Xuôi ḍng Hương Giang

Sông Hương không chỉ là một vẻ đẹp hoàn mỹ mà tạo hoá đă ban cho Huế mà nó c̣n là một ḍng sông huyền thoại ẩn chứa nhiều điều về mảnh đất Cố Đô xưa.

Từ Ngă Ba Tuần về đến phố cổ Bao Vinh, sông Hương là trục chính của đô thị Huế, là thế phong thủy vững bền cho các vua nhà Nguyễn định đô bởi có thế “tả Thanh Long”, “hữu Bạch Hổ” được tạo nên từ hai cồn đất nổi ở giữa sông là cồn Hến và cồn Dả Viên trấn yểm ở hai đầu đoạn sông chảy qua trước cửa Hoàng thành.

Nếu có dịp đến Huế, bạn hăy xuôi ḍng Hương Giang để tận hưởng chút không khí trong lành và yên tĩnh trên ḍng sông thơ mộng. Những chiếc thuyền lặng lờ trôi theo ḍng nước biếc, nắng trải vàng như mật khiến cho ḍng sông lung linh như được dát vàng. Trước mặt bạn, những xóm làng, chùa chiền, đ́nh đền miếu mạo, lăng tẩm, thành quách… trên đôi bờ Sông Hương bất chợt hiện ra. Tất cả những thứ đó như minh chứng cho một thời vàng son đáng nhớ của ḍng sông đầy huyền thoại này.

Đó là những ǵ bạn sẽ cảm nhận được khi đến Huế, c̣n bây giờ mời bạn hay lên thuyền của tôi, cùng tôi xuôi ḍng Hương Giang nhé, bắt đầu từ ngă ba Bằng Lăng ngoạn mục nhé:

Ngă ba Bằng Lăng

Ngă ba Bằng Lăng (c̣n gọi là ngă ba Tuần) là ngă ba sông rất nổi tiếng ở Huế, nơi hợp lưu của ḍng tả trạch chảy từ vùng núi trung b́nh huyện Nam Đông với độ cao tuyệt đối 900m và ḍng hữu trạch từ thượng ngàn A Lưới đổ xuống để tạo thành sông Hương. Nơi đây ngày xưa vốn là nơi đóng quân bảo vệ phía tây kinh thành Huế, là nơi lực lượng tuần hà khám xét và thu thuế các thuyền bè chở sản vật từ thượng nguồn sông Hương về kinh thành cho nên gọi là bến đ̣ Tuần ("tuần"có nghĩa là đi canh gác). Từ xa xưa đây đă thành h́nh tụ hội cư dân về lập ấp, dựng nghiệp là dấu hiệu mở đầu của một sức sống tiềm tàng mà ḍng Hương sẵn ḷng mang lại cho đôi bờ phố thị của chốn Kinh đô. Từ bến Tuần có đ̣ ngang sang làng Hải Cát (dân gian gọi là sang Trẹm) và lăng Minh Mạng (sang làng La Khê băi) cho nên c̣n gọi là đ̣ ba bến (theo một đường tam giác).

“C̣n mặt trời th́ chớ
Tắt mặt trời dạ thiếp nhớ bâng khuâng
Trời mấy bữa ni mưa mô gió nấy, đ̣ Tuần không đưa (ḥ)”


Mặt nước trong vắt nơi đây lặng lờ giây lát như c̣n bịn rịn lời giai duyên, nguyện ước. Tương truyền rằng, xưa vua Minh Mạng ngự thuyền qua, nh́n cảnh trí non, nước, mây trời tuyệt đẹp đă rung động cảm tác :

”Một thước nước in trời
Đ̣ ai chiếc lá khơi
Non cao xem ṿi vọi
Ḍng biếc thấy vơi vơi...”


Bên cạnh bến đ̣ Tuần, ngày trước nơi đây c̣n có bến phà Tuần, hàng ngày những con phà cần mẫn đưa khách và ô tô sang sông để lên địa bàn huyện A Luới, là con đường duy nhất nối liền thành phố với A Lưới và cửa ngơ sang Lào.
Với gia đ́nh tôi, bến đ̣ Tuần cũng gắn nhiều kỷ niệm, bởi lẽ cô em gái sau khi ra trường đă về nơi đây dạy học và bén duyên ở đó. Ngày rước dâu, đoàn xe dâu phải ngừng lại bên bến đ̣ Tuần để nhường chỗ cho những chiếc thuyền dâu qua sông. Với mọi người đó là một đám rước dâu thú vị, thế nhưng với bố tôi lúc đó, nh́n cảnh con gái về nhà chồng cách trở đ̣ giang đă ngậm ngùi rơi lệ.
Trận lũ tháng 11 năm 1999, trận lũ chưa từng có ở Huế đă làm nơi đây trở nên điêu đứng, tan hoang. Sau một đêm mưa suốt, sấm sét ầm ĩ trên bầu trời đen kịt, đến khoảng nửa đêm 1/11/1999 th́ cả hai ḍng nước lũ (tả và hữu trạch) đă nhập thành một biển nước mênh mông, nhấn ch́m tất cả. Toàn bộ Làng Bằng Lăng chỉ c̣n thấy ngọn đồi và tượng Phật Bà Quan Âm. Cả làng đă kịp chạy lên trên ngọn đồi Phật Bà và tầng lầu của trường cấp II, nhưng chỉ chạy được người, c̣n toàn bộ tài sản đều trôi sạch. Bốn ngày sau khi nước lũ bắt đầu rút, chiếc ca nô của bộ đội biên pḥng mang theo ḿ gói lên, cả làng ùa xuống với những cánh tay đói lả. Một cụ già vừa nhận được gói ḿ đă xé toạc giấy gói nhai ngấu nghiến. H́nh ảnh đó được VTV truyền đi khiến đồng bào cả nước đau thắt ruột.


Những cánh tay đói lả nhận thức ăn cứu trợ ở ngă ba Tuần (Thừa Thiên - Huế) sáng 5-11, khi chiếc canô đầu tiên của bộ đội biên pḥng vượt lũ lên được đầu nguồn sông Hương. (Ảnh tư liệu)

Năm ấy tôi đang công tác ở Sài G̣n, mọi thông tin liên lạc về Huế đều bị cắt đứt, cả bốn anh em chúng tôi chỉ biết ngóng chờ từng bản tin thời sự của đài truyền h́nh. Hàng ngày nh́n thấy quê hương ngập ch́m trong nước, nhà cửa ngổn ngang, cảnh tang tóc khắp nơi, không ai cầm được nước mắt. Mấy ngày sau khi nước lũ bắt đầu rút, gia đ́nh tôi vẫn không thể liên lạc với bên kia sông, chỉ biết hàng ngày đứng bên bến đ̣ Tuần mà ngóng sang. Hết một tuần liền cô em gái và cháu ngoại mới t́m cách sang sông về đến thành phố, câu đầu tiên đứa cháu nói là “Ngoại ơi, đói quá!".


Tượng Phật bà Quan Âm trên đỉnh đồi Tứ Tượng, nơi cao nhất mà mọi người vẫn kéo lên tránh lũ khi nước dâng cao

Sau biến cố lịch sử đó, lănh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế đă quyết định xây cầu phía hạ lưu chợ Tuần, bắc qua sông Hương gần lăng Minh Mạng, ở trên trục đường vành đai thành phố, gọi là đường tránh Huế, ở phía bắc giao với QL1A tại thị trấn Tứ Hạ và điểm phía nam ḥa trở lại với QL1A tại địa bàn thị xă Hương Thủy. Đây là con đường ṿng phía ngoài thành phố Huế, nhằm giảm tải các xe qua thành phố Huế, vừa là con đường chạy qua các vùng đất có địa h́nh cao ở phía tây thành phố, không bị ngập lụt, bảo đảm cho giao thông thông suốt trong những ngày mưa lũ của Huế. Cây cầu Tuần được hoàn thành vào năm 2003.

Sau khi cây cầu đẫ xây dựng nên, có nhiều ư kiến lại cho rằng nó phá vỡ đi cảnh quang của vùng thượng nguồn sông Hương, cảnh quang của Lăng Minh Mạng v́ nó quá gần lăng. Riêng tôi, lại không nghĩ như vậy, liệu những người đó sẽ nói ǵ khi chứng kiến hàng trăm người dân mắc kẹt giữa cơn lũ, bị chia cắt, đói lả, dù nơi đó chỉ cách thành phố có 10km. Với người dân vùng đất băi, cây cầu là ước mơ ngàn đời của họ. Ngày khánh thành, tôi được nghe kể lại có nhiều cụ già bắt con cháu phải dẫn ḿnh đến để đặt chân lên được cây cầu mới, “ngắm cho đă rồi có chết cũng sướng”.

Linh thiêng Điện Ḥn Chén

Tiếp tục xuôi ḍng sông Hương, thấp thoáng giữa những rừng cây xanh um trải dài từ chân đến đỉnh ngọn núi Ngọc Trản và b́nh yên soi bóng bên ḍng sông Hương trong xanh huyền thoại là điện Ḥn Chén, một di tích tôn giáo và danh thắng nổi tiếng thuộc quần thể di tích cố đô Huế, nằm trên địa bàn làng Hải Cát, xă Hương Thọ, huyện Hương Trà.


Điện Ḥn Chén nằm sát bờ sông Hương

Núi Ngọc Trản xưa có tên là Hương Uyển Sơn. Trên đỉnh núi có một chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có ṿng đá dựng như bờ giếng, hễ gặp mưa th́ nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Cho nên từ đó, ḥn núi được đặt tên Ngọc Trản (núi Chén Ngọc) và dân gian thường gọi là Ḥn Chén. Cũng v́ vậy, người ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh mẫu tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Ḥn Chén.
Không biết ngôi đền thờ ở Ngọc Trản Sơn có tự bao giờ, chỉ biết rằng người Chăm xưa từng thờ cúng nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) ở núi này. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần Po Nagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Sau khi tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo như điện Ḥn Chén, đến thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền. Và để kư âm cho danh từ Po Nagar bằng Hán văn, các Nho sĩ ngày xưa đă phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ư nghĩa tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na. Từ đó tục thờ Thánh Mẫu Thiên Yana với những h́nh thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc sâu xa là tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo, cũng như ở miền bắc thờ Mẫu Vân Hương, hay ở miền nam thờ Mẫu ở núi Bà Đen, hoặc Pohnaga ở Tháp Chàm - Nha Trang.

Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ ngôi đền không rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kính Đài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông; bên phải là Nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là Dinh Ngũ Vị Thánh Bà; bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ – con cọp), Am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là Am Thủy Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, c̣n có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây, như Am Cô Ngọc Lan, Am Trung Thiên… Liễu Hạnh Công Chúa, tức là Vân Hương Thánh Mẫu cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài ra, tại điện Ḥn Chén, người ta c̣n thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Đồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy. Như vậy, xét về mặt tín ngưỡng, điện Ḥn Chén bối cục thờ không theo nguyên tắc, mà phối thờ nhiều tín ngưỡng khác nhau.

Khoảng 10 công tŕnh kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn ḿnh dưới bóng dâm của một khóm rừng cổ thụ tán lá xum xuê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, được dùng cho toàn cảnh thiên nhiên và kiến trúc nghiêng ḿnh soi bóng. Dù thuyền cập bến, đứng nh́n lên, khách dễ tưởng ḿnh đang lạc vào chốn thần tiên.

Trong quần thể di tích cố đô Huế, có lẽ điện Ḥn Chén gắn với nhiều giai thoại nhất. Dân gian c̣n lưu truyền rằng điện Ḥn Chén xưa có tên là Hoàn Chén với ư nghĩa “trả lại chén ngọc”, v́ vua Minh Mạng trong một lần lên đây đă đánh rơi một chén ngọc xuống ḍng Hương, tưởng không cách ǵ lấy lại được th́ bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Trước điện là một cái vực rất sâu chưa ai đo được. Xưa kia, lắm người chài ngư nổi danh bơi lội cũng không lặn tới đáy sông được. Người ta tin rằng, vua Hà Bá ngự trị ở chốn này. Ghe thuyền mỗi khi đi qua đều im hơi lặng tiếng để tỏ ḷng thành kính. Tương truyền nhiều người bị đắm thuyền chết đuối chỉ v́ đă ngạo mạn với Mẫu thần. Nơi đáy vực có con ba ba to bằng chiếc chiếu rộng, mỗi lần nổi lên thường gây sóng gió dữ dội, mọi người lúc bây giờ đều tin đó là sứ giả của thần Hà Bá. Thấy dân chúng bị nạn, trong một buổi cúng tế, vua Tự Đức đă đeo vào tay thần một chuỗi bồ đề để cầu xin ḷng từ bi cho chúng sanh. Người ta c̣n kể rằng, trong một hốc đá ở bợt bến, có một con cá trạch lớn như chiếc chiếu, thỉnh thoảng vụt lên mặt nước làm tung bọt trắng xóa. Dân chúng hoảng hốt sợ, không dám gọi là "con" mà gọi bằng "cố"- Cố trạch.

Trong số mười ba vị vua triều Nguyễn th́ vua Đồng Khánh là một tín đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu này. Từ năm 1883 đến năm 1885, v́ gặp một giai đoạn éo le của lịch sử triều Nguyễn, vua Đồng Khánh chờ đợi măi vẫn chưa được lên nối ngôi cha nuôi là vua Tự Đức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mẫu Thiên Yana xem ḿnh có làm vua được không. Theo một số người kể lại th́ thần Thiên Yana đă cho hoàng tử biết ngày đăng quang và cũng cho biết ông chỉ ở ngôi được 3 năm rồi mất.

Quả nhiên lời tiên đoán của nữ thần điện Ḥn Chén thật đúng, bởi vậy sau khi lên ngôi vào năm 1886, vua Đồng Khánh liền cho xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ khí tự để thờ và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam Điện để tỏ ḷng biết ơn Thánh Mẫu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Từ đó vua Đồng Khánh rất tin tưởng về sự linh ứng của nữ thần Điện Ḥn Chén; gặp việc ǵ khó xử ông thường đến đây để cầu đảo và dường như việc ǵ cũng được như ư nên vua Đồng Khánh đă phê rằng: “Điện Ḥn Chén là một đền linh diệu thiên cổ, thế núi trông thật giống h́nh con sư tử uống nước dưới sông, quả là chân cảnh thần tiên, cứu đời, giúp người nhiều lắm”. Tháng 6, 7 năm 1886 tại Huế không có một giọt mưa, vua bèn sai các quan ở Phủ Thừa Thiên lập đàn cầu đảo khắp các đền trong kinh thành nhưng trời vẫn không mưa, đến khi lên cầu đảo tại đền Ḥn Chén, chỉ trong một buổi sáng thôi mà trời đổ mưa tầm tả, ai cũng cho là linh ứng. Cũng chính v́ sự linh ứng ấy mà vua Đồng khánh rất lo sợ trước lời tiên đoán của Nữ Thần. Và rồi không căi được mệnh trời, năm 1888, ông thọ bệnh, đau liên tục, các ngự y bó tay, đến năm 1889 th́ ông mất, đúng sau 3 năm ngồi trên ngai vàng.

Vua Đồng Khánh c̣n làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yana. Hiện nay trong đền vẫn c̣n thờ vài bức tranh ảnh của chính nhà vua được treo ở đây. Chính vua đă ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Tại Huế vẫn truyền tụng câu ca “Tháng 7 Vía Cha, tháng ba Vía Mẹ” là nói đến 2 lễ tế này. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, c̣n tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Nghi lễ tại Điện Ḥn Chén rất long trọng. Dân làng tổ chức tế tại đ́nh, trước ngày chánh tế có lễ nghinh thần để rước tất cả các vị thần trong làng về đ́nh. Đám rước Thiên Yana Thánh Mẫu từ Huệ Nam đến đ́nh làng Hải Cát tổ chức trọng thể hơn cả.


Hàng vạn người đến tham gia lễ hội

Đám rước cử hành trên những chiếc “bằng” (thuyền kết đôi), trên đó có bàn thờ Thánh Mẫu cùng với long kiệu, ḥm sắc của vua ban Thánh Mẫu, cờ phướn, hương án đủ màu sắc, hành hương về điện Ḥn Chén, nơi thờ Thánh Mẫu. Tại khu vực điện sẽ diễn ra lễ Thánh Mẫu tuần du làng Hải Cát, lễ tế làng Hải Cát, lễ cung nghinh Thánh Mẫu hồi loan về điện, lễ phóng sanh, phóng đăng….

Long kiệu của Thánh Mẫu là kiệu thêu, do các trinh nữ ăn mặc sặc sỡ khiêng, c̣n các bà, người mang b́nh hương, ống trầu, b́nh trà, ḥm đựng đồ trang sức, kẻ mang cờ, biển, tàn, lọng, gối, quạt… Các thanh niên th́ vác các đồ lễ bộ, bát bửu và các tự khí khác. Đám rước đầy màu sắc rực rỡ, không khí trang nghiêm. Khi đoàn ghé bến, đám rước chuyển từ sông lên bộ, đi cho đến đ́nh làng Hải Cát, có phường bát âm đi sau kiệu. Phường bát âm với những bài hát chầu văn ca ngợi Thánh Mẫu và chư vị thánh thần. Các tín đồ vừa đi vừa hát, múa trên những chiếc bằng trong trang phục lộng lẫy, dưới lọng kiệu là đồ thờ của Mẫu Thiên Yana. Tất cả tạo nên một không khí tín ngưỡng thiêng liêng, huyền ảo và sôi động. Suốt đêm, trên mặt sông Hương và có khi ở trước đ́nh làng là các cuộc hát thờ, hầu đồng, hầu bóng. Sáng ngày hôm sau là lễ chánh tế, tổ chức từ 02g – 05g00 sáng. Sau đó là lễ Tống thấn. Mặt sông Hương lại bùng lên với âm nhạc, pháo nổ tưng bừng, hàng trăm chiếc thuyền, bằng chen chúc, những bộ lễ phục rực rỡ.

Những năm gần đây, lễ hội Ḥn Chén tấp nập, tưng bừng hơn. Vào ngày chính lễ có cả trăm chiếc thuyền, bằng trẩy hội trên ḍng Hương, tín đồ của cả nước về tụ hội, dâng lễ, rước Mẫu, các tín đồ tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo lại có dịp trở về với Mẫu Thiên Yana với những sinh hoạt văn hóa dân gian tạo nên vẻ phong phú của nét văn hóa xứ Huế. Không chỉ dừng lại là một lễ hội văn hóa dân gian mà nó c̣n thu hút một lớn số lượng du khách trong nước lẫn nước ngoài, là sự pha trộn nhiều màu sắc tín ngưỡng và không biệt tín ngưỡng, đưa mọi người đến gần nhau hơn.
Điện Ḥn Chén - là một trong mười sáu di tích được xếp hạng danh mục quần thể di tích Huế, di sản văn hóa thế giới. Đó cũng là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đ́nh và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đến thăm thành phố Huế đúng dịp diễn ra lễ hội, xuôi thuyền ngược ḍng Hương Giang đến núi Ngọc Trản, du khách sẽ được tham gia vào lễ tế điện Ḥn Chén, tận mắt chứng kiến cái không khí linh thiêng, huyền ảo tại nơi này.

Đồi Vọng cảnh

Ḍng sông Hương sau khi hợp lưu hai ḍng Tả Hữu Trạch ở ngă ba Bằng Lăng xuôi về hạ lưu được vài cây số th́ va vào độn Bạc (người Huế gọi các ngọn đồi thấp là “độn”). Không xuyên qua được dăy đồi này theo hướng chảy, ḍng sông đột ngột chuyển hướng theo một khúc gấp h́nh thước thợ. Chính ở nơi ḍng sông chuyển hướng đó mà từ độn Bạc có đôi mắt nh́n lên cả một vùng phía Tây núi rừng trùng điệp, ḍng sông lững lờ trôi, nh́n qua những vườn cây trái xanh tươi. Đứng trên đồi này, người ta có được một cái nh́n bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và những cảnh đẹp tuyệt vời ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ t́nh của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và hấp dẫn nhất của ḍng sông nổi tiếng đa t́nh và gợi cảm. Đây là nơi sông núi xích lại gần nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Cũng chính từ ư nghĩa đó, ngọn đồi này c̣n mang cái tên mỹ miều hơn so với tên gọi dân gian : Đồi Vọng Cảnh.


Từ Đồi Vọng cảnh nh́n về phía thượng nguồn sông Hương

Dưới thời Pháp thuộc, địa danh Vọng Cảnh đă xuất hiện trên báo chí và sách viết về du lịch. Theo tiếng Pháp, Vọng Cảnh viết là Colline du Belvédère. Năm 1925 hai tác giả người Pháp là L.Gaide và H.Peyssonneux đă viết trong sách Prince Kiên Thái Vương (Hoàng thân Kiên Thái Vương) như sau: “Tại vùng này người ta c̣n đi lên một đỉnh đồi gọi là “le Belvédère” (đồi Vọng Cảnh), từ đỉnh đồi người ta có cái nh́n bao quát rất ngoạn mục về ḍng sông, theo hướng đi lên lăng Minh Mạng và lăng Gia Long; về toàn núi non bao quanh Huế”. Năm 1935 Toà Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế cũng đă in một tập gấp ghi điểm tham quan này. Cụ Dương Đ́nh Nguyên, một người gốc Huế năm nay đă 90 tuổi, ở phường Phú Cát, thành phố Huế cho biết: “Trước năm 1930 trên đồi này đă có đài Vọng Cảnh để du khách đến đó đứng ngắm cảnh”. Một cung đường và vườn hoa nhỏ đă được xây dựng trên đồi Vọng Cảnh, chếch về phía Nam đỉnh đồi.

Thông xanh được trồng nhiều trên đồi Vọng Cảnh và đây cũng là điểm du ngoạn của tuổi học tṛ. Thích thú nhất là được ngồi ở sườn đồi sát bờ sông, ngắm những con đ̣ rẽ sóng nơi sông Hương lặng lẽ chuyển ḍng, nghe vọng âm của gió, của nắng, của núi đồi, sông nước, của con tim yêu thương tuổi sắp sửa vào đời. Hai vợ chồng tôi từ lúc mới quen nhau, yêu nhau đă không ít lần đến đây, cùng ngôi bên nhau, ngắm một khoảng không gian trăi rộng phía trước, ngắm ḍng sông Hương lấp loáng ánh bạc phía dưới ḿnh, mà tuyệt vời nhất là những lúc hoàng hôn trên ngọn đồi này.

Năm 2005, Đồi Vọng cảnh bỗng dưng nổi tiếng khắp nơi, cả trong nước lẫn nước ngoài, khi người ta định tiến hành Dự án Life Resort Vọng Cảnh với số tiền 4,9 triệu USD. Dự án đă vấp phải nhiều ư kiến phản đối của người dân Huế, cả ở trong nước lẫn ngoài nước. Không ai muốn một địa điểm tuyệt đẹp như vậy bỗng dưng trở thành một “thị trấn du lịch nho nhỏ”, nó phá vỡ đi cảnh quan của ḍng sông Hương thơ mộng, và sẽ làm ô nhiễm cả nguồn nước của nhà máy nước Vạn Niên cung cấp cho cả Thành phố nằm cách đó chỉ 300m.

Với người dân Huế, Đồi Vọng Cảnh là một điểm ngắm địa đầu lư tưởng khung cảnh thiên nhiên của Huế, là một địa danh được người xưa xem là con mắt thần, là nơi hội tụ khí thiêng sông núi, là báu vật thiên nhiên ban tặng cho Huế. Nếu xét về phong thuỷ th́ đó là trái tim của Hoàng long - nơi ẩn giữ tiềm tàng sinh khí của đất cố đô. Xét về văn hoá, đó là kỷ niệm gắn bó với hàng vạn lứa đôi, hàng chục vạn con người dạo bước từ nhiều đời nay. Xét về mặt cảnh quan, có thể nói ở đất nước Việt Nam, ít có một ngọn đồi nhỏ bé tương tự nào có vẻ đẹp làm say mê ḷng người đến thế. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên, đồi Vọng Cảnh đă trở thành một phần không thể thiếu được của văn hoá Huế, cần thiết phải giữ ǵn và xây dựng. Theo cụ Cao Đ́nh Dương th́ trước đây đă có đề nghị xây "Vọng Cảnh Lâu" cho cựu Hoàng Bảo đại trên Đồi Vọng Cảnh. Nhưng khi các vị lăo thần thừa lệnh đến thắp nhang khấn vái phát quang, đă chạm phải một phiến đá có ghi hàng chữ: "Vọng Cảnh vong thân. Thất thần khiếm thị", nghĩa là nếu đồi Vọng Cảnh mất đi th́ thần khí vùng đất này cũng không c̣n và tầm nh́n cảnh đẹp cũng mất đi. Cũng có sự giải thích theo nghĩa khác là nếu ai phá huỷ th́ sẽ bị liên lụy điên khùng (thất thần) và đui mù (khiếm thị). Người đương thời có khuynh hướng giải thích theo ư thứ hai nên sợ hăi, xin băi bỏ lệnh phát quang xây "Vọng Cảnh Lâu" từ đó. Tuy đây chỉ là chuyện tương truyền mang tính thần thoại, nhưng câu chuyện cũng nói lên được nỗi trân trọng và thiêng liêng của người dân Huế đối với địa danh này.

Chiều nay chúng tôi lại trở về với Đồi Vọng cảnh. So với ngày xưa rừng thông bây giờ đă cao hẳn lên. Vẫn c̣n đó những chiếc lô cốt sần sùi đen trũi theo thời gian, vết tích của những năm tháng chiến tranh. Tôi lặng nh́n ḍng sông và thầm so sánh với khung cảnh của nhiều năm về trước. Thật đáng tiếc, chiều nay trước mắt tôi không có những con thuyền rẽ sóng, chỉ có một con đ̣ cắm sào giữa ḍng đang khai thác cát sạn, từ chỗ đó ḍng sông trở nên đục hơn, không c̣n cái vẻ trong xanh vốn có của nó. Ước chi …
Bâng khuâng, tôi cố vớt vát bằng cách thu gọn cảnh hoàng hôn vào trong ống kính.

Trong tâm thức người Huế, Vọng Cảnh luôn là một vùng nước non huyền thoại, là vùng kư ức của bao người xứ Huế, là vùng đất thiêng, một báu vật của đất cố đô mà các thế hệ cần phải giữ ǵn, tôn tạo để Vọng Cảnh càng đẹp hơn trong ḍng chảy của thiên nhiên, văn hóa và con người xứ Huế. Nếu bạn có dịp đến đây vào buổi b́nh minh sương tan hay lúc hoàng hôn, mới hiểu hết và thấm thía vẻ đẹp nên thơ, nên họa của một ngọn đồi, một khúc sông, một góc trời xứ Huế.

Ghé thăm chùa Linh Mụ

Ḍng Hương Giang sau khi thoát qua khỏi Đồi Vọng Cảnh và núi Ngọc Trản, bỗng trở nên chậm răi, ḍng sông mở rộng ra ôm lấy những bến băi bồi đầy phù sa màu mỡ của vùng Nguyệt Biều, Hương Hồ, Lương Quán nổi tiếng với những băi ngô non, những vườn cây trái trĩu quả (đặc biệt vùng đất này là nơi duy nhất trồng được Thanh trà xứ Huế). Vượt qua Hương Hồ, Xước Dũ, ḍng sông chia nước cho con sông Bạch Yến, con sông chảy qua trước chùa Huyền Không mà một lần tôi đă nhắc đến, rồi chảy thẳng về Đồi Hà Khê. Đến đây ḷng sông mở rộng ra và ḍng sông trở nên phẳng lặng khác thường.

Nếu đang xuôi thuyền theo ḍng sông, ra khỏi đoạn ngoặt này, bạn sẽ nh́n thấy ngôi chùa nổi tiếng nhất trong số hàng trăm ngôi chùa cổ ở Cố đô Huế, đó là Chùa Thiên Mụ (c̣n gọi là Chùa Linh Mụ) cùng ngọn tháp Phước Duyên sừng sững phía bên kia sông. Đây là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế.

Có lẽ tôi không cần giới thiệu nhiều về ngôi chùa này v́ nó đă quá nổi tiếng, gần như là một biểu tượng của Huế, cũng giống như chùa một Cột ở Hà Nội và chợ Bến Thành của Sài G̣n vậy. Tôi chỉ mời bạn cùng xuống thuyền vào thăm ngôi chùa này mà thôi.
Chùa được xây theo h́nh chữ nhất, theo đúng với hướng của kinh thành Phú Xuân, từ bến thuyền với bậc cấp, dẫn lên các bốn trụ biểu, rồi nhiều bậc cấp nữa dẫn lên nền cũ của đ́nh Hương Nguyện, tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm.


Phía trước Nghi Môn gồm các công tŕnh kiến trúc, có 24 bậc tam cấp lên xuống Tam Quan và 4 trụ biểu xây sát đường, từ đó có 15 bậc tam cấp dẫn đến Đ́nh Hương Nguyện.

Sừng sững phía trước là Tháp Phước Duyên do Vua Thiệu trị xây năm 1844 bằng gạch, cao 21m gồm 7 tầng. Tháp thờ đức Phật tổ Như Lai và đức Thế Tôn. Các tầng đều có tượng Phật, tương truyền ngày xưa được đúc bằng vàng, về sau thay bằng đồngTháp Phước Duyên là ngôi tháp bát giác cổ và cao nhất Việt Nam (Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục năm 2006).

Phía trước Tháp Phước Duyên vua Thiệu Trị cho xây đ́nh Hương Nguyện năm 1844 (để nhà vua dâng hương, cầu nguyện). Trận băo năm Th́n (1904) làm hư hỏng nhiều công tŕnh trong đó có đ́nh Hương Nguyện, nay chỉ c̣n là lại nền đ́nh.


Đại Hồng Chung do chúa Nguyễn Phú Chu cho đúc năm 1710 cao 2,50m, nặng trên 2000kg và viết bài kư để khắc vào chuông. Chuông này được coi như là một pháp khí của chùa.


Tấm bia thời Lê Trung Hưng là tấm bia lớn nhất Việt Nam (Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục năm 2008).

Tấm bia được làm bằng đá khá lớn vào năm 1715, cao 2,6m, rộng 1.25m và đặt trên lưng rùa bằng đá cẩm thạch. Nội dung trên bia nói về việc xây dựng các công tŕnh kiến trúc ở đây, việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lư của đạo Phật, ghi rơ sự tích Ḥa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong.

Điện Đại Hùng là nơi thờ Phật, trung tâm của Chùa Thiên Mụ. Điện gồm 5 gian, 2 chái, được bài trí rất tôn nghiêm với nét kiến trúc đồ sộ, nguy nga. Ngoài những pho tượng Phật bằng đồng, bức hoành phi bằng gỗ sơn son thiếp vàng do tự tay Chúa Nguyễn Phúc Chu ngự đề vào năm 1714 c̣n có 1 chiếc khánh đồng lớn chạm h́nh nhật nguyệt tinh tú. Chiếc khánh đồng này do vị quan người Quảng Trị là Trần Đ́nh Ân thuê đúc năm 1677 để cung tiến chùa.


Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Ḥa thượng Thích Đôn Hậu, thế thứ 42 ḍng Lâm Tế, đời thứ 8 ḍng Thiền Liễu Quán, vị trụ tŕ nổi tiếng của Chùa Thiên Mụ, người có công trùng tu để giữ cho ngôi chùa lịch sử được trang nghiêm như ngày nay.

Cồn Dă Viên - Cầu Bạch Hổ

Nếu đi dọc sông Hương, qua khỏi chùa Thiên Mụ, các bạn sẽ đi qua một quăng sông Hương êm đềm của làng Kim Long, hai bên bờ là những hàng ngô non xanh mơn mởn trên dải đất phù sa ven sông. Kim Long là nơi các chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làm đất đóng đô từ năm 1636, tuy nhiên vùng đất này “trời hành cái lụt mỗi năm”, do đó đến đời chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái lại dời Phủ chúa về làng Phú Xuân. Cũng chính v́ vậy mà làng Kim Long hiện nay vẫn c̣n rất nhiều nhà vườn và các Phủ đệ ven sông của các ông Hoàng trong gia tộc Nhà Nguyễn (hiện nay có khu nhà vườn Phú Mộng _ Kim Long là nơi thu hút khách du lịch rất nhiều). Con gái Kim Long ngày xưa nổi tiếng là khéo và đẹp, đến nỗi nhà vua cũng phải đích thân vi hành:

“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi”.


Quăng sông Kim Long này cũng từng diễn ra các cuộc thao diễn lực lượng thủy binh hùng hậu của nhà Nguyễn, mà lễ hội Festival Huế 2010 đă tái hiện lại một cách hoành tráng.
Trước khi vào trung tâm thành phố Huế, ḍng sông Hương trở nên chậm răi, tại đây phù sa bồi lắng đă tạo thành một cồn đất h́nh thoi nổi lên giữa sông Hương, nằm ở phía Tây nam kinh thành, gọi là Cồn Dă Viên và được xem như Bạch Hổ chầu bên phải kinh thành.

Nơi định đô gắn với việc thịnh suy của một triều đại, do đó việc chọn địa điểm xây dựng kinh thành rất được coi trọng. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa, đă có tám lần các chúa Nguyễn di dời thủ phủ rồi cuối cùng trở về lại Phú Xuân. Ngày Quư Mùi tháng 4 năm Ất Sửu, năm Gia Long thứ 4 (tức 30.4.1805), Kinh thành Huế được khởi công xây dựng. Tuân thủ theo những nguyên tắc Dịch lư và Phong thủy, nhà Nguyễn đă chọn xây kinh thành vê hướng Đông Nam (thuộc phương Nam) v́ Kinh dịch viết: “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương xây mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ; lấy núi Ngự B́nh làm b́nh phong che chắn cho kinh thành; lấy sông Hương làm yếu tố minh đường, ḍng sông nằm dài giữa hai cồn đất cong như một cánh cung mang lại sinh khí cho Kinh thành; hai bên có Cồn Hến và Cồn Dă Viên tạo thế Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ chầu về trọng địa kinh thành. Đó là thế rồng chầu hổ phục bảo vệ cho vương triều.


Một tấm bia làm bằng đá Thanh cao 70 cm, rộng 40 cm, dày 11 cm, khắc 3 chữ đại tự "Dữ Dă Viên" và lạc khoản cho biết bia được dựng vào tháng 5 năm Tự Đức thứ 21, tức là tháng 7-1868

Khi mới bắt đầu xây dựng kinh thành th́ cồn đất này chưa có tên, cái tên chính thức của cái cồn ấy th́ phải đến thời Tự Đức mới được đặt. Vua Tự Đức đă nhận ra vẻ đẹp lư tưởng của nó trên ḍng sông thơ mộng và đă cho biến cái cồn này thành một vườn ngự. Chính nhà vua đă đặt tên là Dữ Dă Viên (vườn Dữ Dă), lấy ư nghĩa của địa danh Dữ Dă được gợi hứng từ một câu chuyện trong lịch sử được ghi chép ở sách Luận ngữ. Tuy nhiên lâu ngày, để cho tiện, dân gian bớt đi một chữ c̣n: Dă Viên, nên tên cồn mới trở thành cồn Dă Viên.
Cồn Dă Viên được nhắc đến nhiều trong các văn tự thời Nguyễn, đó là nơi các chúa Nguyễn đă từng tổ chức các trận đấu giữa voi (tượng trưng cho vua) và hổ (tượng trưng cho cái ác). Một chứng nhân phương Tây có mặt tại Thủ phủ Phú Xuân bấy giờ là Pierre Poivre thuật lại rằng vào năm 1750, vị chúa Nguyễn ấy và các quan trong triều đă đi trên 12 chiếc thuyền, đến đậu gần bờ bắc của cồn để xem cho đến khi 40 con voi quật chết 18 con cọp mới thôi. Tuy nhiên có lần một con hổ quá mạnh đă tát con voi gục xuống và nhảy ra phía khán giả, làm vua quan một phen khiếp sợ. Vua Minh Mạng sau đó đă xây trường đấu Hổ Quyền. Lầu ngự của vua nghe nói tồn tại đến năm 1900, c̣n từ 1925 th́ bỏ mặc cho mưa nắng.
 
Cồn Dă Viên c̣n gắn với một công tŕnh khác: cầu Bạch Hổ. Đó chính là cây cầu mà nếu bạn đến Huế bằng đường sắt th́ trước khi vào ga Huế bán sẽ đi qua đó. Cầu được xây dựng vào năm 1908, cùng lúc với tuyến đường sắt Huế - Quảng Trị. Cầu gồm hai phần: phần phía Bắc cồn, dài 302,10m, rộng 4,05m và cao 4,35m ( bắc ngang từ bờ bắc sông Hương đến cồn Dă Viên) và phần phía Nam, dài 102,70m, rộng 4,10m và cao 4,40m (bắc ngang từ Cồn Dă Viên qua bờ Nam sông Hương). Ngày xưa kia cầu vẫn làm bằng sắt nhưng mặt cầu lát gỗ. Mấy thanh gỗ mục nát hết nên người qua cầu lúc nào cũng có cảm giác như chân ḿnh sắp lọt tơm xuống cầu qua cái lỗ hổng rộng ngoác. Chiếc cầu hồi ấy được ngăn ba phần, ở giữa dành cho xe lửa c̣n hai bên dành chỉ cho khách bộ hành và xe đạp. Sau một thời gian, hư hỏng xuống cấp, cầu được trùng tu, sửa chữa, lúc này phần dành cho khách bộ hành hai bên cầu được xích lại gần nhau hơn nằm một bên của cầu và có một rào chắn ở giữa phân tách hai luồng giao thông.

Từ xưa đến nay, người Huế vẫn thường quen gọi cây cầu đường sắt bắc qua sông Hương này là cầu Bạch Hổ (hay Bạch Thổ), biển tên cầu cũng ghi rơ là cầu Bạch Hổ. Thế nhưng ít ai biết rằng, cây cầu cầu mang tên Bạch Hổ từ xưa lại không phải là cây cầu này, cũng không phải bắc qua sông Hương (thời các chúa Nguyễn chưa đủ sức làm cầu qua sông Hương), mà đó là cây cầu bắc qua sông Kẻ Vạn – con sông đào nối Sông Hương với sông An Ḥa, tạo nên nhánh phía tây của tuyến thủy lộ gọi là Hộ Thành Hà. Cầu vốn được dựng bằng gỗ khoảng năm Mậu Th́n 1808, đời vua Gia Long. Tương truyền, khi cầu Bạch Hổ (lúc đó chưa được đặt tên) đang được xây cất, có một con hổ trắng đến ngồi ở giữa cầu khiến mọi người đều hoảng hốt bỏ chạy. Cũng chính v́ thế mà cây cầu này được gọi là cầu Bạch Hổ. Tới đời vua Minh Mạng, vào năm 1839 cầu được đổi tên là cầu Lợi Tế. Hiện nay tấm bia Lợi Tế kiều bằng đá thanh, cao 98cm kể cả phần đế, hiện c̣n nguyên trạng nơi đầu cầu, có khắc ḍng lạc khoản: Minh Mạng nhị thập niên Kỷ Hợi ngũ nguyệt cát nhật tạo. (Nghĩa là tạo dựng vào một ngày tốt tháng 5 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Minh Mạng XX, tức tháng 6-1839).

Năm 1990, cầu Bạch Hổ bị sập v́ quá tải, nên được xây mới bằng bê tông cốt thép. Rộng 6,8m, dài 24,7m, cầu hiện nằm ngay đầu đường Kim Long – trục lộ men tả ngạn Sông Hương, xuyên qua phường Kim Long, dẫn tới chùa Thiên Mụ, nên đang được gắn biển đề cầu Kim Long.


Cầu Bạch Hổ - Cầu Lợi tế xưa và cũng là cầu Kim Long hiện nay

Bản thân tôi vẫn c̣n nhớ rất rơ thời điểm này bởi nó gắn liền với một kỷ niệm dại dột thời trẻ mà sau này mỗi lần nghĩ lại bỗng thấy rùng ḿnh. Năm 1990, hai chúng tôi rủ nhau lên làng Hương Hồ chơi, nơi mà năm trước tôi đă đến thực tập tốt nghiệp. Lúc đi qua Kim Long, mặt sông Hương vẫn đang c̣n b́nh lặng. Mưa rất to, nhưng v́ sự đón tiếp nồng hậu chúng tôi đă nán lại khá lâu. Ba tiếng đồng hồ sau, khi trở về quáng sông Hương qua Kim Long đă tràn ngập tất cả, con đường nhựa đă nằm sấu dưới1 mét nước. Hai chúng tôi gắng gượng lội theo ḍng nước qua khỏi khu vực ngập lụt, tưởng chừng như thoát th́ con sông Kẻ Vạn chắn ngang trước mặt, cây cầu Bạch hổ đă sập, cây cầu tạm giờ cũng đă ch́m dưới mặt nước. Phương tiện liên lạc hồi ấy không có mà không thể không về nhà, vậy là phải chạy quanh năn nỉ măi mới có một chiếc thuyền chịu chấp nhận đưa chúng tôi qua ḍng nướcđang chảy siết. Con thuyền nương theo ḍng nước, dưới trời mưa tầm tả, không có một phương tiện cứu hộ nào, phải chịu trôi một khoảng mấy trăm mét, chúng tôi mới sang được bờ bên kia. Sau này mỗi lần nghĩ lại, nếu một cơn gió mạnh đánh lật thuyền chắc có lẽ tôi không c̣n ở đây mà gơ những ḍng chữ này nữa.

Hiện nay, một cây cầu mới song song, đang được xây dựng sát cạnh với cầu Dă Viên (Bạch Hổ). Cầu dài 542,5m; bề rộng cầu (4 làn xe) 24,5m, có tổng mức đầu tư là 673,042 tỷ đồng, thời hoàn thành trong 3 năm. Cầu có các vọng lâu dọc thân cầu để ngắm cảnh sông Hương, phù hợp với không gian kiến trúc của Cố đô Huế và hệ thống đèn chiếu sáng nghệ thuật cho cầu.


Mô h́nh cầu đang xây dựng qua sông Hương song song cầu đường sắt Bạch Hổ, trên cầu có những vọng lâu để ngắm cảnh

Nếu bạn đến Huế bằng đường sắt, từ phía Bắc vào thế nào bạn cũng qua Cồn Dă Viên trước khi vào thành phố, bởi lẽ đường sắt có một quăng chạy qua giữa Cồn Dă Viên (nằm giữa hai cây cầu). Cahức hẳn bạn sẽ cảm thấy thú vị khi nh́m ngắm quang cảnh xung quanh và cố mường tượng so sánh với những ǵ tôi đă kể cho các bạn trong bài viết này nhé.

Bến đ̣ Thừa Phủ dĩ văng một thời

Qua khỏi cầu Bạch Hổ, bạn sẽ đi vào quăng sông thơ mộng nhất của sông Hương, chảy qua thành phố, hai bên bờ sông là những công tŕnh cổ kính soi bóng : Bia Quốc Học, Bến Phu Vân Lâu, Kinh thành Huế, Nghinh Lương Đ́nh, Đ́nh Thương bạc và xa xưa kia c̣n là những bến đ̣ một thời đă đi vào kư ức của nhiều thế hệ như bến đ̣ Vân Lâu, bến đ̣ Thừa Phủ, bến đ̣ Ṭa Khâm, bến đ̣ Đập Đá,… thế nhưng bến đ̣ lăng mạn nhất đến bây giờ vẫn lưu giữ trong kư ức những người yêu Huế, nhất là những ai đă từng trải qua một quảng đời áo trắng: bến đ̣ Thừa Phủ với h́nh ảnh tà áo dài tím thướt tha của nữ sinh Đồng Khánh hàng ngày trên bến đ̣ ngang.

Bến nằm ở bờ Nam sông Hương, bên cây đa cổ thụ trước mặt Phủ Doăn Phủ Thừa Thiên (bây giờ là UBND tỉnh Thừa Thiên- Huế), bến bờ Bắc nằm gần Nghinh Lương Đ́nh. Sỡ đĩ bến đ̣ này có tên là Thừa Phủ v́ bến này nằm trước dinh Thừa Thiên Phủ doăn, tức là nơi quan đầu tỉnh Thừa Thiên làm việc. Thừa Thiên Phủ doăn gọi tắt là Thừa Phủ. Lúc đầu (1899), Bến đ̣ Thừa Phủ phục vụ cho nhu cầu đi lại của viên chức, lính tráng và nhân dân từ bờ bắc sang bờ Nam làm việc và quan hệ, giao tiếp. Về sau, bến đ̣ càng phát triển khi trường Quốc Học, Nhà Thương Huế, rồi trường Đồng Khánh được xây dựng. Măi đến khi cầu Phú Xuân, hay c̣n gọi là cầu Mới, được xây dựng năm 1973 th́ bến đ̣ này mới đi vào dĩ văng. Gần 70 năm có mặt (1899-1972), không tính hết bao nhiêu chuyến đ̣ đă cập bến rồi đi mỗi ngày trên ḍng Hương thơ mộng.


Bến đ̣ Thừa Phủ năm 1963

Ngày nay, dù không c̣n các bến đ̣ nữa, nhưng hoài niệm về bến cũ, đ̣ xưa vẫn lưu giữ trong kư ức những người yêu Huế, nhất là những người Huế lớn tuổi. Tái hiện lại Bến đ̣ Thừa Phủ là t́m về nét đẹp của thời xưa yêu dấu, với những nét văn hóa riêng của cố đô mà chẳng nơi nào có được. Tại Festival Huế 2004, Bến đ̣ Thừa phủ đă được tái hiện lần đầu tiên. Sau đó, đến Festival 2006, Bến đ̣ Thừa phủ mới được tái hiện một cách sống động, nhộn nhịp, trở về đúng với ngày xưa của nó, với những gánh hàng rong trên bến, phục vụ nhu cầu "ẩm thực" của thực khách trong lúc chờ đ̣...".

Cồn Hến

Sau khi qua khỏi 2 cây cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền, xuôi về phía dưới không xa là cồn Hến, lớn hơn nhiều so với Dă Viên. Cồn Hến là vùng đất bồi ra giữa sông Hương phía tả hoàng thành, cũng chia sông Hương ra làm hai nhánh. Nhánh phía Đông là ranh giới giữa Vĩ Dạ và cồn Hến, nhánh phía Tây là ranh giới giữa cồn Hến và phường Phú Cát. Theo quan niệm phong thuỷ, nó đựơc xem là Tả Thanh long của Kinh thành Huế.


H́nh ảnh Cồn Hến nh́n từ thành phố

Trong sách Ô châu cận lục của Dương Văn An, cồn Hến từng được tả là “một cù lao xinh đẹp”. Khởi thuỷ gọi là cồn Soi. Ngày xưa, hai khe nước giữa cồn phù sa lấp cạn, tôm cá rất nhiều, đêm đêm người đến đây soi, đơm bắt, đèn đuốc sáng cả góc trời, cái tên này có lẽ bắt nguồn do dân sông nước chài lưới sống bằng nghề soi cá tôm ban đêm. Cái tên Cồn Hến sau này mới được đặt, xuất phát bởi h́nh dáng của cù lao này nh́n từ trên cao xuống trông “hao hao con hến”. Nhưng có người lại bảo tên gọi ấy là bởi người dân ở đây chuyên làm nghề hến, người ta lấy luôn tên nghề để đặt cho tên đất. Có lẽ điều này đúng hơn.

Thời gian chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725- 1738) xây dựng phủ chúa ở Phú Xuân, ông Huỳnh Tương (người xă Diên Đại, Phú Xuân, Phú Vang) đến ở dựng cḥi gần đầu múi cồn phía trên ở làm nghề cào hến. Chuyện kể rằng, vợ chồng ông bà họ Huỳnh này nghèo lắm. Người chồng cần mẫn ngày đêm đi đánh bắt cá, vợ ở nhà lo chăm con. Mong kiếm thêm chút thức ăn cho gia đ́nh, người vợ cũng cặm cụi ra bờ sông ṃ bắt hến. Sau, bắt được nhiều bà đem đi bán bớt. Dân Huế bắt đầu làm quen với món ăn mới, mộc mạc, hiền và rẻ của sông nước quê nhà. Những người phụ nữ khác thấy vậy cũng bắt chước làm theo.

Măi đến đầu niên hiệu Gia Long (1802-1820), phường Giang Hến ra đời, từ đó đảo nhỏ nổi giữa sông Hương, phía tả hoàng thành này được gọi là xứ (đảo) cồn Hến. Từ ṃ bắt bằng tay, người ta nghĩ ra cái cào để vừa đỡ vất vả vừa bắt được nhiều hến. Tương truyền, đến đời Thiệu Trị, con hến đă được bán nhiều ở khắp các chợ vùng kinh đô Huế và trở thành món ăn ưa thích của nhiều người. Một đầu bếp đă dâng lên vua món ăn dân dă này. Vua Thiệu Trị ăn thử thấy ngon. Hỏi lai lịch nghề và biết được làm nghề hến hết sức cực nhọc mới ban chỉ dụ nghề hến là “nghề được miễn thuế”.


Cầu Hương Lưu dẫn vào Cồn Hến (nằm ngày đầu chợ Vỹ Dạ, trên đường Nguyễn Sinh Cung)

Cúng tổ nghề hến được tổ chức vào các ngày 24 và 25 tháng 6 Âm lịch hàng năm. Tại cồn Hến hiện vẫn c̣n lưu giữ ngôi nhà thờ tổ tại Phường GiangHến. Vào dịp cúng tổ, nhà thờ được bài trí tôn nghiêm, lễ phẩm, trầm hương nghi ngút. Lễ tục này được tổ chức là do nguyên nhân sau: Vào năm Thành Thái thứ 4 (Nhâm Th́n 1892) ở phường Giang Hến có bà Trần Thị Thẹp đi thuyền ra dũi hến ở vùng sông trước đ́nh Hương Cần (huyện Hương Trà), bị hương lư xă kéo ra bắt, đưa thuyền của bà Thẹp lên bờ đ̣i chịu nộp thuế phạt. Dân phường Giang Hến hay tin, làm đơn kéo nhau đi kiện, được châu phê: " Thượng từ nguyên đầu, hạ chí hải khẩu"
(Nghĩa là: Từ đầu nguồn đến cuối sông biển, ao hồ chịu thuế, sông nước được dùng).

Thắng kiện, phường Giang Hến kết long đ́nh trên thuyền, trang trí cờ lọng đi rước châu phê, xă Hương Cần phải thả bà Thẹp, đưa thuyền của bà Thẹp xuống nước, dân phường Giang Hến rước về tận đ́nh phường làm lễ tạ. Cho rằng sở dĩ làng được kiện là nhờ thần sông phù hộ, cho nên dân làng lấy ngày này làm ngày lễ tế hàng năm. Ngày chánh tế, một vị bô lăo đứng chủ tế trước hương án trên một chiếc thuyền gọi là thuyền cầu nghề. Trên hương án có “sắc bằng” tổ nghề vốn vẫn được lưu giữ từ xưa tại nhà thờ họ Huỳnh, ḍng họ đă khai sinh nghề hến. Thuyền được cho chạy quanh cồn Hến để thỉnh Tổ, sau đó rước về nhà thờ và hành lễ. Sau khi tế lễ xong, “sắc bằng” tổ nghề lại được trang trọng hoàn thỉnh về tại nhà thờ họ Huỳnh.

Qua thời gian, từ một ốc đảo nhỏ được đất bồi, cát lấp, cồn Hến ngày nay thành một vùng đất đai cao ráo với diện tích gần 33 ha. Ốc đảo cồn Hến ngày nay trở thành một khu dân cư đông đảo trù phú, nhà cửa, trường học, đền chùa được xây dựng khang trang. Hơn thế, đây c̣n có nhiều quán cơm hến, chè bắp cồn...vừa nhỏ xinh xắn nấp ḿnh sau những lùm cây xanh, soi ḿnh mặt nước sông Hương.

Ngoài món cơm hến, th́ cồn Hến c̣n món chè bắp cũng nổi danh không kém, được làm từ bắp Cồn được trồng ở băi bồi màu mỡ ven sông Hương. Chè bắp là món hấp dẫn nhất, cao sang nhất trong tất cả các món ăn chế biến từ bắp Cồn. Chè bắp thơm ngọt, không phải cái ngọt của đường mà là cái ngọt riêng của sữa bắp non. Muốn nấu chè bắp phải biết chọn hạt bắp non vừa ngậm sữa, bóc hết bẹ, bỏ hết râu, bỏ hạt sâu. Xong dùng dao bào thái theo chiều dọc quả bắp. Bào bắp xong, cùi bắp cho vào nồi luộc để lấy nước. Nước luộc cùi bắp lọc thật trong rồi thêm nước đun sôi để nấu chè. Khi nước sôi cho đường (v́ nước luộc cùi bắp đă ngọt nên chỉ cần cho ít đường vừa đủ độ ngọt) và ít bột đao vào để cho chè sánh, rồi đổ bắp thái vào, khuấy đều tay, chè sôi lại là được. Chè bắp có vị ngọt thanh tao, mùi thơm mát được ưa chuộng nhất trong các loại chè ở Huế.

Nếu có dịp đến Huế, xin mời bạn đừng quên ra nơi này để thưởng thức mùi thơm béo của những bát nước hến trắng đục được lấy từ ḍng Hương và vị ngọt của những bát chè bắp hôi hổi nóng được trồng từ vùng đất nổi giữa ḷng sông. Nh́n bao quát, vùng cồn Hến như một ḥn đảo, tô điểm thêm cho nét tươi đẹp của ḍng Hương hiền ḥa, thơ mộng.

Bài viết này đă kết thúc chuyến xuôi ḍng Hương Giang, đưa các bạn từ từ Ngă ba Bằng Lẵng qua 7 điểm dừng cho đến Cồn Hến. Nơi đây gần như cũng là điểm dừng của các bến thuyền rồng du lịch dọc con sông hương thơ mộng. Một ngày nào đó, các bạn có dịp đến Huế, lênh đênh trên một chiếc thuyền rồng du lịch xuôi ḍng Hương từ lăng Minh mạng trở về thành phố, chắc hẳn ràng các bạn sẽ cảm thấy thú vị hơn rất nhiều khi vừa được ngắm khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp vừa biết được tường tận những huyền thoại, những câu chuyện kỳ thú xoay quanh nó từ bao đời nay.

Bài viết của Nguyễn Văn Liêm


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại