một diện tích
diện tích hơn 100 cây số vuông trong khoảng thời gian 10 ngày.
Có thể nói trong 10 ngày hành quân tại đây, phần lớn các cuộc đụng
độ là tao ngộ chiến, trung đoàn 44 đă dọn dẹp phá hủy và tiêu diệt
đa phần hậu cần của địch, một vùng ẩn trú cuả quân khu 6. Ngoài một
số căn cứ chế biến thuốc men đông và tây y, bắt sống hoặc tiêu diệt
một số cán bộ yểm trợ hậu cần, tịch thu đạn dược và lương thực,
chúng tôi c̣n thu được nhiều tài liệu qúy giá về tổ chức và danh
sách một số cơ sở nằm vùng của địch. Cuộc hành quân tuy không có
những trận đánh tiêu hao nhân lực nhưng lại mang đến những hậu quả
lâu dài cho khu vực v́ địch quân mất đi chốn ẩn náu cố hữu. Từ đó
giải thích được t́nh h́nh an ninh của các tiểu khu, thành thị liên
hệ trong thời gian kế tiếp trở nên khả quan và an ninh hơn hẳn.
Cuộc hành quân chấm dứt sau gần hai tuần lục soát và phá hủy căn cứ
địch. Các đơn vị tham gia hành quân bị tổn thất không đáng kể về
nhân mạng. Các đơn vị được không vận từ vùng hành quân trở về căn cứ
Sông Mao an toàn. Nhưng có lẽ cũng phải kể một hậu quả kỳ cục khi về
đến hậu cứ, binh sĩ tham gia hành quân bị sốt rét cấp tính ác liệt.
Cơn sốt đến rất nhanh, nhiệt độ tăng cao chuyển từ rét sang nóng rồi
nóng cao độ, đặc biệt đối với những ai lười uống thuốc ngừa sốt rét
th́ ch́ vài tiếng đồng hồ là bịnh nhân tử vong. Chính căn bịnh ngặt
nghèo này lại gây cho đơn vị hành quân nhiều tổn thất nhân mạng!
Ba
Đầu năm 71 tôi bàn giao lại đơn vị cho đại úy Phạm văn Cẩm, khóa 18
Đà lạt, để giữ chức vụ trung đoàn phó trung đoàn 44. Đây là khoảng
thời gian được coi là “nhàn hạ” nhất trong đời binh nghiệp của tôi.
Tôi làm việc giống như một công chức. Ngày nào không bay đổ quân,
tôi vào văn pḥng ngồi xem xét hồ sơ hoặc xuống trung tâm hành quân
trung đoàn theo dơi t́nh h́nh địch bạn trong ngày.
Sau mỗi đợt hành quân các đơn vị trở về nghỉ ngơi, tụ họp nhau trong
doanh trại, uống với nhau vài chai bia; nhậu với khô mực hoặc cua
ghẹ, cá khô là những món hải sản sẵn có của Phan Thiết. Những thú
vui chơi khác muốn có cũng chẳng thể t́m ra tại nơi đây. Mở mắt buổi
sáng, luôn nh́n thấy ḿnh bị núi non bao bọc. Những dẫy núi đá vách
dựng thưa thớt cây luôn tạo nên cảm nhận trơ trọi và cằn cỗi. Băng
qua phía nam của quốc lộ 1 là một giải đất pha cát hẹp rồi đi xuống
tới biển. Chạy theo ven biển là xóm nhà gỗ của dân chài lẩn khuất
trong những hàng dừa xanh. Nhiều khi chở vợ con chạy xuống Phan Rí
cửa, ngồi trên bờ cát, nh́n ra xa biển khơi xanh biếc, tôi vẫn tự
nói với ḿnh “Giá mà đừng có chiến tranh…” Chiến tranh làm cho mọi
thứ tự giá trị bị đảo lộn. Tàn ác lươn lẹo lên ngôi và được xưng
tụng. Con người nh́n nhau qua khe nhắm tới thẳng đỉnh đầu ruồi của
súng ống. Cuộc đời con người vốn đă ngắn, chiến tranh lại làm cho nó
càng thêm ngắn.
T́nh h́nh Sông Mao mỗi ngày một khá hơn lên, trong lúc t́nh h́nh cao
nguyên ngày thêm tệ. Những trận đánh đẫm máu trên các căn cứ hành
quân của các đơn vị bạn, sư đoàn 22 BB và các Lữ đoàn nhảy dù là lư
do chúng tôi lần lượt dời Sông Mao trở lên cao nguyên vào giữa năm
ấy. Bắt đầu là từng chiến đoàn gồm hai tiểu đoàn. Rố kế tiếp là cả
trung đoàn 44 di chuyển lên cao nguyên đang mịt mù khói lửa đạn bom.
Từ giai đoạn đầu hành quân chung với Thiết đoàn 3 Kỵ binh tại An Khê
do trung tá Trần Lư Hưng là thiết đoàn trưởng. Ở nơi đó tôi lại được
làm quen với bao bạn mới, thiếu tá Nguyễn văn Đêm thiết đoàn phó,
các chi đoàn trưởng, Lương, Huỳnh văn Mỹ…
Đầu tháng 3/1972, cả trung đoàn di chuyển đi Kontum tham dự cuộc
pḥng thủ để tạo nên một Kontum kiêu hùng ngày nào. Trong cuộc chiến
đẫm máu ấy, tôi đă chia tay với các chiến hữu xuất sắc nhất của
ḿnh. Các tiểu đ̣an trưởng Đặng trung Đức, Vơ anh Tài, Trần công
Lâm, và bao nhiêu sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ ưu tú khác. Máu cuả
đồng đội của tôi đă tô thắm mảnh đất quê hương điêu linh khốn khổ
này để cho chúng tôi, những người lính sống sót trong cuộc chiến c̣n
có dịp viết và nói về họ. Thời gian sẽ trôi qua rất nhanh nhưng h́nh
ảnh các đồng đội của tôi sẽ c̣n măi măi trong tâm tư những người c̣n
lại hôm nay và sẽ được biết tới và tri ân bởi các thế hệ con cháu kế
tiếp.
Tháng 9/1972, sau nửa năm bầm dập đạn bom, tôi bàn giao lại chức vụ
quyền trung đoàn trưởng trung đoàn 44 cho đại tá Vơ Hữu Hạnh để trở
về quân y viện trị thương. Đây là lần bị thương thứ ba trong đời
lính của tôi.
Tháng 6/1974, khi trở ra lại trung đoàn cũ, nhận bàn giao trung đoàn
từ trung tá Nguyễn Hữu Lữ, nh́n lại chiến trường, khói súng vẫn c̣n
vây phủ mịt mù nhưng những người lính và các cán bộ chỉ huy nay gần
như hoàn toàn mới. Tôi nh́n ra ai cũng lạ, chỉ c̣n mùi súng đạn và
ḿn bom là quen thuộc.
Nguyên một dàn cán bộ chỉ huy từ trung đoàn phó xuống tới các đại
đội trưởng và tiểu đoàn trưởng toàn là người từ các đơn vị khác
chuyển về trừ vài ngựi quen cũ, hai trong số đó là thiếu tá Phạm
văn Cẩm, khóa 18 đàn em, là trung đoàn phó và đại úy Nguyễn văn Pho.
Cẩm nguyên là tiểu đoàn phó và Pho là đại đội trưởng khi tôi c̣n là
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/44. Hiện tại Pho là tiểu đoàn trưởng
tiểu đoàn này.
Hậu cứ Sông Mao, nơi thị trấn buồn hiu hắt đó, giờ đây chỉ c̣n là
những kỷ niệm nghĩ đến lại buồn. Không khí đ́u hiu của thị trấn ngày
nào khi tôi trên vai mang chiếc “sac” quân trang ra tŕnh diện giờ
đây đă biến đổi hẳn. Nơi đó tôi đă có dịp làm quen với biết bao
chiến hữu thân thương của ḿnh. Chỉ cần năm năm sau ngày đầu tiên
đặt chân bước tới, cả đơn vị vẫn c̣n đó nhưng hầu như toàn bộ con
người đă hoàn toàn đổi khác. Chiến tranh luôn làm mới các đơn vị
tham chiến trên chiến trường. Chỉ có điều khác nhau về nhịp độ nhanh
hay chậm. Thực t́nh tôi không thể ngờ được mức độ thay đổi lại xẩy
ra nhanh chóng đến thế kể từ ngày đầu tiên tôi về đơn vị này.
Tháng 4/1982, trên chuyến tầu xuôi Nam sau cùng chở đoàn tù “cải
tạo” từ miền Bắc về Nam, tôi đă cố gắng không ngủ để cố nh́n lại
Sông Mao sau 10 năm xa cách. Khi đoàn tầu chạy ngang qua thị trấn,
những dấu vết binh lửa một thời hầu như c̣n nguyên vẹn không đổi
thay theo thời gian. Vẫn những dẫy doanh trại quân đội lợp tôn nay
đă loang lổ xét rỉ hoặc trốc mái xiêu vẹo. Vẫn những ṿng kẽm gai bị
cỏ dại mọc phủ trùm. Một vài bóng người quần áo rách rưới đội nón mê
mang quang gánh trên vai đi lại. Một h́nh ảnh thật buồn. Đoàn tàu
chạy chầm chậm khi băng qua thị trấn. H́nh ảnh một Sông Mao ngày nào
mang dấu ấn của bao nhiêu kỷ niệm cứ ám ảnh tôi măi trên suốt lộ
tŕnh c̣n lại trước khi đoàn tầu dừng hẳn gần trại Z30A đễ tôi tiếp
tục cuộc sống ở đó thêm 6 năm nữa.
Trung tá Xuân
Trung đoàn trưởng, Trung đoàn 44, SĐ 23
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại