( Chuyện kể của ông Hai )
Dạo đó, tôi vừa mới trổ mă, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng
ra, áo quần thành ngắn củn cởn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái ǵ
cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy măi. La rầy để quở trách mà cũng chan
chứa t́nh yêu thương. Tôi ăn cái ǵ cũng ngon, đặt lưng xuống đâu
cũng ngủ được say sưa.
Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại
Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm
tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi
thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây,
nhưng chạy th́ nhiều hơn, v́ lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống
của Tây.
Tôi bị Tây bắt lăng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem
về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao
động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương.
Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi ṭ te
làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng
nghe mấy anh tập kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia măi.
Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo
hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rơ ràng, làm mấy ông Tây
tưởng đă hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính
kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau
đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính,
và sung vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút
hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng,
không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, th́ tôi cảm
thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn v́ bắt buộc, th́
thật là chán năn, mệt nhọc, bực ḿnh. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân
nhạc không vui, v́ đă chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có
năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông
thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó th́ bắt bất cứ con ǵ ăn phân
cũng được, miễn sao biết ăn phân th́ thôi. Nghe ông nói vậy, tôi
cũng tự ái, và bực ḿnh. Thường thường,th́ đội lính kèn được nhàn
hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con
gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu
thật đúng giờ. Thế thôi. C̣n ngoài ra th́ chơi cờ, tán dóc, trêu
ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: “
Tọ tè ti tọ tè ti.. ti tọ ti tè... “ Mà lũ con nít chuyển âm thành:“
Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu
tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, v́ anh cùng tuổi,
cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội
quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi
biết và thuộc ḷng tên đào kép của các gánh cải lương, ḥ quảng.
Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho
gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các
cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng,
chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của
các cô đào thôi.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. H́nh chụp rất
điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên,
mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa
tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở
Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm h́nh nầy, Tư Thàn nể nang
tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh
không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt
nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm h́nh,
và hy vọng được ḷng tôi, th́ sẽ được ḷng em tôi. Vốn tính nhút
nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một
lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi
cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ
mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt.
Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở
ra xem mà mơ mộng . Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo
trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da
ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi
trên các đ̣n gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh
cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất ḷng ai.
Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Đến
tháng lănh lương, th́ trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin
khất lại một ít. Cứ nợ cô, th́ cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến
số tiền nợ, th́ phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến
ḿnh. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy
anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không
chịu nghe theo, cứ ṣng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu
một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi
đi một ḿnh. Khi ngồi trong rạp, nh́n xéo qua bên kia, th́ tôi thấy
Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên
chỉ trỏ, như đang giải thích ǵ đó. À th́ ra Tư Thàn đă bí mật phổng
được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư
Thàn làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra th́ tôi cũng hơi
ghen tức. Tôi th́ đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo ǵ, Tư
Thàn cứ tự nhiên, th́ vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với
Tư Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm h́nh con Mười lại cho tao. Tưởng mầy
đàng hoàng, th́ ra...”
“Tao làm ǵ mà gọi là phản bội?”
“Mầy c̣n giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm ǵ? Với ai? Có chối được
không?”
“Ai nói với mầy?”
“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm
chi?”
Tư Thàn bẻn lẻn móc ví trả tôi tấm h́nh cô gái có hai cái núng đồng
tiền. Anh có vẽ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:
“Em gái mày đẹp như thế nầy, th́ chán chi người ḍm kẻ ngó. Tao làm
ǵ mà vói thấu. Trả h́nh lại cho mày là phải.”
“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên
lắm đó chứ!”
“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’
Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi
bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu,
đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy
về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nỗi. Th́ ra, tôi nhẹ dạ
tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả lui cho tôi tấm h́nh cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn
không c̣n nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết ḿnh ngu, đ̣i lại
tấm h́nh, chẳng ích ǵ, nhưng đă lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có th́ giờ đi chơi với
cô Năm Cháo Trắng. Bỡi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô
vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô
nữa.
Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong.
Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi
thua, mà thua th́ nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi
dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, th́ hai
đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần
bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị
bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi t́m ra
một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một
xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, th́ đứa kia
thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào,
chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, v́ một trong hai đứa thắng cuộc.
Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nh́n vóc
dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ
Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, th́ c̣n
nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không c̣n muốn trả nữa.
Tôi cứ khất măi, và đến tháng lănh lương cũng không trả bớt nợ cho
Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái ǵ lấn cấn, t́nh bạn
không c̣n như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn,
sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo ḷng,
khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả
Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô
nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:
“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn
mà trả chứ?”
Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến
răng trả lời:
“Mầy c̣n đ̣i tiền nợ, th́ tao đục cho trào máu.”
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi th́ cũng không hết giận, định đi
theo gây sự thêm. V́ một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất t́nh bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Ḥa được thành lập tại
miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem
vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ
thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng v́ con đông, cho nên khi nào cũng
thấy thiếu thốn.
Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách
cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc
xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi
bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Đầu óc suy nghĩ, tính kế không ra.
Tôi định bắt xe đ̣ về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không
có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai
con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên
bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:
“Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với”
Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem
cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, th́ anh reo lên:
“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại
thăm?”
Tôi mừng quá, thét lớn:
“Tư Thàn! Mày! Đ. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết
có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.”
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Đủ thứ
chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đ́nh mỗi người. Tư Thàn có hai
thằng con trai. Đời sống của gia đ́nh thong thả, nhờ cô Năm Cháo
Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư
Thàn chưa về lại Sài G̣n lần nào, v́ cũng không có chuyện ǵ, mà
chẳng c̣n ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ
bên đường, đến đâu th́ đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn
trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con
gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn
đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để
cả con gà lên chơng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn
đă rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều
đều, cạn chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa,
chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai
đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép
thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng
cười vang. Khi trời xế chiều, th́ cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng
về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều
lần đau điếng. Cô mắng:
“Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở
đây mà ghé chơi? Vui quá xá”
Đêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít
đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say.
Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng
lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề
toan tính thanh toán cho ṣng phẳng. Cũng v́ món nợ đó, mà cái t́nh
bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn
nồng, không c̣n như trước. Tôi chậm răi nói lè nhè trong hơi men:
“Tao bậy quá, c̣n mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả . Công việc làm ăn,
cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may
lắm. Tiền không có dư...”
Tư Thàn cười hiền ḥa, giọng ấm áp nói:
“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ ǵ? Chuyện cờ bạc thời
trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quư rồi.”
Có lẽ v́ rượu đă ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí t́nh của bạn, mắt
tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Đêm đó, tôi
ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm ŕ trong bóng tối cho đến
khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, th́ thấy chiếc xe chỉ c̣n là một
đống sắt cháy nham nhở. Th́ ra đêm qua, du kích đặt ḿn phá, mà ngủ
mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe ḍ về
Sài g̣n, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi
thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không
moi được một xu, th́ tha làm phước. Vă lại thời buổi chiến tranh,
không ai dự liệu trước được chuyện bom ḿn.
Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đ́nh chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu,
về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đă. V́ sợ phải đi
tù như một số bạn tôi, họ đă trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe
đâu một số đă chết trong tù, một số c̣n bị giam giữ hơn hai mươi năm
chưa được thả. Đó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua
Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi
làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm
dưỡng lăo của quận hạt. Hai mươi mấy năm đ̣i sống yên lành, no ấm,
hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một
ḿnh, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi
đang ở Sài g̣n, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập ṭa nhà đôi chọc
trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay
nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau
đó, xem truyền h́nh, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Ḷng tôi đau nhói, và
nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm
thiết không thua ǵ quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều
bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở vể
lại Mỹ được, và trong ḷng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể
về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam măi, cho hết cuối
đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang
khách sạn. Từ trên cao nh́n xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ,
hơn năm mươi năm trước, nơi đây c̣n lau sậy um tùm, đất thấp ngập
nước, hoang vu. Từ bên trong pḥng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua
cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn năo nề:
Sông kia rày đă nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣..”(*)
Ḷng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau
như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính
kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu băi biển đă biến thành nương
dâu, bao nhiêu trũng hoang đă trở thành phố thị. Những thế hệ trước
tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đă về với ḷng đất. Yên bề.
Những người c̣n sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm ǵ. Bỗng tôi
chợt nhớ đến Tư Thà. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa
trả được, ḷng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời
mau sáng, để thuê xe đi t́m thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi t́m Tư Thàn. Anh
tài xế nghe tôi nói đi t́m một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đă
hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già
khùng lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt ḿn hơn ba
chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay
chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu.
Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy
vọng, c̣n có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại
đường cái, ngồi trong cái cḥi bán nước bên vệ đường, th́ gặp một bà
già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng
bà la lên:
“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là
ai, t́m Tư Thàn có chuyện chi không?”
“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây
giờ, nhớ bạn, ghé t́m thăm.”
“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ
chứng đi t́m!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang
cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm
tuổi, c̣n sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần,
xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn,
đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy g̣, hai má hóp,
miệng móm xọm, chỉ c̣n hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái
của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư
Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:
“Tôi t́m Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là
chị Năm Cháo Trắng.”
Ông lăo phều phào:
“Ông là ai? T́m tôi có việc ǵ không?”
“Tôi t́m Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”
“Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông t́m lầm người rồi.”
“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?”
“Vợ tôi, má thằng Độ, thằng Rề.”
Bây giờ th́ tôi chắc chắn ông lăo ngồi trước mặt tôi chính là Tư
Thàn, không ai khác. Tôi c̣n mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở
nào. Bố thằng Độ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đă gặp hồi xưa. Ngày
trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Độ, Rề, Mi,
Pha, Xôn, La, Xi, nhưng mới có mới có Độ, Rề, th́ bà vợ tịt ng̣i. Tư
Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo
nhăn nhúm lên cao, để ḷi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen
điu, nhăn nhúm, mằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng.
Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:
“Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”
“Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?”
“Thế th́ mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”
“Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bă đổi giọng:
“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng
tên chăng?”
“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn
nầy thôi”
Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:
“Đ.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: “Một
ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui
bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”
Nghe tiêng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy
tôi mà thét lên:
“Đ. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng
dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai
ngờ, ai mà nh́n ra.”
Đám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và
gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo,
và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn
ngào:
“Mầy c̣n nhớ đến tao, t́m thăm. Đồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp
nơi nào?”
Tư Thàn nh́n tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:
“Tóc tai cũng c̣n, răng cỏ hai hàm c̣n nguyên, mặt mày có da có
thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều
về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm ǵ?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:
“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài g̣n, nhờ có mấy đứa con vượt biên
ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già
rồi, về hưu, không làm ǵ nữa cả.”
Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đă
chết. Thằng Độ đi lính quốc gia, đă đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh”
cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để
nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nh́n cái thân
thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm
lao động chân tay. Tôi nói:
“Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu
bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”
Tư Thàn ngự trong căn cḥi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn,
không giường, chỉ có cái vơng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu,
méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy c̣n có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn,
mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không c̣n răng,
ăn cách nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế t́m cho một quán
ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi,
không chịu vào, và nói:
“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Đừng hoang phí
tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp
nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”
Tôi ép măi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi
trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên.
Tôi uống rượu thay nước, v́ sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi
không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.
Đưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy
báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật ḿnh, xô gói quà ra về phía
tôi:
“Cái ǵ đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy đâu. Đừng bày
đặt.”
“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả
lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công
tao lặn lội đi t́m.”
“Không. Nợ nần cái khỉ ǵ. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ
dại. Tao đă bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không
có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói :
“Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa
trả hết nợ, th́ sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm.
Thương tao, mầy cứ cầm đi. Để mua gạo. Để khi đau yếu có chút thuốc
thang. Nếu không có nơi cất, th́ đem gởi bà con. ”
Đôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp
khóc:
“Đ.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng c̣n định gạt tao như hồi xưa
nữa sao? Thằng chó chết. Cái t́nh bạn của mầy, c̣n quư gấp trăm ngàn
lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho
bà biết cái t́nh bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”
Tràm Cà Mau
(*) Thơ Trần Tế Xương.
Bạn cũ năm mươi năm
( Chuyện kể của ông Hai )
Dạo đó, tôi vừa mới trổ mă, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng
ra, áo quần thành ngắn củn cởn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái ǵ
cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy măi. La rầy để quở trách mà cũng chan
chứa t́nh yêu thương. Tôi ăn cái ǵ cũng ngon, đặt lưng xuống đâu
cũng ngủ được say sưa.
Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại
Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm
tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi
thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây,
nhưng chạy th́ nhiều hơn, v́ lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống
của Tây.
Tôi bị Tây bắt lăng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem
về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao
động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương.
Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi ṭ te
làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng
nghe mấy anh tập kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia măi.
Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo
hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rơ ràng, làm mấy ông Tây
tưởng đă hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính
kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau
đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính,
và sung vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút
hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng,
không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, th́ tôi cảm
thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn v́ bắt buộc, th́
thật là chán năn, mệt nhọc, bực ḿnh. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân
nhạc không vui, v́ đă chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có
năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông
thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó th́ bắt bất cứ con ǵ ăn phân
cũng được, miễn sao biết ăn phân th́ thôi. Nghe ông nói vậy, tôi
cũng tự ái, và bực ḿnh. Thường thường,th́ đội lính kèn được nhàn
hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con
gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu
thật đúng giờ. Thế thôi. C̣n ngoài ra th́ chơi cờ, tán dóc, trêu
ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang: “
Tọ tè ti tọ tè ti.. ti tọ ti tè... “ Mà lũ con nít chuyển âm thành:“
Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu
tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, v́ anh cùng tuổi,
cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội
quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi
biết và thuộc ḷng tên đào kép của các gánh cải lương, ḥ quảng.
Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho
gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các
cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng,
chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của
các cô đào thôi.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. H́nh chụp rất
điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên,
mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa
tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở
Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm h́nh nầy, Tư Thàn nể nang
tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh
không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt
nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm h́nh,
và hy vọng được ḷng tôi, th́ sẽ được ḷng em tôi. Vốn tính nhút
nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một
lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi
cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ
mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt.
Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở
ra xem mà mơ mộng . Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo
trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da
ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi
trên các đ̣n gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh
cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất ḷng ai.
Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Đến
tháng lănh lương, th́ trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin
khất lại một ít. Cứ nợ cô, th́ cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến
số tiền nợ, th́ phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến
ḿnh. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy
anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không
chịu nghe theo, cứ ṣng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu
một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi
đi một ḿnh. Khi ngồi trong rạp, nh́n xéo qua bên kia, th́ tôi thấy
Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên
chỉ trỏ, như đang giải thích ǵ đó. À th́ ra Tư Thàn đă bí mật phổng
được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư
Thàn làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra th́ tôi cũng hơi
ghen tức. Tôi th́ đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo ǵ, Tư
Thàn cứ tự nhiên, th́ vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với
Tư Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm h́nh con Mười lại cho tao. Tưởng mầy
đàng hoàng, th́ ra...”
“Tao làm ǵ mà gọi là phản bội?”
“Mầy c̣n giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm ǵ? Với ai? Có chối được
không?”
“Ai nói với mầy?”
“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm
chi?”
Tư Thàn bẻn lẻn móc ví trả tôi tấm h́nh cô gái có hai cái núng đồng
tiền. Anh có vẽ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:
“Em gái mày đẹp như thế nầy, th́ chán chi người ḍm kẻ ngó. Tao làm
ǵ mà vói thấu. Trả h́nh lại cho mày là phải.”
“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên
lắm đó chứ!”
“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’
Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi
bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu,
đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy
về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nỗi. Th́ ra, tôi nhẹ dạ
tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả lui cho tôi tấm h́nh cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn
không c̣n nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết ḿnh ngu, đ̣i lại
tấm h́nh, chẳng ích ǵ, nhưng đă lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có th́ giờ đi chơi với
cô Năm Cháo Trắng. Bỡi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô
vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô
nữa.
Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong.
Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi
thua, mà thua th́ nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi
dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, th́ hai
đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần
bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị
bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi t́m ra
một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một
xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, th́ đứa kia
thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào,
chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, v́ một trong hai đứa thắng cuộc.
Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nh́n vóc
dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ
Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương. Nợ ít ít, th́ c̣n
nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không c̣n muốn trả nữa.
Tôi cứ khất măi, và đến tháng lănh lương cũng không trả bớt nợ cho
Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái ǵ lấn cấn, t́nh bạn
không c̣n như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn,
sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo ḷng,
khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả
Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô
nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:
“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn
mà trả chứ?”
Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến
răng trả lời:
“Mầy c̣n đ̣i tiền nợ, th́ tao đục cho trào máu.”
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi th́ cũng không hết giận, định đi
theo gây sự thêm. V́ một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất t́nh bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Ḥa được thành lập tại
miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem
vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ
thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng v́ con đông, cho nên khi nào cũng
thấy thiếu thốn.
Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách
cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc
xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi
bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Đầu óc suy nghĩ, tính kế không ra.
Tôi định bắt xe đ̣ về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không
có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai
con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên
bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:
“Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với”
Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem
cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, th́ anh reo lên:
“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại
thăm?”
Tôi mừng quá, thét lớn:
“Tư Thàn! Mày! Đ. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả ? Chiếc xe nó biết
có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.”
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Đủ thứ
chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đ́nh mỗi người. Tư Thàn có hai
thằng con trai. Đời sống của gia đ́nh thong thả, nhờ cô Năm Cháo
Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư
Thàn chưa về lại Sài G̣n lần nào, v́ cũng không có chuyện ǵ, mà
chẳng c̣n ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ
bên đường, đến đâu th́ đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn
trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con
gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn
đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để
cả con gà lên chơng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn
đă rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều
đều, cạn chai nầy, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa,
chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai
đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép
thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng
cười vang. Khi trời xế chiều, th́ cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng
về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều
lần đau điếng. Cô mắng:
“Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở
đây mà ghé chơi? Vui quá xá”
Đêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít
đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say.
Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng
lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề
toan tính thanh toán cho ṣng phẳng. Cũng v́ món nợ đó, mà cái t́nh
bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn
nồng, không c̣n như trước. Tôi chậm răi nói lè nhè trong hơi men:
“Tao bậy quá, c̣n mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả . Công việc làm ăn,
cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may
lắm. Tiền không có dư...”
Tư Thàn cười hiền ḥa, giọng ấm áp nói:
“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ ǵ? Chuyện cờ bạc thời
trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quư rồi.”
Có lẽ v́ rượu đă ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí t́nh của bạn, mắt
tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Đêm đó, tôi
ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm ŕ trong bóng tối cho đến
khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, th́ thấy chiếc xe chỉ c̣n là một
đống sắt cháy nham nhở. Th́ ra đêm qua, du kích đặt ḿn phá, mà ngủ
mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe ḍ về
Sài g̣n, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi
thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không
moi được một xu, th́ tha làm phước. Vă lại thời buổi chiến tranh,
không ai dự liệu trước được chuyện bom ḿn.
Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đ́nh chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu,
về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đă. V́ sợ phải đi
tù như một số bạn tôi, họ đă trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe
đâu một số đă chết trong tù, một số c̣n bị giam giữ hơn hai mươi năm
chưa được thả. Đó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua
Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi
làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm
dưỡng lăo của quận hạt. Hai mươi mấy năm đ̣i sống yên lành, no ấm,
hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một
ḿnh, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi
đang ở Sài g̣n, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập ṭa nhà đôi chọc
trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay
nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau
đó, xem truyền h́nh, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Ḷng tôi đau nhói, và
nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm
thiết không thua ǵ quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều
bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở vể
lại Mỹ được, và trong ḷng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể
về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam măi, cho hết cuối
đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang
khách sạn. Từ trên cao nh́n xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ,
hơn năm mươi năm trước, nơi đây c̣n lau sậy um tùm, đất thấp ngập
nước, hoang vu. Từ bên trong pḥng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua
cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn năo nề:
Sông kia rày đă nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣..”(*)
Ḷng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau
như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính
kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu băi biển đă biến thành nương
dâu, bao nhiêu trũng hoang đă trở thành phố thị. Những thế hệ trước
tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đă về với ḷng đất. Yên bề.
Những người c̣n sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm ǵ. Bỗng tôi
chợt nhớ đến Tư Thà. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa
trả được, ḷng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời
mau sáng, để thuê xe đi t́m thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi t́m Tư Thàn. Anh
tài xế nghe tôi nói đi t́m một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đă
hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già
khùng lẩm cẩm.
Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt ḿn hơn ba
chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay
chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu.
Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy
vọng, c̣n có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại
đường cái, ngồi trong cái cḥi bán nước bên vệ đường, th́ gặp một bà
già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng
bà la lên:
“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là
ai, t́m Tư Thàn có chuyện chi không?”
“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây
giờ, nhớ bạn, ghé t́m thăm.”
“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ
chứng đi t́m!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang
cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm
tuổi, c̣n sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần,
xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn,
đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy g̣, hai má hóp,
miệng móm xọm, chỉ c̣n hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái
của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư
Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:
“Tôi t́m Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là
chị Năm Cháo Trắng.”
Ông lăo phều phào:
“Ông là ai? T́m tôi có việc ǵ không?”
“Tôi t́m Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”
“Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông t́m lầm người rồi.”
“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?”
“Vợ tôi, má thằng Độ, thằng Rề.”
Bây giờ th́ tôi chắc chắn ông lăo ngồi trước mặt tôi chính là Tư
Thàn, không ai khác. Tôi c̣n mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở
nào. Bố thằng Độ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đă gặp hồi xưa. Ngày
trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Độ, Rề, Mi,
Pha, Xôn, La, Xi, nhưng mới có mới có Độ, Rề, th́ bà vợ tịt ng̣i. Tư
Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo
nhăn nhúm lên cao, để ḷi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen
điu, nhăn nhúm, mằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng.
Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:
“Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”
“Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?”
“Thế th́ mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”
“Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bă đổi giọng:
“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng
tên chăng?”
“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn
nầy thôi”
Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:
“Đ.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca: “Một
ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui
bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”
Nghe tiêng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy
tôi mà thét lên:
“Đ. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng
dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai
ngờ, ai mà nh́n ra.”
Đám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và
gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo,
và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn
ngào:
“Mầy c̣n nhớ đến tao, t́m thăm. Đồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp
nơi nào?”
Tư Thàn nh́n tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:
“Tóc tai cũng c̣n, răng cỏ hai hàm c̣n nguyên, mặt mày có da có
thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều
về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm ǵ?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:
“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài g̣n, nhờ có mấy đứa con vượt biên
ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già
rồi, về hưu, không làm ǵ nữa cả.”
Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đă
chết. Thằng Độ đi lính quốc gia, đă đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh”
cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để
nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nh́n cái thân
thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm
lao động chân tay. Tôi nói:
“Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu
bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”
Tư Thàn ngự trong căn cḥi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn,
không giường, chỉ có cái vơng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu,
méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy c̣n có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn,
mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không c̣n răng,
ăn cách nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế t́m cho một quán
ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi,
không chịu vào, và nói:
“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Đừng hoang phí
tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp
nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”
Tôi ép măi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi
trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên.
Tôi uống rượu thay nước, v́ sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi
không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.
Đưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy
báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật ḿnh, xô gói quà ra về phía
tôi:
“Cái ǵ đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy đâu. Đừng bày
đặt.”
“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả
lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công
tao lặn lội đi t́m.”
“Không. Nợ nần cái khỉ ǵ. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ
dại. Tao đă bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không
có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói :
“Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa
trả hết nợ, th́ sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm.
Thương tao, mầy cứ cầm đi. Để mua gạo. Để khi đau yếu có chút thuốc
thang. Nếu không có nơi cất, th́ đem gởi bà con. ”
Đôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp
khóc:
“Đ.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng c̣n định gạt tao như hồi xưa
nữa sao? Thằng chó chết. Cái t́nh bạn của mầy, c̣n quư gấp trăm ngàn
lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho
bà biết cái t́nh bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”
Tràm Cà Mau
(*) Thơ Trần Tế Xương.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại