Hồi Kư, Tuỳ Bút: Trần Vàng Sao
Lời người sưu tầm
Tài liệu mà tôi gởi tới độc giả sau đây là một tập hồi kư, dày 134
trang A4 đánh máy vi tính chữ nhỏ xuất hiện dưới h́nh thức samizdat
được photocopy (thứ văn chương chuyền tay khá phong phú ở Việt Nam
sau những năm “đổi mới”) cách đây có hơn 10 năm [1]. Tác giả của nó
là Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính), một người làm thơ ở miền
Nam, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đă cùng với nhiều bạn
bè đồng lứa đứng lên chống lại chế độ chính trị của miền Nam lúc đó
bằng cách “đi lên núi” để cuối cùng, sau khi thoát khỏi bom đạn Mỹ,
anh đă vướng phải một tai họa cực kỳ tệ hại.Cuốn hồi kư này kể lại
cái tai họa đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh:
ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đă ghi lại những suy nghĩ
của ḿnh về cái gọi là “hậu phương xă hội chủ nghĩa” đó bằng nhật kư
và chính v́ những suy nghĩ ghi thành chữ viết này anh bị các đồng
chí của ḿnh truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh
cho biết anh không c̣n được coi là con người mà đă thành “một con
vật, một con chó”. Trong rừng, tôi đă nghe biết một số trường hợp
những trang nhật kư bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự
tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường
hợp của Trần Vàng Sao.
Những ai đă đọc Đặng Thùy Trâm cùng những bàn tán về nhật kư của chị, khi đọc xong hồi kư của Trần Vàng Sao, sẽ thấy rất khó mà coi các tài liệu chiến tranh này là những “bản chứng nghiệm chân thực của lịch sử” – như có một tác giả nào đó đă cho là vậy. Tuy cùng “chung một chiến hào”, thuộc cùng một thế hệ những người đi vào chiến tranh (Trần Vàng Sao cũng sinh năm 1942 như Đặng Thùy Trâm), nhưng những giá trị mà Đặng Thùy Trâm tin tưởng một cách “chân thực” để sống và để chết th́ đối với Trần Vàng Sao lại chỉ là những điều huyễn hoặc đơn thuần. Không thể nói là không “chân thực” nỗi thất vọng của một trí thức như anh, một người đi qua máu lửa để t́m đường chợt thấy trước mắt ḿnh hiện ra một khoảng hư vô mù mịt.
Với tai họa ấy, anh đă bị đẩy vào t́nh thế đứng giữa hai lằn lửa. Là người miền Nam, nhưng anh đă phủ định cái huyền thoại ngô nghê về một “một miền Nam đúng nghĩa” dưới một chính thể mệnh danh “dân chủ, tự do, no ấm” để chọn lựa đi về “phía bên kia”, cuối cùng đă bị cả “phía bên kia” lẫn “phía bên này” kết án. Ngày nay, với sự xuất hiện lại của hồi kư này, không thể loại trừ những tố cáo ấy sẽ tái diễn, và nếu như vậy th́ cũng chẳng có ǵ khó hiểu. Như có người đă nói rồi, cuộc chiến đă chấm dứt 30 năm nhưng những vết thương mà nó để lại trong ḷng người c̣n quá sâu đậm: bên cạnh hàng triệu người vui vẫn c̣n hàng triệu người buồn. Những vướng mắc trong quá khứ vẫn chưa t́m được cơ sở chung để tháo gỡ một cách thanh thản, ḥa b́nh.
Dù sao, tôi thấy giới thiệu lại những trang
hồi ức của Trần Vàng Sao như dấu tích của một thời đă qua vẫn là cần
thiết, nhất là với những ai chợt thấy có mong muốn nh́n lại cái thời
đă qua ấy một cách nhiều mặt hơn: ngoài những tiếng nói của hai phe
đối nghịch có đủ lư do (Bắc/Nam, quốc/cộng...) để tố cáo nhau một
cách ác liệt, c̣n có tiếng nói của những người cũng có đủ lư do để
không c̣n phải đứng về phe nào trong hai phe ấy nữa. Có thể chẳng
giải quyết được ǵ: nhiều lắm cũng chỉ là trải nghiệm của một cuộc
dấn thân máu lửa, cần được nhắc đến để rọi sáng thêm một cuộc máu
lửa mà những hệ lụy của nó chưa chịu nằm yên trong những nấm mồ. Sự
chân thực mang tính chất nhân chứng ở đây không có lư do nào chính
đáng để nâng ḿnh thành sự chân thực của bản thân lịch sử, dù đó là
sự chân thực của một niềm tin hay là sự chân thực của một hận thù.
Lữ Phương
Chú thích:
[1] Tôi có được một bản do bạn bè cho mượn nhưng lại là một bản
không b́a, nên không biết nhan đề của tập hồi kư là ǵ. Đáng lẽ tôi
phải nhờ tác giả xác minh, nhưng do không quen biết anh, lại đọc
thấy ở trang cuối trong hồi kư của anh ḍng sau đây: “Tôi muốn yên
ổn. Nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn cứ bị nḥm ngó”, nên rất ngại phải
liên lạc với anh trong việc này. V́ vậy (trong khi chờ đợi được bổ
sung), tôi tạm đặt cho cuốn hồi kư của anh cái tên Hồi ức của một
người tù không bị giam vào ngục, như anh đă viết về ḿnh trong hồi
kư là “trường hợp một thằng tù không bị giam vào ngục”.
Chương I - 1-Ở K65 thị xă Sơn Tây
“Ngồi đó!”
“Ngồi xuống!”
“Ngồi xuống đó!”
Một hai ba ông không nh́n tôi chỉ cái ghế quay lưng ngay ở cửa ra
vào nói. Tôi ngồi xuống, rồi dớm người kéo vạt áo bông lên. H́nh như
hai cái bàn đâu lại với nhau. Ghế, ghế xung quanh. Tôi nghe tiếng
chân ghế kéo lẹt xẹt trên nền xi măng. Rất nhiều ông đă ngồi trước.
Rất nhiều ông đội mũ cát dạ, kiểu Trung Quốc, kiểu Liên Xô; một hai
ba cái mũ bê-rê. Tất cả đều mặc áo ấm, áo đại cán và áo bông, và
choàng khăn cùng một loại bằng len, chỉ khác màu, lấm tấm đỏ đen
xanh trắng. Tôi lấy thuốc ra hút. Trước mặt tôi là cái cửa sổ to
rộng, nhiều cánh, không có song và tàng cây xanh ở ngoài xa. Sột
soạt, với tiếng ghế đụng nhau, họ soạn sổ sách, giấy bút. Tất cả bọn
họ đều là một màu xanh đậm đen và đen, và to phồng. Mặt của họ đỏ,
đen ch́, trắng xám, có mặt đỏ láng. Số đông bọn họ đều già, tuổi từ
50 trở lên. Có một hai người suưt soát trên dưới 40. Bọn họ đều lạ
đối với tôi và hầu hết tôi không biết tên, và nếu tôi có biết th́
cũng nghe họ xưng hô với nhau. Tôi cũng không biết rơ họ là ai, ở
đâu đến.
Tôi nghe có tiếng nói giữa đám người đó, giọng Thừa Thiên pha giọng
Bắc rất khó chịu:
“Thôi, làm đi!”
Ông vừa nói tên Lai, mặt đỏ láng.
Một người mở tờ giấy ra để trước mặt và đọc:
“Họ và tên: Nguyễn Đính. Sinh ngày: 12-12-1942...”
Người đó dướng hai con mắt khỏi cặp kính ngó tôi; nói bằng giọng
Quảng cũng pha Bắc chớt chớt:
“Thật không?”
Tôi ngó người đó không trả lời. Người đó cuối xuống đọc tiếp. Trong
lúc ông này đọc lư lịch của tôi, tất cả bọn họ đều ngó chằm tôi. Một
ông trễ kính xuống đầu chót mũi dướng mắt ngó; một ông nghiêng đầu
sang ông bên cạnh miệng mấp máy, mắt liếc xéo tôi; một ông dim mắt
tay đỡ cằm ngó tôi; một ông dựa ngửa nh́n tôi qua khói thuốc; một
ông miệng méo như cười, tai đụng vai ngó tôi, ông nữa phía bên cạnh
chống tay một bên đầu, răng cắn vào môi ngó tôi; ông nữa cắn gọng
kính khịt mũi ngó tôi; ông nữa vừa xoay vừa thổ xuống mặt bàn cái
bi-kê Trung Quốc, đánh hai hàm răng theo nhịp ngó tôi; ông nữa mím
thít hai hàm răng, bạnh cằm ra ngó tôi; ông nữa cắn răng vào khẩu
tay ngó tôi; ông nữa ngửa mặt lên trần ngó mắt xuống vào tôi.
Ông kia đọc xong, một ông khác dựa ngửa gơ gơ cả bàn tay xuống mặt
bàn, gục gặc đầu, hất hàm hỏi:
“Anh khai thật chứ?”
Tôi nghe tiếng nước chảy dưới nhà lỏng bỏng. Có tiếng đàn bà nói:
“Mở nước ra rồi th́ phải đóng lại chứ. Lăng phí thế này...”
Tiếng nước chảy to hơn, nước đổ vào cái thau men th́ phải; tiếng bọt
sủi, nước tràn rồi. Chỗ này thỉnh thoảng tôi hay rửa chân cho mát
khi đi qua đây. Tiếng nước tắt. Tiếng người đàn bà:
“Đun nước lên con!”
“Từ ngày ra Bắc đến bây giờ anh đă làm ǵ?” Cái ông tên Lai mặt đỏ
láng, đội mũ cát xanh gần như đen kiểu Trung Quốc, lắc người trên
ghế. Khi cái ghế dừng lại, ông ta chồm người ra phía trước, nói như
thế. Hai con mắt ngó thẳng vào tôi. Hết câu ông ta dựa ngửa người
lại, mười ngón tay gơ hết lên mặt bàn, điếu Điện Biên bao bạc ngậm
trên miệng, đầu hất ra phía trước, cằm đụng vào cái cổ áo lông màu
đà. Hai hàm răng ông Lai đó mở ra:
“Nói đi và nói thật!”
Có tiếng kẹt bi-kê. Tôi rút một điếu thuốc, rối vuốt điếu thuốc cho
thẳng. Tôi đưa điếu thuốc lên môi, hai bàn tay đan vào nhau trên mặt
bàn. Tôi không hút. Tôi khịt mũi, rồi lấy điếu thuốc ra khỏi miệng
và nhổ từng sợi thuốc dính trên môi ra. Tôi hút thuốc.
Hôm đó là sáng 25 tháng 1 năm 1972 tại Viện điều dưỡng K65 ở Thị xă
Sơn Tây.
Đêm hôm qua, khoảng bảy tám giờ, tôi thấy có một người đàn ông trên
50 tuổi vào pḥng tôi ngồi nói chuyện với ông già người Phú Yên tên
Giác ở cùng pḥng với tôi. Trong khi nói chuyện, thỉnh thoảng ông
người lạ này giả đ̣ bâng quơ nh́n tôi. Lúc đó tôi ngồi ở pḥng
trong. Tôi không để ư đến thái độ của ông ta. Tôi đang đọc và viết.
Bảy giờ sáng hôm sau, ngày 25-1-1972, ông trưởng khối bệnh nhân đến
gặp tôi nói:
“Anh qua gác hai nhà C, có mấy anh ở trên gặp”.
Thôi, tôi bị rồi. Tôi đi dọc dăy hành lang. Những con mắt, những con
mắt ngó tôi không như thường. Họ biết hết tôi rồi. Họ đă cùng nhau
họp hành, sắp xếp hết cho tôi rồi. Tôi bị ḍm ngó như một con quỷ sứ
bắt đầu từ dăy hành lang này, từ ngày này.
Gần một tháng nay tôi đă đoán biết mọi sự rồi sẽ xảy ra cho tôi.
Nhưng tôi không biết người ta sẽ xử tôi như thế nào và bằng cách
nào. Cách đây một tháng, bà bác sĩ chủ nhiệm khoa tôi ở, tên Quy,
đến báo cho tôi biết:
“Sáng mai anh về E2 kiểm tra sức khỏe và nhất là để chụp phim lại
cái dạ dày. Anh nhớ mang theo quần áo để dùng trong một tuần”.
E2 là bệnh viện dành cho cán bộ miền Nam ra Bắc chữa bệnh. Bệnh viện
này ở làng Cổ Nhuế cách trường đảng Nguyễn Ái Quốc độ ba trăm mét.
Về E2 kiểm tra sức khỏe là phải ở lại đó một tuần. Tôi hoàn toàn
không biết đây là sự sắp xếp của Ban bảo vệ Đảng (thuộc Ban Thống
nhất của Chính Phủ) (?) và Cục đón tiếp cán bộ B. (Tất cả các cơ
quan bí mật hay công khai này tôi không biết rơ, chỉ gọi chung là
Ban Thống nhất hoặc Cục đón tiếp).
Tôi lại cho là tôi gặp may, v́ đây là một dịp tôi ở gần Hà Nội để đi
chơi với Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính T́nh (bí danh là Hồ Thanh) và những
anh em bạn bè khác. Hơn nữa, thường sau một thời gian chữa bệnh,
người nào được kiểm tra lại sức khỏe tức là sắp sửa chuẩn bị vào Nam
lại. Lúc này tôi rất muốn trở lại chiến trường. Tôi vui. Những ngày
ở E2 thỉnh thoảng tôi về Hà Nội ở chơi với bạn bè. Thời gian này tôi
viết tiếp cho xong bài thơ dài trên 500 câu: “Bản Thánh ca của một
người dựa cột đ́nh liếm lá bánh”. Một sáng thứ bảy tôi thanh toán
tiền ăn của tôi những ngày ở E2 (tất cả đều trên giấy tờ). Sáng Chủ
nhật tôi qua K10 ở Gia Lâm thăm ông Sự. Ông Sự là Phó ban tuyên huấn
Thành ủy Huế ra Bắc chữa bệnh và học tập. Lúc đó, ông ta đang ở K10
bồi dưỡng sức khỏe chuẩn bị vào Nam. Tôi ngỏ ư với ông Sự là tôi
muốn trở lại chiến trường và nhờ ông tạo điều kiện cho tôi vào càng
sớm càng tốt. Khác với những lần gặp trước, bao giờ ông Sự cũng hỏi
tôi đă khỏe chưa, vết thương ở đầu gối và cái bụng thế nào, có đủ
sức leo dốc không. Lần này ông Sự chỉ ậm à ậm ừ với tôi. Tôi không
để ư đến thái độ lạnh nhạt của ông đối với tôi. Tôi hỏi ông:
“Bao giờ anh vào lại?”
Ông Sự loay hoay xếp dọn, lục lọi, t́m kiếm những thứ vặt vănh giấy
má ǵ đó giữa giường, trong ba lô với những cử chỉ, động tác của
chân tay quờ quạng lúng túng, thừa một cách vô ích, thỉnh thoảng lại
khịt mũi vài cái. Ông nói không nh́n tôi:
“Cũng chưa biết nữa”.
Rồi xoay qua xoay lại Ông nói lảng một ḿnh:
“Chà không biết để mô hè?”
Tôi đi gặp một vài người quen ở các pḥng gần đó. Lúc tôi quay lại
th́ ông Sự đă đi đâu rồi. Tôi t́m một miếng giấy loại để đi cầu. Tôi
thấy ở dưới đất phía trên đầu giường của ông Sự một tờ giấy vo tṛn
lại. Tôi nhặt lên. Vào ngồi trong cầu, tôi trăn tờ giấy ra, hoàn
toàn t́nh cờ. Chữ của thằng Trần Nguyên Vấn, bằng bút bi bấm màu
xanh viết trên giấy kẻ ngang, tờ ét, xếp đôi. Hèn ǵ ông Sự đối xử
với ḿnh lạnh nhạt và đờ đẫn. Lâu nay tôi có hơi nghi thằng Nguyễn
Viết Trác (chứ không nghĩ nó có thể phản tôi), tôi nghi ngờ về ḷng
thành thật và thẳng thắn của hắn. Khi nói chuyện với tôi, nhất là về
chuyện chính trị, về t́nh trạng xă hội ở miền Bắc, về chiến tranh,
về Đảng... hắn bao giờ cũng chỉ ậm ờ và làm ra vẻ lắng nghe, và
không bao giờ tỏ vẻ phản đối hay đồng ư. C̣n thằng Trần Nguyên Vấn,
hắn ở với tôi cùng một cơ quan trong rừng. Lúc ra Hà Nội cho đến lúc
này, h́nh như tôi có gặp một hai lần ǵ đó. Nó không biết ǵ về tôi
lúc ở miền Bắc hết. Chỉ có thằng Trác. Tôi giật ḿnh và đắng cuống
cổ. Tôi hoàn toàn không ngờ và cho đến hôm nay, ngày 25 tháng 1 năm
1972, người ta đem xử tôi, tôi cũng không nghĩ là người ta đă xử sự
với tôi như thế. Không phải là công việc của họ đă được tổ chức và
âm mưu một cách bí mật, rất tài nên tôi không biết được. Thực sự lúc
này đây, lúc tôi đang ngồi trong cầu tiêu của K10 này, tôi đă dự
đoán được một đôi điều sẽ xảy đến cho tôi và tôi đă biết người muốn
“lật tẩy phản động, chống Đảng” của tôi là ai. Tôi cho rằng tôi
không có ǵ phải sợ về những điều tôi viết trong nhật kư và trong
những bài thơ của tôi lúc tôi ở miền Bắc. Trong thư gửi cho ông Sự
mà t́nh cờ tôi tưởng là giấy loại đó và lúc này tôi ngồi trong nhà
cầu đang đọc đây, thằng Vấn báo cho ông Sự biết công việc của hắn và
thằng Trác, đại ư thế này: Cả hai đứa đă làm việc với Ban bảo vệ
Đảng và Cục đón tiếp cán bộ B về tôi và hỏi ư kiến ông Sự với tư
cách là thủ trưởng của tôi về cách xử lư trường hợp của tôi như thế
nào. Cứ như lời lẽ trong thư th́ thằng Vấn không nói trắng ra nhưng
cố giành phần lớn công cho hắn về việc “phát hiện tôi là một tên
phản động chống Đảng”. Khoảng năm 1978, 1979 ǵ đó; Vơ Quê có nói
với tôi “ông Trác luôn vỗ ngực cho là ḿnh đă lập được một công lớn
là phát hiện Trần Vàng Sao là một tên phản động”. Vơ Đại Ngẫu kể hồi
1976 hắn gặp thằng Vấn ở Hà Nội, thằng Vấn cũng vỗ ngực giành công
kịp thời tố cáo tôi là một tên phản động chống Đảng.
Tôi ṿ lá thư của thằng Vấn lại như cũ và xé bao thuốc thay vào cho
việc riêng của tôi trong nhà cầu. Tôi bỏ lại lá thư vào chỗ cũ dưới
thềm nhà trên đầu giường của ông Sự. Tôi nghĩ một cách dại rằng như
thế làm như tôi không biết ǵ về âm mưu của thằng Trác, thằng Vấn
với ông Sự. Tiếc là tôi đă không giữ được lá thư đó. Nhưng nếu tôi
có giữ th́ sau này cũng bị tịch thu.
Tôi chào ông Sự rồi về Hà Nội. Gặp Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính T́nh tôi
chỉ nói: Sáng thứ hai tao lên Sơn Tây. Loanh quanh luẩn quẩn trong
Hà Nội với anh em bè bạn, mượn một vài cuốn sách, mua một vài tờ báo
rồi về bệnh viện E2. Tôi hoàn toàn không biết kể từ lúc này tôi đang
bị theo dơi sát nút. Tôi đi đâu, đến nhà ai, gặp ai ở Hà Nội người
ta đều biết.
Sáng thứ hai có xe, tôi lên Sơn Tây. Tôi sống trong một tâm trạng
bồn chồn, lo lắng, không yên. Trước sau tôi cũng bị. Thằng Trác cố
tránh tôi. Tôi hoàn toàn không biết là thời gian tôi ở bệnh viện E2,
va ly của tôi đă bị lục soát. Và thằng Trác chủ mưu trong việc này.
(Lúc tôi về E2 tôi gửi ch́a khóa va ly cho hắn). Vài ngày sau đó tôi
t́m cách đốt mấy tập nhật kư của tôi rất dày, khoảng 4, 5 tập vở một
trăm trang viết hai mặt. Việc đốt tập nhật kư rất khó. Tôi đă đốt và
làm như việc đốt giấy loại. Có khi tôi đốt trước mặt mọi người,
nhưng không ai để ư. Có khi nhân chuyện làm vệ sinh đốt rác, tôi xé
nhỏ các tập vở lấp rác lên rồi đốt. Tôi làm như một kẻ không có việc
chi làm lấy chuyện đốt rác nh́n lửa cháy khói bay cho vui.
Và bây giờ đây tôi đang bị tra tấn trong cái pḥng của căn nhà C
này.
“Từ ngày ra Bắc đến nay anh đă làm ǵ? Hăy khai đi, khai cho thật”.
Bây giờ cái ông tên Lai mặt đỏ láng này không nói “hăy nói” nữa mà
“hăy khai đi”.
Những người chung quanh tôi mặt mày lạnh tanh. Tôi có cảm tưởng họ
bất động. Tôi nói:
“Tôi không biết các anh muốn tôi khai cái ǵ?”
Cái ông Lai đó ngó căm vào tôi:
“Anh khai hết tất cả những việc mà anh đă làm từ ngày ra Bắc đến
nay”.
“Nhưng mà việc ǵ mới khai được chứ? Tại sao tôi lại phải khai? Tôi
không biết các anh muốn ǵ?”
Những người chung quanh tôi động đậy. Có người cầm tách nước lên
uống; có người đổi thế ngồi; có người phịp phịp trong miệng. Ông tên
Lai trề môi dưới, gật gật cái đầu, dim mắt nh́n tôi. Ông ta hừ trong
miệng một tiếng:
“Anh đừng có giả vờ. Anh tưởng anh qua mặt được chúng tôi hả? Chúng
tôi biết hết anh rồi. Anh thành thật đi cho rồi”.
Đến lúc này thành thật mà nói tôi không hiểu họ muốn ǵ ở tôi. Tôi
nói:
“Tôi ra Bắc làm ǵ các anh đều đă biết”.
Có tiếng “hử” và tiếng khịt mũi.
“Này, tôi nói cho anh biết. Anh không giấu được chúng tôi đâu. Tất
cả những việc làm của anh chúng tôi đă biết và có đầy đủ tài liệu
làm bằng cớ. Anh thành khẩn sẽ được khoan hồng”. Cũng cái ông tên
Lai đó nói.
Đă đến nước này, tôi bực lắm rồi:
“Tôi không hiểu các anh muốn tôi nói ǵ. Tôi ra Bắc nằm ở E2, lên E1
và bây giờ ở K65. Những việc đó các anh đă biết rồi”.
“Anh ngoan cố, không chịu thành khẩn”.
Ông Lai đó hất hàm cho một người trong bọn. Ông này khoảng dưới bốn
mươi tuổi. Ông ta thủng thẳng hỏi tôi:
“Anh Đính, chúng tôi gặp anh hôm nay là tạo cho anh một cơ hội để
anh sớm thức tỉnh, đừng đi sâu thêm nữa vào con đường tội lỗi của
anh. Anh nên thành thật khai hết những việc làm của anh”.
Ông ta nghỉ một lát, rồi nói tiếp:
“Khi ra Bắc, ai giao nhiệm vụ cho anh? Nhiệm vụ đó là nhiệm vụ ǵ?
Anh đă gặp ai, ở đâu, bao giờ? Anh đă tổ chức họ như thế nào? Công
việc của anh hiện nay đă tiến hành đến đâu? Anh phải nói thật, nói
hết, không được giấu giếm. Sinh mạng của anh là do nơi sự thành khẩn
của anh quyết định đó”.
Đợi cho ông này nói xong, một ông khác một tay dựa lên thành ghế,
một tay đặt trên bàn, nghiêng người về phía tôi, nó thêm vào:
“Chúng tôi biết hết những việc anh làm, nhưng chúng tôi muốn tự anh
nói ra hết. V́ chỉ có như thế, anh mới hưởng được lượng khoan hồng
của Đảng”.
A, th́ ra như thế. Bây giờ th́ tôi hiểu ra rồi, họ nói tôi là CIA.
Như thế tôi chẳng cần ǵ phải đối phó ǵ với họ về điều này nữa. Tôi
dựa ngửa người ra và hút thuốc. Thái độ của tôi làm cho họ bực tức.
Tôi nói:
“Tôi đau dạ dày và bị thương. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa
bệnh”.
Ông tên Lai đó chồm người ra phía trước, cùi tay chống lên bàn, rung
rung ngón tay trỏ chỉ vào tôi, lần này ông ta nói to, dằn từng tiếng
một:
“Đến lúc này mà anh vẫn c̣n ngoan cố. Được, chúng tôi có cách để cho
anh phải khai thật, nhưng chúng tôi vẫn muốn chính anh thành thật
khai báo để cho anh có cơ hội được hưởng khoan hồng của Đảng. Anh
nghe chưa?”
“Tôi có ǵ mà ngoan cố. Tôi được Thành ủy Huế cho ra Bắc chữa bệnh.
Tôi có làm ǵ đâu mà các anh bảo tôi phải khai báo”.
“Thôi được. Anh không nói, nhưng rồi anh cũng phải nói”.
Cái ông độ dưới bốn mươi tuổi mở cặp ra, cái cặp da rất to màu đen,
loại cặp đựng sách vở của học tṛ (loại cặp bấy giờ khó thấy có ở
miền Bắc). Bây giờ tôi mới để ư người nào trong bọn họ cũng có cặp
xách riêng. Một hai người có cặp to, c̣n phần đông là xách. Ông này
lấy trong cặp ra một cái cặp b́a cứng dày to đựng toàn giấy. Ông ta
lật lật giấy tờ. Trong lúc đó, ông tên Lai vẫn cái giọng dữ tợn hỏi
tôi:
“Anh đă viết ǵ trong nhật kư?”
Hỏi chi lạ. Tôi nói:
“Tôi không thể nhớ hết được”.
“Được rồi, anh phải nhớ”.
Cái ông dưới bốn mươi tuổi đó để hai tay lên cặp giấy mở ra trước
mặt, nói:
“Anh Đính, tất nhiên đă gọi anh đến đây để làm việc, chúng tôi phải
có đầy đủ hồ sơ và bằng chứng về anh. Anh đừng tưởng là tôi nói thế
để dọa anh đâu, cũng không phải nói thế để lừa anh. Chúng tôi chỉ
muốn cứu anh. Một người có học như anh tôi chắc anh hiểu được những
hậu quả của việc làm của ḿnh lâu nay”.
Tôi uống nước và ngó ra ngoài cửa sổ. Trời khô và lạnh. Không khí
bắt đầu căng thẳng. Trên mặt của họ đă lộ vẻ căm tức. Họ không c̣n
như bất động nữa. Tiếng giày dép kéo trên sàn nhà; tiếng áo quần xát
trên ghế; chân ghế đụng chân bàn. Bọn họ xoay người, nghiêng, ngửa,
đổi thế ngồi, chống tay lên cằm, cắn môi, cắn ngón tay, đẩy gương
sát vào mắt, đẩy tách nước ra xa, bẻ ngón tay.
Ông tên Lai, chắc ông ta là trưởng đoàn của đoàn người tra khảo tôi,
nói, nói nhanh:
“Tôi biết hiện nay anh đang nghĩ ǵ về chúng tôi. Tôi biết những ǵ
đang chứa trong đầu óc của anh. Tôi nói thẳng anh là một tên phản
động, chống Đảng. Anh căm thù chúng tôi, căm thù chủ nghĩa xă hội,
căm thù chế độ này. Anh đang âm mưu lật đổ chế độ này. Có phải chính
anh đă kêu gọi biểu t́nh, viết báo chữ to lật đổ chế độ này hay
không? Anh sợ? Anh chối à? Nói đi, nói đi, có phải không?”
Ông ta chồm người ra trước dằn giọng:
“Đây, đây này, anh đ̣i bắn, đ̣i treo cổ tất cả bọn chúng nó; đă đến
lúc phải biểu t́nh, viết báo chữ to tố cáo tội ác của chúng nó”.
Ông ta dừng lại, bỏ kính xuống bàn nghe cạch:
“Có phải anh đă viết trong nhật kư như thế không?”
“Tôi không nhớ”.
“Anh viết mà anh lại không nhớ à?”
“Làm sao tôi nhớ hết những ǵ tôi viết”.
Cái ông trẻ dưới bốn mươi tuổi đứng dậy, xoay người ra phía sau lấy
cái cặp da để đứng dưới sàn nhà. Cái cặp đă mở sẵn. Ông ta xây lưng
về phía tôi. Ông rút ra một tờ giấy đưa ra trước mặt tôi:
“Cái ǵ đây? Có phải chữ của anh không?”
“Phải?”
Đó là bức ảnh chụp một trang nhật kư của tôi, khổ bằng tờ giấy kẻ
ngang. Đến lúc này tôi mới biết là toàn bộ nhật kư của tôi đă bị
chụp ảnh trong thời gian tôi về bệnh viện E2 để kiểm tra sức khỏe,
và bây giờ tôi mới biết việc tôi đi E2 kiểm tra sức khỏe là một sự
xếp đặt của Ban Thống nhất Trung ương, Cục đón tiếp cán bộ B và Cục
78.
Ông Lai nói:
“Anh hết chối chưa?”
Mọi người ở đây đều đă biết trước sự việc sẽ diễn tiến ra sao rồi.
Tối hôm qua họ đă họp với nhau bàn kế hoạch.
“Tại sao anh lại đ̣i bắn, đ̣i treo cổ? Bắn ai, treo cổ ai? Nói đi!”
Tôi nói:
“Tôi đ̣i bắn tất cả những kẻ nào, người nào đă ăn đường, sữa, tă lót
của trẻ con, ăn ḥm, vải liệm của người chết, những kẻ đă đẩy con
dân vào chiến trường c̣n con cháu họ th́ qua Liên Xô, Bulgari,
Hungari...”
“Anh đ̣i bắn cả Trung ương Đảng kia mà”.
“Nếu trong Trung ương Đảng, trong Chính phủ có người nào đă ăn như
thế, theo tôi, đều đem bắn được hết”.
“Anh lại c̣n kêu gọi biểu t́nh?”
“Tôi đâu có kêu gọi ai. Tôi nói là đă đến lúc phải làm như thế”.
“V́ sao lại viết báo chữ to?”
“Viết báo chữ to để mọi người đều biết”.
“Mọi người là ai?”
“Nhân dân”.
“Nhân dân, hừ”, một ông chỉ vào mặt tôi, “nhân dân! Anh làm ǵ có
nhân dân. Nhân dân theo Đảng làm cách mạng, đổ xương, đổ máu để có
được như ngày nay. Nhân dân của anh là nhân dân kiểu Mỹ Ngụy. Anh là
kẻ thù của nhân dân th́ có”.
Giọng ông ta mỗi lúc một to, mỗi lúc mỗi gấp.
“Anh là một tên gian dối. Anh khai lư lịch không thật. Anh bảo anh
thuộc tầng lớp dân nghèo thành thị. Anh tưởng anh qua mặt được tổ
chức à? Dân nghèo thành thị dưới chế độ Mỹ Ngụy mà học hành được như
anh à, mà lại lên được đại học như anh à? Không phải là tư sản th́
gia đ́nh anh cũng thuộc tầng lớp tay sai Mỹ Ngụy. Đúng là Mỹ Ngụy đă
đào tạo anh không uổng. Anh chui rúc vào tổ chức cách mạng cũng khá
sâu, anh Đính”.
Ông ta dừng lại. Một vài người trong đám người này gật gật đầu tán
thưởng ư kiến của ông ta. Một vài người ghé đầu vào nhau to nhỏ. Ông
ta nói tiếp vừa nói vừa nh́n xuống cuốn sổ:
“Theo tôi, tất cả những tư tưởng phản động của anh trong nhật kư,
trong thơ không phải chỉ là lẻ tẻ, ngây thơ, không phải là do nhận
thức bị hạn chế. Tất cả đều có hệ thống, đều nằm trong một hệ thống,
từ văn chương đến triết học, chế độ xă hội chủ nghĩa, Quốc hội,
chuyên chính vô sản, sự lănh đạo của Đảng, các tổ chức quần chúng,
hạn chế sinh đẻ, sinh hoạt xă hội, chiến tranh, các đồng chí lănh
tụ, thậm chí cái áo, cái quần, lon sữa miếng đường, rác rưởi đều có
trong nhật kư của anh, đều bị anh xuyên tạc, nói xấu. Anh xem cuộc
kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta hiện nay là máu, là chết chóc.
Anh không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh xâm
lược của bọn đế quốc. Anh lên án tất cả mọi cuộc chiến tranh, cho
chiến tranh là ghê tởm”.
Cái ông dưới 40 tuổi lại ch́a ra một bức ảnh:
“Có phải như thế không?”
Đó là bức ảnh chụp một trang nhật kư của tôi, trong đó có đoạn tôi
nói về chiến tranh. Tôi không nhớ nguyên văn, đại ư tôi cho rằng tất
cả mọi cuộc chiến tranh đều là thảm họa, đều là máu và xác chết. Tôi
ghê tởm và sợ chiến tranh. H́nh như tôi có dẫn lời của một người nào
đó nói về trận đánh ở Nam Lào: “Đó là một chiến thắng vĩ đại, nhưng
hết sức đau ḷng, v́ có quá nhiều người chết mà đều là người Việt
Nam”.
“Vậy là anh đă không phân biệt địch và ta, tức là anh đứng về phía
kẻ thù. Anh ghê tởm cuộc chiến tranh này, tức là anh chấp nhận cuộc
chiến tranh xâm lược, anh cho đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là chính
nghĩa”.
Một ông khoảng 57, 58 tuổi mặc áo đại cán màu nâu, ngồi đối diện với
tôi ở cuối hai cái bàn đâu lại, từ năy giờ không nói, bây giờ vươn
hai tay ra trước và nh́n vào xấp giấy để trên bàn, nói:
“Đây này, anh viết bằng tiếng Pháp, đại ư: ‘Chiến tranh là thế đấy
con hăy nh́n và nhớ lấy, vâng, chiến tranh là thế đấy, là chết chóc,
hận thù, hủy diệt, là làm cho con người quên tất cả những t́nh cảm
nhân loại’. Hừ, nhân loại, nhân dân! Nhân loại, nhân dân của anh là
nhân loại, nhân dân của bọn tư sản, đế quốc. Chủ nghĩa của bọn thực
dân đă làm cho anh trở nên ngu đần”.
Tôi nhớ tôi có ghi lại trong nhật kư lần tôi, Nguyễn Hữu Ngô, Hồ
Tính T́nh đi thăm ông Nguyễn Đóa, ông Tôn Thất Dương Tiềm và bà
Nguyễn Đ́nh Chi ở phố Nguyễn Du, Hà Nội. Lúc đó những người này ở
trong Mặt trận Liên minh thành phố Huế ra Hà Nội cư trú. Ông Đóa là
thầy dạy Pháp văn, ông Tiềm là thầy dạy quốc văn của tôi năm đệ tứ ở
trường Bồ Đề Huế. Tôi nói với thầy Đóa: “Thưa thầy, con nhớ măi câu
mà thầy dạy bọn con năm học đệ tứ ở Bồ Đề”. Tôi đọc câu nói về chiến
tranh đó bằng tiếng Pháp. Thầy Đóa xua tay: “Thôi, thôi.....”. Tôi
biết lúc đó, trong hoàn cảnh đó thầy ngại.
Cái ông trẻ dưới 40 này (thôi cứ tạm gọi ông ta tên Thanh) nói tiếp
theo liền:
“Rơ ràng đây anh Đính này. Anh viết: ‘Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù,
tôi tự do và trở thành thi sĩ’.”
Ông ta đọc thêm một số câu trích trong bài “Những con đường đă đi
qua và những con đường sẽ đi tới” của tôi viết khoảng đầu năm 1968
lúc c̣n ở trong rừng, trong đó có những câu nói về những bàn tay
rướm máu v́ kéo thép gai (tôi không nhớ rơ nguyên văn). H́nh như ông
ta có đọc câu: “hàng cờ bay trên đống thịt người” th́ phải.
Ông mặc áo đại cán màu nâu giải thích thêm:
“Kẻ thù? Hừ! Anh đă để lộ rơ con người thật của anh rồi. Kẻ thù ở
đây, thưa các đồng chí, là kẻ thù của anh ta, là cách mạng, là chúng
ta ngồi ở đây. Anh ta đâm vào cách mạng, vào Đảng để anh được tự do
và trở thành nhà thơ. Kinh thật! C̣n những người kéo thép gai tay
rướm máu, đó là anh muốn ám chỉ các chiến sĩ giải phóng phải sống
cuộc sống đọa đày... chớ ǵ nữa”.
Tôi không căi ǵ thêm mệt. Khoảng tháng 11-1968, tôi có làm bài thơ
tưởng niệm Trần Quang Long (hy sinh tháng 10-1968 tại chiến trường
Tây Ninh) và dán trên tờ báo tường của Chi đoàn Thanh niên thuộc cơ
quan Thanh vận Thành ủy Huế (C90). Tôi nhớ mấy câu của Trần Quang
Long trong bài “Thưa mẹ trái tim”:
Con sẽ vót nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
.........
Và tôi viết:
Đâm mũi chông vào ngực kẻ thù
tôi tự do
và trở thành thi sĩ
Tôi chỉ nói:
“Chỉ có ta mới dùng chông chứ địch không dùng chông. C̣n những bàn
tay kéo thép gai rướm máu là tôi nói đến những người sống trong vùng
địch bị bắt đi xây đồn đắp lũy”.
Cái ông 57, 58 tuổi mặc dại cán màu nâu, xoay sang hỏi tôi:
“Trong nhật kư anh có viết mấy chữ tắt C. C., nghĩa là ǵ?”
“Comité Central”.
“V́ sao anh lại viết tắt mà không viết thẳng ra là Trung ương Đảng?”
“Đó là thói quen ghi chép của tôi. Tôi viết cho tôi”.
“Anh cố ư che mắt những người nào đó t́nh cờ đọc nhật kư của anh chứ
ǵ nữa? Đây, anh viết...”
Ông ta ch́a cho tôi một tấm ảnh khác.
“Một câu tiếng Pháp có nghĩa như thế này: “Cách mạng cần lao muôn
năm!” Anh có giấu ư đồ của anh ở đâu cho được. Anh vẫn nuôi mộng Bắc
tiến của bọn Cần lao nhân vị Ngô Đ́nh Diệm”.
Tôi cấm bức ảnh đọc và nói:
“Không phải như thế. Tôi viết thế này: “Vive la révolution
prolétarienne!”, nghĩa là “cách mạng vô sản muôn năm!”. Đó không
phải tôi nói, câu đó là của Lenine”.
Tôi biết đây là một sự cố t́nh xuyên tạc của ông ta. Ông ta có lẽ là
người duy nhất trong đoàn khảo tra tôi biết tiếng Pháp. Ông ta là
người tra vấn tôi về những đoạn ghi chép, trích dẫn của tôi bằng
tiếng Pháp. Nhưng từ đó, người ta vẫn cứ buộc tôi là một tên
CIA-Cần-lao-nhân-vị-tay-sai-Mỹ-Ngụy, “muốn phục hồi một chế độ đă
từng lê máy chém khắp miền Nam sát hại nhân dân, tiêu diệt cách
mạng, một chế độ mà ngay nhân dân miền Nam đă đạp đổ từ năm 1963”.
Ông này nói tiếp, ông coi như không có những lời của tôi nói vừa
rồi.
“Cho nên tôi nói thẳng cho anh biết rằng trong máu anh đă có sẵn máu
phản động chống Cộng rồi. Những tư tưởng suy nghĩ như thế sẽ dẫn anh
đến hành động chống đối, làm loạn”.
Rồi ông ta chuyển sang vấn đề khác:
“Trường Nguyễn Ái Quốc là một trường Đảng nổi tiếng khắp thế giới mà
anh cũng không trừ ra. Anh cho trường Nguyễn Ái Quốc chỉ đào tạo
những mẫu người trung thành với chế độ, với Đảng mà không có đầu óc
suy nghĩ độc lập, thậm chí anh c̣n nói là có những người mới học có
lớp bốn trên danh nghĩa, chữ viết c̣n sai chính tả mà cũng học lớp
trung cấp, cao cấp Nguyễn Ái Quốc”.
Trong nhật kư tôi có ghi lại lần Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính T́nh và tôi
gặp ông Phạm Như Cương với ông Tịnh và một bà nào đó (h́nh như tên
Quỳ th́ phải) tại Viện Triết học ở Hà Nội. Trong câu chuyện tôi có
nói đại ư: trường Nguyễn Ái Quốc đă đào tạo được những cán bộ trung
thành với đường lối và chủ trương của Đảng, nhưng không đào tạo được
những con người có đầu óc phản tỉnh, suy nghĩ độc lập, nhất là về
mặt tư tưởng triết học. H́nh như ít có người (hay là không có người)
sau khi học xong có thể viết được một bài ngắn về triết học
Mác-Lênin, một vài ḍng về bản tuyên ngôn Đảng Cộng sản...
Nguyễn Hữu Ngô, Hồ Tính T́nh nói: “Những thứ mà các anh gọi là triết
học đă dạy ở các trường Đảng chỉ là một thứ triết học hành chính, mà
hết chữ cho nên phải dùng hai chữ triết học đó...”.
Tôi có nói: “Theo tôi, tinh thần triết học trước hết là đối thoại.
Đối với triết học Mác-Lênin th́ không có đối thoại. V́ chủ nghĩa
Mác-Lênin là vô địch, là bách chiến bách thắng, là muôn năm. Đối
thoại ở đây là vô ích mà c̣n bị... tù nữa là khác. Bởi v́ các anh
hăy cất khẩu súng trong hộc bàn đi khi nói chuyện triết học, văn
chương với người khác... Đối với các anh, chủ nghĩa Mác-Lênin là
đỉnh cao tuyệt vời nhất của nhân loại, và xưa nay, chỉ có tư tưởng,
triết học Mác-Lênin là triết học chân chính, duy nhất vĩ đại. Thậm
chí, trong các bài giảng, sách vở của các anh, các anh đă khinh bỉ
Hegel. Các anh cố t́m xem trong nhân loại xưa nay, có ai có tư tưởng
duy vật hay không. Và nếu có ai, na ná như thế, hoặc các anh tự gán
ép na ná như thế, và kết luận: một thứ chủ nghĩa duy vật ngây thơ,
tự phát... và những người đó, các anh cho là... tiến bộ... c̣n toàn
thể là duy tâm phản động...”.
Tôi nói, thằng Ngô nói, thằng T́nh nói... Ông Phạm Như Cương (tôi
không nhớ lúc đó có phải ông ta là Viện trưởng Viện triết học hay
không) vẫn để tay trên cuốn sách mở ra làm như đang đọc nữa chừng:
Les Problèmes de la dialectique dans le Capital de Karl Marx của
Rosenthal (bản dịch từ tiếng Nga, cuốn này đă có bản dịch tiếng
Việt). Sau này khi nghe tin tôi là một tên phản động, ông ta nói:
“CIA giỏi thật, cài anh ta vào sâu đến như thế”.
Ông tên Lai nói tiếp:
“Đối với anh ta chỉ có triết học duy tâm phản động của bọn đế quốc
tư bản mới là triết học. Đúng anh ta là một tên phản động nguy hiểm.
Đây, nhật kư của anh ta đây. Anh đă nói ǵ về Quốc hội, về Đảng...
Anh ta tỏ ra khinh bỉ giới tri thức miền Bắc, anh cho đó chỉ là
những kẻ nói thuội, Đảng dạy ǵ nói nấy, không có đầu óc suy nghĩ
độc lập, sợ. Trí thức, học giả được phân sách ǵ, tài liệu ǵ để đọc
là phân theo tiêu chuẩn thịt, đường, sữa. Người này tiêu chuẩn một
tháng một lạng thịt th́ chỉ được đọc sách này, người kia năm lạng
một cân th́ đọc sách này. Anh nói ǵ mà vô học thế. Nhưng người viết
phê b́nh văn học... th́ chỉ biết trích dẫn Nghị quyết, phê b́nh văn
học miền Nam th́ cái ǵ cũng Mỹ Ngụy hết. Đối với anh ta chỉ có bọn
Nhân văn-Giai phẩm phản động chống Đảng mới là nhà văn thực sự”.
Tôi nói:
“Tôi nói điều này cho rơ. C̣n chữ viết của tôi đó. Trong nhật kư tôi
có nhắc lại một lần trong cuộc nói chuyện với bạn bè ở Huế khoảng
1961, 1962 ǵ đó, một người bạn tôi tên là Lê Văn Mỹ (tôi cầm bức
ảnh chụp những trang nhật kư của tôi đưa ra trước mặt họ), có nói:
“Ở miền Bắc của mi chỉ có nhóm Nhân văn-Giai phẩm là có tư cách của
người cầm bút” (Đại ư như thế tôi không nhớ rơ nguyên văn)”.
Ông Lai không để cho tôi nói nữa, ông ta dằn dọng:
“C̣n văn chương chữ nghĩa của anh th́ thế nào?”
Tôi nói cho anh biết: Mỹ Ngụy đă nhồi nhét vào đầu óc anh những tư
tưởng phản động, chống đối. Nó làm cho anh trở nên mù quáng, phản
động. Bác Hồ, giọng ông ta chậm lại và đằm thắm hết gắt gỏng, Bác Hồ
là một vị lănh tụ của nhân dân ta, của Đảng ta, cả thế giới đều kính
phục, ngay cả kẻ thù, bọn Mỹ Ngụy cũng phải kính phục. Thế mà anh,
anh, ông ta la to lên, chính anh đă nói xấu Bác. Đây này, đây này,
thơ anh đây này.
Ông dưới 40 tuổi tên Thanh cầm một tờ giấy lên nói:
“Trong bài “Sân khấu II” anh ta viết :
Một tập sách giấy hồng
Ghi lời thánh
Ông thánh già đă chết
Bác Hồ chứ c̣n ai nữa? Ở một chỗ khác, cũng trong bài này:
A ha tôi là một tên hề
Một tên hề không có râu
Một tên hề không có bánh ḿ mà ăn
Anh ta nói đến Bác Tôn Đức Thắng đấy”.
Quay sang tôi ông ta gắt với vẻ dọa nạt:
“Có phải anh đă viết ra đó không? Anh căm thù chế độ này, Anh nói
xấu Bác Hồ. Anh hết rồi. Bác mà anh cũng nói như thế th́ c̣n ǵ nữa.
Giọng ông này trầm dần lại. H́nh như có một lúc những người xung
quanh tôi xúc động. Có một người Việt Nam đă xúc phạm Bác Hồ. Bác Hồ
không ai được đụng đến, không ai được nói xấu, không ai được nói
khác về Bác những ǵ Đảng đă cho phép. Bác là vĩ đại, nên phải ngợi
ca và chỉ được ngợi ca, mà có ngợi ca cũng chỉ được phép trong khuôn
phép của Đảng.
Chung quanh tôi có những tiếng động lạo xạo, giấy, quần áo, cặp da,
túi xách nhựa, giày dép, chén uống nước, lạo xạo, lạo xạo. Mọi người
đều xúc động và nổi điên v́ tôi đă xúc phạm đến Bác Hồ”.
Tôi nói:
“Tôi làm thơ, c̣n việc hiểu thơ tôi như thế nào đó là quyền của
người đọc. Tôi là tác giả, tôi không nói ǵ thêm (thật ra lúc này
tôi dám nói ǵ). Nhưng không lư, bác Tôn Đức Thắng lại không có bánh
ḿ mà ăn”.
Một người khác lớn tiếng chỉ vào mặt tôi:
“Thế ông thánh già là ai? Anh ám chỉ Hồ chủ tịch chứ ǵ nữa? Hả,
hả”.
Tôi nói:
“Thánh thần Phật th́ nhiều, tôi chưa nghe ai gọi Bác Hồ là thánh cả,
mà chỉ nghe nói Bác Hồ cũng chỉ là một người như mọi người...”
“Ngoan cố! Ngoan cố! Anh đừng lấp lửng vô ích. Chính trong đoạn ghi
chép đây này”. Ông ta ch́a ra cho tôi một bức ảnh. “Anh viết... tên
Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh... Các lănh tụ đáng kính của
Đảng ta, của nhân dân ta mà anh gọi bằng “tên”. Anh phản động thật.
Hăy nói đi bọn địch cài anh vào tổ chức cách mạng với nhiệm vụ ǵ?
Nói đi!”
Tôi đă là kẻ đối địch với họ, họ coi tôi là kẻ thù và ngày mai sẽ là
kẻ tử thù.
Tôi cầm tấm ảnh, nói:
“Tôi viết thế này c̣n đây: “Hễ mỗi lần những nhà nghiên cứu, phê
b́nh văn học lúng túng không t́m ra lối thoát th́ họ lại dẫn ra
những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... và chỉ thị, nghị
quyết của Đảng ra làm bằng cớ và bùa phép. V́ không ai dám căi
lại...”. Chữ tên ở đây có nghĩa là tên tuổi, chứ không phải như các
anh hiểu...”
“Lấp lửng”.
“Có ǵ mà lấp lửng. Tôi viết cho tôi kia mà, có phải viết cho các
anh đọc đâu mà lấp lửng”. Ông tên Lai gầm mặt nh́n tôi:
“Chúng tôi không cần anh phải biện bạch, giải thích ǵ hết. Vô ích.
Tất cả những điều anh viết ra đó đă nói lên hết con người của anh là
thế nào rồi. Điều mà chúng tôi muốn chính anh nói ra là ai đă tổ
chức anh? Từ ngày ra miền Bắc anh đă làm ǵ, liên hệ với ai, công
việc đă tiến hành tới đâu? Anh đừng để chúng tôi dẫn ra bằng cớ”.
Lúc này tinh thần tôi căng thẳng. Đă có dấu hiệu của những cơn dạ
dày hành hạ. Nhưng tôi không sợ ǵ hết, thành thật mà nói như vậy.
Cái thất sách của họ là nói tôi là CIA.
Ông Lai tiếp, giọng khi không có dịu bớt và chậm lại:
“Anh Đính, anh có thương mẹ anh không?”
Mới nghe nói như thế là tôi đă lộn ruột lên rồi. Đồ mất dạy.
“Nếu anh thương mẹ anh, chắc anh nghĩ rằng sẽ có ngày anh về gặp lại
mẹ anh. Anh hăy khai thật đi, khai hết đi, chỉ có như thế anh mới hy
vọng có cơ hội gặp lại mẹ anh”.
Thằng Trác, cả thằng Vấn nữa, là những thằng bẩn thỉu, vô lương, mất
dạy. Tôi thường nói chuyện với chúng về mẹ tôi, và chính trong nhật
kư tôi viết rất nhiều về mẹ tôi. Đối với tôi, trên đời này tôi chỉ
c̣n có mẹ tôi. Cả hai thằng này đă mách nước cho bọn này cách tra
khảo tôi. Tôi chợt nghĩ, nếu lúc này mẹ tôi ở miền Bắc, chắc bọn
người này sẽ bảo tôi: “Hăy khai thật đi, không thôi tao bắn mẹ mày”.
Những người đang ngồi bao vây tôi ở đây không thể hiểu câu hỏi: “Anh
có thương mẹ anh không?” đă làm cho tôi khinh bỉ và ghê tởm họ, và
đă làm cho tôi b́nh tĩnh hơn, mặc dù lúc đó cái dạ dày của tôi đang
lên cơn. Hạ sách tàn tệ đó của họ đă đặt tôi vào thế đối thủ, kẻ thù
với họ.
“Thế các anh có thương cha mẹ của các anh không mà các anh lại hỏi
tôi câu đó?”
Tôi nh́n từng mặt người một, không phải để ghi nhớ v́ cho đến bây
giờ tôi có nhớ ai đâu, mà, đối với tôi tất cả bọn họ cũng chỉ là
một; cũng không phải để ḍ xem họ sẽ xử tôi như thế nào, v́ làm sao
tôi biết được những âm mưu của họ. Tôi nh́n họ để nói với họ rằng
đến nước này các người muốn làm chi tôi th́ làm, tôi trơ ra rồi. Họ
tức tối. Họ cúi đầu vào nhau th́ thầm. Một hai người lánh ra ngoài
hội ư, rồi đi vào gật gật cái đầu. Những cảnh đó cứ lập đi lập lại
măi suốt thời gian họ tra khảo tôi.
Tôi không c̣n nhớ rơ những diễn biến của cuộc khảo tra này nữa. Hai
mươi năm rồi. Đây là một cuộc khảo tra, ở đây tôi không được xem như
một người đối thoại. Kể cả tư cách một bị cáo trong một phiên ṭa,
tôi cũng không có. Tôi là kẻ phản động thù địch, một tên chống Đảng,
chống chế độ, xúc phạm lănh tụ. Tất cả mọi người đều có quyền xỉ vả
tôi và coi tôi như một con chó ghẻ tởm lợm. Một ông ở trong cuộc
khảo tra này đă nói giữa chừng cuộc: “Anh đừng tưởng anh ngồi đây
với tư cách của người tham dự một buổi họp. Anh phải hiểu như thế để
ăn nói cho đàng hoàng”.
Tôi nhớ h́nh như đă gần 11 giờ 30. Ông Lai đứng dậy đi ra cửa, chỉ
tay vào mặt tôi nói:
“Bây giờ anh về pḥng, mang hết lên đây tất cả va ly, quần áo, sách
vở, tư trang, tất cả những ǵ mà anh có, mang lên đây hết. Nhờ đồng
chí (......) và đồng chí (.....) theo anh Đính kiểm tra”.
Tôi xuống thang gác, mệt mỏi, chán nản. Dạ dày tôi lên từng cơn. Đă
đến giờ ăn, nhiều người đang cầm chén đũa đi xuống nhà ăn. Người ta
nh́n tôi. Tôi đoán họ đă biết hết những ǵ đă xảy ra trên gác khi
nhà C. Những con mắt họ nh́n tôi không b́nh thường nữa.
Tôi sắp xếp đồ đạc vào va ly. Sách tôi bỏ vào cái thùng các-tông.
Hai ông đi theo kiểm tra lật hết mùng mền, giường chiếu, rũ từng cái
xem tôi có giấu tài liệu ǵ không. Một vài tờ giấy loại lót trên vạt
giường, mảnh báo cũ... họ đều lấy hết. Bức chân dung Karl Marx tôi
vẽ trên giấy khổ rộng bằng mực Cửu Long xanh đen họ cũng giật xuống.
Họ mở cả cánh cửa ra vào giữa hai pḥng mở khép sát tường, lục mắt
vào. Tôi mang sách vở đồ đạc đi. Tôi phải đi hai chuyến, qua về, hai
ông đó cứ lẽo đẽo theo. Giữa đường có rớt một vài thứ lặt vặt, tôi
để va ly xuống, lượm lên.
Tôi bước vào pḥng, lúc này mọi người ngồi, đứng hút thuốc, uống
nước nói chuyện cười vui. Ông Lai ra lệnh cho tôi:
“Anh để tất cả ở đây”.
Tôi để mọi thứ lên bàn.
“Anh ngồi xuống đó”.
Tôi lấy thuốc ra hút. Lúc để đồ đạc lên bàn, tôi có mở va ly ra lấy
mấy gói Tam Đảo bỏ vào túi áo bông. Có một ông khi thấy tôi bật nắp
va ly, định sấn lại, nhưng thấy tôi lấy thuốc, ông bỏ hai tay lên
thành ghế, đứng lại.
Ông Lai hỏi:
“Anh mang tất cả lên đây rồi chứ?”
“Vâng”.
Một trong hai cái ông theo kiểm tra tôi nói:
“Hết cả rồi”.
Tôi ngồi xuống, uống một hớp nước. Mọi người đă ngồi vào chỗ của
ḿnh. Một hai người c̣n đứng ở ngoài. Lúc đó thằng Nguyễn Viết Trác
nhăn mặt, mệt nhọc xách va ly bước vào. Hắn ngó tôi vẻ thiểu năo.
Con c... họ. Tôi chửi trong bụng. Bọn chúng giả vờ làm như thằng
Trác chơi với tôi nên bị liên lụy. Hắn cũng bị lục soát va li. Nhưng
suốt trong thời gian tôi bị khảo tra không bao giờ người ta hỏi tôi
về hắn. Chính hắn đă nhúng tay vào việc tổ chức cuộc tra khảo tôi
hôm nay. Hắn có công. Lúc tôi quay ra ngoài hành lang lượm một vài
cuốn sách th́ gặp hắn, mặt mày trân đi, xách va li một cách nặng
nhọc đi tới. Hắn ngó tôi, nói:
“Mi làm khổ tao”.
Mả cha cái thằng con nhà không ai răn dạy. Cái mặt hắn nhăn nhó v́
giả đ̣ như hắn thường giả đ̣ lên cơn suyễn. Không có một vẻ xúc động
hay thay đổi nào trên cái mặt của hắn hết.
Tôi có nói với hắn:
“Mi cố sống, sau này gặp nhau”.
Hắn đặt va li xuống sàn nhà. Ông Lai nói:
“Thôi cho anh Trác về”.
Hắn bực nhọc như cố lê bước đi ra.
Thằng Trác quen tôi là t́nh cờ. Hắn đến chơi với thằng Lê Ngọc Từ
nằm cùng pḥng với tôi ở khoa ngoại B1 bệnh viện E2 khoảng giữa năm
1970. Lúc đó hắn cũng đang chữa bệnh và nằm ở khoa khác. Hắn mượn
tôi sách báo. Sau đó hắn cho tôi mượn quyển Larousse. Tôi nói chuyện
với hắn nhiều lần về chủ nghĩa Marx-Lénine, về Đảng, về nền kinh tế
ở miền Bắc, về t́nh trạng xă hội... Tôi có đọc cho hắn nghe nhiều
đoạn trong nhật kư của tôi và đưa thơ tôi cho hắn đọc. Lúc gặp hắn ở
bệnh viện E1 (Thạch Thất - Hà Tây) tôi đă đọc bản đề cương của tôi
về nền chuyên chính vô sản và sự lănh đạo của Đảng. Khi nói chuyện,
hắn cứ ngó quanh quất làm như có ai lảng vảng đâu đó. Hắn nói: “Nói
nhỏ nhỏ a”. Suốt thời gian nói chuyện, tôi nói nhiều hơn hắn nói,
hắn không tỏ vẻ phản đối hoặc đồng ư những suy nghĩ của tôi. Hắn chỉ
ầm ừ, miệng ngậm khít, mắt mở trừng. Hắn biết tư tưởng và suy nghĩ
của tôi. Hắn báo cáo Ban bảo vệ Đảng biết. Hắn cùng Ban bảo vệ Đảng
để mưu sắp lớp lục va ly tôi và chụp ảnh nhật kư của tôi. Hắn gặp
thằng Trần Nguyên Vấn lúc đó mới ra Bắc ở khu tập thể số 2 Lê Phụng
Hiểu, Hà Nội, toa rập với nhau bàn với ông Sự cách trị tôi.
Và bây giờ th́ hắn giả bộ đau khổ, v́ chơi với tôi mà phải liên lụy.
Hắn giả vờ sợ sệt một cách tội nghiệp, thảm năo.
Đă quá giờ ăn trưa, người ta cho tôi về.
Tôi về pḥng. Mọi người đă đi ăn cơm. Một bát miến và một hộp sữa đă
để sẵn trên bàn. Cô Chanh y tá bước vào nói:
“Anh Đính, anh ăn ở đây, đừng xuống nhà ăn nữa”.
Tôi có báo ăn miến đâu. Người ta biết tôi bị căng thẳng và sẽ bị dạ
dày hành nên cho tôi ăn miến và sữa để có sức tiếp tục chịu đựng
cuộc tra vấn.
Ăn xong tôi nằm nghỉ. Những người trong pḥng đă về; cả pḥng trong
và pḥng ngoài có khoảng sáu bảy người. Tôi ở pḥng trong, ba người.
Người ta vẫn nói chuyện, nhưng khác với mọi ngày không ồn ào. Tôi
biết phận ḿnh, tôi nằm. Chỉ có ông già Tuyết, người Quảng Ngăi cùng
pḥng với tôi, hỏi tôi:
“Không đi ăn hả mày?”
“Dạ ăn rồi...”
Ông nh́n lên bàn rồi “à” một tiếng.
Không biết chúng c̣n giở tṛ ǵ nữa với tôi đây. Đầu tôi nóng bừng.
Trời lạnh tanh. Bây giờ mà có một cơn mưa. Một giờ rưỡi chiều, một
ông trong đoàn khảo tra vào báo tôi:
“Anh lên làm việc tiếp”.
Vẫn những người cũ: đầy đủ những ông trong đoàn khảo tra, Bí thư
đảng ủy, bốn Bí thư chi bộ bốn khoa bệnh nhân, chủ tịch hội đồng
bệnh nhân..., Bí thư chi bộ K65, không có mặt ông Điềm, bác sĩ
trưởng K. Người ta cho biết anh Điềm bận chuyên môn không dự được.
Tất cả sách vở, giấy tờ của tôi đă được xếp chồng để trên cái giường
sau lưng những người ngồi đối diện với tôi. Trước mặt ông tên Lai
mặt đỏ láng là những chồng giấy tờ, vở ghi chép của tôi.
“Ta làm việc thôi, các đồng chí ạ”.
Ông Lai nói, rồi nh́n tôi, tiếp:
“Bây giờ vẫn chưa muộn đâu anh Đính ạ. Anh nên nói ra tất cả những
suy nghĩ của anh, những công việc của anh từ ngày ra Bắc, nói hết,
nói thật...”
Tôi biết họ nghi tôi là gián điệp của Mỹ Ngụy cài vào tổ chức cách
mạng để phá hoại, và họ muốn tôi thú nhận điều đó. Họ muốn tôi phải
đầu hàng họ như một tên gián điệp đầu hàng cách mạng. Tôi không c̣n
sợ ǵ nữa. Họ không thể lấy điều này để trấn áp tôi được. Cái đáng
phải sợ là t́m cách che giấu những việc ḿnh làm. Tôi không làm ǵ
hết th́ việc ǵ mà phải t́m cách đối phó. Nhật kư của tôi họ đă chụp
ảnh, sách vở ghi chép, các tập thơ của tôi đó. Tôi không che giấu ǵ
cả. Chắc chắn họ chỉ c̣n một cách là truy bức tôi về mặt tư tưởng.
Ông già mặc đại cán màu nâu chỉ đống sách của tôi nói:
“Anh đọc nhiều đấy. Có lẽ chúng tôi ở đây không ai đọc bằng anh đâu.
Nhưng vô ích anh Đính ạ. Anh đọc để anh xuyên tạc, anh đọc để anh
chống đối”.
Ông dưới 40 tuổi, tạm gọi là tên Thanh, hỏi tôi:
“Anh đă mang tất cả sách vở, tài liệu ghi chép, sổ sách của anh lên
đây rồi chứ? Có c̣n cái ǵ cất giấu ở đâu không?”
“Tất cả của tôi là ở đó”.
“Thế bản đề cương về chuyên chính vô sản của anh đâu?”
“Tôi đốt rồi?”
“Cả nhật kư nữa?”
“Tôi cũng đốt rồi”.
“Tại sao anh đốt?”
“Viết xong không thích th́ đốt hay xé đi là chuyện thường”.
“Anh sợ à?”
Tôi không trả lời câu này.
“Trong bản đề cương đó anh viết ǵ”
“Tôi ghi lại những suy nghĩ của tôi về sự lănh đạo của Đảng và nền
chuyên chính vô sản”.
“Anh nói cụ thể xem!”
“Tôi tŕnh bày hai phần. Phần một, những quan niệm kinh điển của
Lénine và Staline về chuyên chính vô sản và sự lănh đạo của Đảng;
phần hai, mối quan hệ giữa sự lănh đạo của Đảng và nền chuyên chính
vô sản trong thực tế ở miền Bắc. Tôi cho rằng hiện nay ở miền Bắc
mối quan hệ giữa chuyên chính vô sản và sự lănh đạo của Đảng không
đúng như sách vở của Lénine và Staline đă nói. Chỉ có Đảng là trên
hết, là tuyệt đối. Không những Đảng đă nhúng tay quá sâu vào chính
quyền mà Đảng đă lấn áp cả chính quyền. Chỗ nào cũng là Đảng hết cả.
Ở miền Bắc không có chính quyền, không có Nhà nước, chỉ có Đảng. Ông
chủ tịch Hội đồng bệnh nhân cũng là Phó bí thư đảng ủy, ông trưởng
Khối bệnh nhân cũng là Phó bí thư chi bộ hay chi ủy viên. Ông trưởng
K là Bí thư chi bộ hoặc Phó bí thư. Các cơ quan, các tỉnh, trung
ương...”
“Tại sao anh lại bảo ở miền Bắc không có tổ tiên, không có ông bà,
chỉ có Đảng?”
Ông Lai nổi tức:
“Xuyên tạc và phản động như thế là cùng. Các lập luận như thế chỉ có
địch... Anh không hiểu thật hay là cố t́nh xuyên tạc?”
Và ông ta dạy cho tôi một bài về sự lănh đạo của Đảng: Đảng là bộ
phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người lănh đạo và tổ
chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng là vĩ đại, là tuyệt
đối... Trên thế giới, có đảng nào vĩ đại như Đảng ta đâu v.v...” Tôi
nghe quá mệt.
H́nh như họ chỉ nghe thằng Trác nói lại về bản đề cương của tôi nên
tôi đă chỉ nói cho có và tránh hai điểm. Một là nhân dân làm nên
lịch sử, nhưng chỉ có Đảng, đứng đầu là Ban Chấp hành Trung ương,
hiểu và nắm được quy luật của lịch sử. Làm sao một thiểu số người
lại có thể nắm và hiểu được quy luật lịch sử mà lại hiểu đúng và vận
dụng đúng? Hai là, nhân dân đâu có bầu ra Đảng và Ban Chấp hành
Trung ương mà Đảng lại bắt nhân dân phải tuyệt đối trung thành và
tin tưởng Đảng? Tôi cho là quá vô lư.
Một ông nào đó dằn giọng:
“Anh có tin Đảng không? Anh nói đi, nói đi!”
“Lúc này tôi có trả lời thế nào các anh cũng không tin tôi nói thật.
V́ không lư tôi lại dám nói là tôi không tin”.
Ông ta hừ một tiếng.
“Tôi nói cho anh biết. Cuộc họp này chấm dứt sớm hay kéo dài là tùy
theo thái độ của anh. Và tôi cũng nói cho anh rơ là anh ngồi đây
không phải với tư cách như trước nay của anh trong các buổi họp đâu.
Rất may cho anh là chúng tôi đă không để cho anh đi sâu hơn nữa vào
con đường phản động của anh. Chúng tôi muốn cứu anh, muốn anh sớm
tỉnh ngộ. Anh c̣n trẻ. Anh hiểu chưa? Anh nói láo, anh không tin
Đảng. Anh không tin ǵ ở chủ nghĩa xă hội cả. Anh có quan điểm lập
trường của anh, đó là lập trường và quan điểm của bọn tư sản phản
động tay sai của đế quốc Mỹ. Những thứ đó đă có sẵn trong con người
anh, nó có từ lúc anh ở trong vùng địch. Cho nên nói thẳng ra, lập
trường quan điểm của anh là chống cộng”.
Một người khác nói chen vào:
“Chống cộng có hệ thống! Không phải anh ta chỉ chê chế độ miền Bắc,
mà anh chống đối chế độ xă hội chủ nghĩa, anh ta cho là một chế độ
bế môn tỏa cảng, do đó mà chỉ thấy trời bằng cái vung. Trí thức th́
bế môn tỏa cảng, dân chúng th́ cấm làm giàu. Đó không chỉ là luận
điệu tư sản phản động mà chính là của bọn xúi làm loạn”.
Một ông khác chĩa vào:
“Anh cho là miền Bắc không có chủ nghĩa xă hội. Quan hệ xă hội chủ
nghĩa ở miền Bắc chỉ có trong nghị quyết, chỉ thị. C̣n về mặt hiện
thực th́ chỉ là một sự áp đặt, làm lấy được của những người lănh
đạo, của trung ương Đảng”.
“Tôi không thể nhớ hết được...”
“Đây này, cả trang nhật kư và cả trong các ghi chép của anh, đây,
đây này!”
“Không nhớ, th́ đây”. Một ông khác nữa ném một tấm ảnh và quyển vở
ghi chép của tôi đă lật sẵn và có đánh dấu. “Này, anh Đính ngẩng mặt
lên, nh́n đây”. Ông ta ngó tôi qua khoảng trống giữa sống mũi và cặp
kính. Ông ta vừa đọc vừa nói xen vào:
“Anh nói thế này. Những điểm ưu việt của chủ nghĩa xă hội chỉ có
trong sách vở, trong nghị quyết, kinh điển. Chủ nghĩa xă hội chỉ có
trong đầu óc của những người lănh đạo. Miền Bắc không có cái chủ
nghĩa xă hội như sách vở và các nghị quyết đă nói. Cái quan hệ xă
hội chủ nghĩa trong sản xuất cũng như giữa người và người trong xă
hội hiện nay chỉ là một sự áp đặt hoàn toàn không có nội dung hiện
thực. C̣n nếu cái hiện thực xă hội ở miền Bắc hiện nay là xă hội chủ
nghĩa như sách vở đă nói th́ cần phải xem lại cái chủ nghĩa xă hội
đó”.
Ông dừng lại, rồi nói tiếp:
“Này, anh Đính, chính trong nhật kư anh đă nói rằng không có cuộc
kháng chiến chống Mỹ hiện nay th́ xă hội miền Bắc chỉ là một vũng
bùn lộn cứt... Không có đánh nhau với Mỹ th́ cái chủ nghĩa xă hội và
Đảng là tiêu dên rồi. Phải không? Phải không?”
“Phải, tôi có nói”.
Ông Lai:
“Đấy, các đồng chí thấy không, anh ta đang ngồi đây với chúng ta, và
lâu nay ta gọi anh ta là đồng chí và anh ta gọi chúng ta là đồng
chí. Chúng ta sơ hở và thiếu cảnh giác...”
Ông quặt sang hỏi tôi:
“Anh nói là thủ đô Hà Nội có năm nhứt thế giới, là... nhứt trộm
cướp, nhớp nhứt... phải không?”
“Tôi nói Hà Nội có ba nhất: cây xanh nhiều nhất, xe đạp nhiều nhất
và nhớp nhất”.
“Chắc chỉ có Sài G̣n, thủ đô của bọn Mỹ Ngụy của anh mới tốt đẹp chớ
ǵ? Những ǵ phồn vinh giả tạo của Mỹ Ngụy th́ anh cho là tốt đẹp.
Những ǵ ưu việt của chế độ ta th́ anh chê bai đủ điều. Anh chê cả
các nếp sống văn minh của chế độ ta nữa. Anh cho sắp hàng ở miền Bắc
không phải là một nếp sống của người văn minh mà do thiếu thốn. Cái
ǵ cũng sắp hàng, mua gạo sổ, mua thịt cá, bánh ḿ theo tem phiếu,
mua cà phê, bát bún, tô phở... cũng sắp hàng. Rồi, bữa ăn của cán bộ
công nhân viên ở các nhà ăn tập thể tại Hà Nội anh cho là quá tồi
tàn. Anh nghi trong nhật kư: “Con mừng được chiếc áo hoa, nhờ tiền
tiết kiệm mẹ cha để dành”. Anh mở ṿng đơn (trên tấm áp phích ở đầu
thị xă Sơn Tây phía từ Hà Nội vào). Anh viết thêm: đó là chủ nghĩa
xă hội! Hừm, cả nước đang đánh Mỹ. Miền Bắc là hậu phương lớn, miền
Bắc phải chi viện cho miền Nam, người, của cải vật chất... phải thắt
lưng, buộc bụng... chắc anh cũng đă học tập những điều đó chứ? Tại
sao anh cho câu đó là bi đát?”
Tôi làm thinh. Ông ta gơ tay xuống bàn nhắc lại:
“Anh nói đi”.
Tôi nói:
“Một cá nhân th́ không kể, nhưng kêu gọi cả toàn xă hội mà là một xă
hội xă hội chủ nghĩa ưu việt phải như thế, tôi cho là bi đát”.
Chung quanh tôi mọi người đều tức giận, hầm hừ. Có một khoảng im
lặng, chỉ nghe tiếng giấy tờ lạo xạo. C̣n tôi, cái dạ dày lên cơn.
Tôi hút thuốc liên tục. Cái ông mặc đại cán màu nâu chậm răi thuyết
giảng cho tôi một bài triết học về thế nào là hiện tượng, thế nào là
bản chất. Từ đó ông chuyển sang giảng thêm cho tôi hiểu về bản chất
của chế độ ta và bản chất của chế độ địch. Ưu việt và tốt đẹp là bản
chất của chế độ xă hội chủ nghĩa; độc ác, bóc lột, xâm lược là bản
chất của chế độ tư bản. Những cái ǵ chưa hoàn thiện mà tôi thấy
hàng ngày ở miền Bắc chỉ là hiện tượng, có tính nhất thời; c̣n những
ǵ tốt đẹp của bọn tư bản, đó chỉ là cái bề ngoài, cái phồn vinh giả
tạo, cái hiện tượng. Tất cả những cái đó đă che lấp cái bản chất xấu
xa của chủ nghĩa tư bản v.v...
Lúc này nghe những thứ lộn xộn như thế tôi cũng mệt. Đầu óc tôi chỉ
lùng bùng những tiếng bản chất, hiện tượng, chủ nghĩa xă hội, đế
quốc, tư bản, xâm lược, bóc lột, Marx, Lénine, Hồ chủ tịch... lẫn
trong tiếng người lao xao, tiếng sắt thép gỗ chạm nhau lóc cóc, lách
cách... ở xa ngoài thị xă chen vào.. Trước mắt tôi bây giờ là những
cái đầu, những con mắt nh́n chằm hăm tôi. Đầu cúi, ngẩng, lắc lư;
mắt ngó thẳng, ngó xiêng, ngó xéo, mở trừng, mở to, lim dim; có
những con mắt nhắm lại. Tôi hút thuốc, tôi uống nước, nước hơi
nguội. Nước máy lại chảy ộc ộc dưới nhà. Tiếng đàn bà la to, lấy
nước rồi không chịu khóa lại. Khóa sao được. Nhiều lần tôi phải lấy
một cục đá chận lên cái robinet nước mới không chảy. Có hai ba hộ ở
dưới đó, và một hộ ở đằng kia gần pḥng tôi đều lấy nước ở đây. Tôi
nghe tiếng nước chảy ào một cái rồi tắt luôn.
Có tiếng dằng hắng, tiếng nước rót vào b́nh trà.
“Đảng có đối xử ǵ anh khác biệt đâu, mà c̣n ưu đăi anh nữa là đằng
khác. Ra Bắc anh được hưởng mọi tiêu chuẩn mà một cán bộ miền Bắc
không thể có được. Anh bất măn cái ǵ? Hay là.... Hay là... à...
à... một thanh niên ở vùng địch tham gia cách mạng lâu ngày... như
anh... mà không được kết nạp Đảng cho nên anh bất măn phải không?”
Tôi không trả lời.
Khoảng cuối năm 1964 hay đầu 1965, tôi nhận được một lá thư theo
đường dây bí mật, từ trên rừng gửi về Huế. Đó là quyết định của
Thành ủy Huế kết nạp Nguyễn Thiết, Nguyễn Đ́nh Hương và tôi vào
đảng, viết dưới h́nh thức một bức thư do đồng chí Hà, tức Lén, Bí
thư Thành ủy kư. Anh Đàm, tức Văn Nhạc, được cử làm Bí thư chi bộ dự
bị. Nguyễn Thiết xin hoăn việc kết nạp ḿnh một thời gian, nhưng
không nói rơ lư do. Thiết nói với tôi: “Vào Đảng có những ràng buộc
về mặt kỷ luật rất mệt. Tao thích như thế này tự do hơn”. Nguyễn
Thiết lúc nhỏ đă học trường Huỳnh Thúc Kháng ở Nghệ An hồi kháng
chiến chống Pháp. Năm 1954, theo lời Thiết kể, Thiết theo đoàn của
Ủy hội Quốc tế bảo vệ đ́nh chiến vào Nam. Anh Đàm chọn pḥng X-quang
ở bệnh viện bài lao để làm lễ kết nạp v́ ở đó đă có cơ sở của ta.
Đúng hẹn, một giờ ba mươi chiều, tôi lận tờ giấy đỏ trong áo trước
bụng, thằng Hương nhét trong quần lót hai mảnh búa liềm do Lê Minh
Trường cắt, đến Viện bài lao. Anh Đàm cho biết không hiểu thế nào
tên Phó bí thư huyện ủy Phú Lộc đă chiêu hồi lại có mặt hôm đó ở
pḥng X-quang. Tay này cũng làm việc ở đây, nhưng không phải ở pḥng
X-quang. Ba chúng tôi đi thẳng luôn ra cửa sau ṿng tay trái chuồn
về ngay.
Tháng 6-1965, chúng tôi thoát ly lên rừng, không nghe Thành ủy nhắc
lại chi về chuyện này nữa. Nhất định người ta muốn thử thách chúng
tôi. Về sau, tuần tự, Thiết, Hương, Trường đều vào Đảng.
Cái ông già mặc đại cán màu nâu cầm lên một xấp giấy màu vàng đất
đưa ra trước mặt tôi hỏi:
“Đây là bài “Sân khấu II”. Thế “Sân khấu I” ở đâu?”
“Mất đâu ở trong rừng rồi”.
“Thế c̣n “Sân khấu III”? Trong nhật kư anh có viết anh sẽ viết “Sân
khấu III”?”
“Tôi chưa viết”.
Rồi ông quay lại đàng sau lấy một cuốn sách, lật trang đầu hỏi:
“Anh có viết một câu tiếng Pháp trong này, đại ư nói là mọi sự rồi
sẽ trở nên sáng sủa hơn. Có phải anh có ư tưởng làm loạn không?”
“Câu đó tôi ghi lại lời của một nhân vật ở trang cuối. Ông cứ giở
sách ra mà xem”.
Ông ta làm thinh để cuốn sách xuống bàn. Ông ta nh́n tôi một lúc gật
gật cái đầu, tay cầm một tập sách khác đưa cao dứ dứ trước mặt tôi:
“Anh lấy cái này ở đâu? Ai đưa cho anh?”
Đó là tập san H̉M KẼM của một nhóm sinh viên ở Cộng Ḥa Liên Bang
Đức, xuất bản năm 1969 (?), Nguyễn Hữu Ngô cho tôi mượn. Tôi nói:
“Tôi mượn ở Đài Giải phóng”.
Ông ta cười ra tiếng, rồi ngậm miệng trề môi dưới ra hứ hứ trong
họng. Ông ta cầm tờ báo trên hai tay lật qua lật lại những trang
trong:
“Đây là tờ báo của bọn sinh viên Sài G̣n xuất bản ở Tây Đức. Bọn này
được Mỹ Ngụy gửi sang Tây Đức đào tạo để sau này về nước làm công cụ
tay sai đắc lực cho chúng, chống lại nhân dân và cách mạng. Mà Tây
Đức... là một nước tư bản thuộc loại đầu sỏ, kẻ thù của Liên Xô và
các nước xă hội chủ nghĩa, kẻ đối đầu trực tiếp với Cộng ḥa Dân chủ
Đức. Toàn bộ nội dung tờ báo này sặc mùi tư sản phản động. Tư tưởng
và lập trường của bọn này lập lờ, hai mặt, nhưng nh́n chung, bản
chất là chống cộng triệt để”.
Ông ta nh́n thẳng vào mắt tôi:
“Anh mê những thứ bẩn thỉu này lắm phải không, đồng hội đồng thuyền
mà? Anh có biết là anh đă phạm một tội rất nặng là oa trữ và phổ
biến tài liệu sách báo của địch không?”
Tôi cũng chịu không biết nói thế nào nữa, mà có nói cũng vô ích. Tôi
làm thinh, và họ cứ chửi bới tôi. Cái ông tên Lai mặt láng cầm cái
thẻ kiểm tra bọc nhựa của tôi bỏ xuống bàn ngay trước mặt ông, nói:
“Có phải anh giữ cái thẻ kiểm tra mà bọn ngụy quyền đă cấp cho anh
đây để có ngày anh trốn về vùng địch hay không?”
Một ông nào đó nói xen vào:
“Ngày đó là ngày anh đă hoàn thành nhiệm vụ của Mỹ Ngụy giao cho?”
Chán lắm rồi. Tôi cũng quá mệt. Tôi nói:
“Cái thẻ kiểm tra đó tôi đem theo đi đường lúc thoát ly và sau đó
giữ làm kỷ niệm”.
Có những tiếng đằng hắng và ậm ừ trong họng. Ông Lai nói:
“Những tư tưởng và lập trường của anh là phản động, chống cộng. Anh
hăy nói thật để được hưởng sự khoan hồng của Đảng. CIA Mỹ Ngụy cài
anh vào tổ chức cách mạng từ khi nào, ra Bắc anh đă thực hiện nhiệm
vụ của anh tới đâu rồi? Anh móc nối với những ai? Anh nói đi, tôi
cần chính anh tự thú nhận. Chúng tôi đă có đầy đủ bằng cớ và tài
liệu”.
Một ông khác nói tiếp:
“Chỉ có anh mới cứu được anh. Anh phải thành khẩn nói thật, khai
thật”.
Tôi nói liền:
“Tôi mà CIA th́ tôi đă không viết nhật kư và làm thơ như thế”.
Không ai nói ǵ cả. Ông Lai nói:
“Chưa hết đâu, anh Đính ạ. C̣n có nhiều điều, nhiều việc chúng tôi
chưa nói với anh. Chưa hết đâu. Rồi anh sẽ biết hậu quả những hành
động của anh”.
Bao giờ họ cũng nói: “Những hành động của tôi”.
Cái ông trẻ dưới 40 tuổi tên Thanh hỏi tôi:
“Anh có cần đọc lại biên bản hay không?”
“Không”.
Một vài người đă đứng dậy để đi ra ngoài. Ông Lai ngă người trên ghế
nh́n tôi. Ông Thanh vẫy tôi lại, nói:
“Anh xem lại và kư vào. Đây là biên bản những ǵ của anh mà chúng
tôi tạm giữ để nghiên cứu. Anh kiểm tra lại đi”.
Tôi nói, thôi không cần và kư. Toàn bộ các tập thơ, các tập vở ghi
chép, tất cả những giấy tờ ǵ, dù là một tờ rời, một mảnh nhỏ có chữ
của tôi đều bị họ tịch thu hết. Sách họ trả lại, trừ một vài quyển,
trong đó có một quyển tiểu thuyết bằng tiếng Pháp (tôi mua ở nhà
sách ngoại văn ở Hà Nội), v́ ở trang đầu cuốn sách này tôi có ghi
một câu của một nhân vật trong truyện nói đại ư: mọi sự mọi việc rồi
sẽ được sáng sủa và tập san Ḥn Kẽm.
Một ông ra lệnh cho tôi:
“Anh mang va ly và đồ dùng cá nhân về pḥng. C̣n sách sáng mai anh
sẽ nhận. Tôi xin họ cuốn tự điển Anh-Việt loại bỏ túi của Vơ Lang
(quyển này tôi mang từ chiến trường ra), họ đồng ư. Sau này có một
ông cho tôi biết việc này làm cho họ nổi tức và không có lợi cho
tôi, v́ họ cho đến lúc đó mà tôi vẫn c̣n b́nh tĩnh đọc sách được”.
Tôi trở về pḥng. Một bát miến đă để sẵn như bữa trưa. Ăn xong, tôi
ngồi hút thuốc. Cô Lư, y sĩ, bước vào:
“Anh Đính uống cồn Ben-la-don”.
Cô lấy một cái cốc rót nước vào rồi nhỏ mấy giọt cồn Ben-la-don vào
đưa cho tôi.
“Anh uống thêm mấy viên Ka-vét này nữa”.
“Cảm ơn cô”.
“Khi nào ăn xong anh cứ để chén bát ở đây, sẽ có người đến lấy”.
Mọi người đi vắng hết. Ông già Giác ở pḥng ngoài đi đâu một lúc về
chế trà ngồi uống. Ông gọi tôi:
“Uống nước anh Đính”.
Tôi uống với ông một chén, rồi rót một chén khác đem về pḥng tôi.
Ông già Tuyến, người Quảng Ngăi, bước vào nh́n lên bàn, lên giường
tôi nói:
“Họ lấy sách vở của mầy hết rồi à?”
“Dạ”.
Buổi tối tôi thắp một cây đèn dầu ngồi uống nước hút thuốc một ḿnh.
Tôi mệt và chán lắm rồi. Tôi không cần suy nghĩ là ngày mai họ sẽ
c̣n làm ǵ tôi nữa. Dạ dày tôi đau quặn lên. Tôi không c̣n ǵ nữa.
Họ tịch thu hết rồi. Tôi tiếc và tức, uổng quá, uổng thiệt. Quá dại,
đáng ra ḿnh phải gửi trước một ít cho thằng Ngô, thằng T́nh. Bây
giờ th́ tay không. Độ hai ba hôm sau, t́nh cờ tôi lượm được ở trong
góc pḥng dưới đầu giường của thằng Trác cái thư của mẹ tôi gửi cho
tôi hồi đầu năm 1968, lúc c̣n ở trong rừng và bài “Nhân dân và tôi”
viết trên tờ giấy croquis, cả hai đều bị ṿ cục lại. Tôi mừng hết
sức. Thằng Trác hơi hoảng và lúng túng. Hắn ở ờ ǵ đó trong cổ rồi
nói không ra tiếng: “chắc họ bỏ lộn trong đồ đạc của tao. Tao cũng
không để ư...”. Để đánh lạc hướng tôi, đoàn khảo tra tôi đă giả đ̣
bắt hắn mang va ly đến cho họ kiểm soát. Trong lúc cùng với ban bảo
vệ Đảng lục soát va ly sách vở của tôi lúc tôi lúc tôi đi vắng, hắn
đă bỏ quên những thứ này trong va ly hoặc dưới giường của hắn.
“Nhân dân và tôi” là bài thơ duy nhất c̣n sót lại của tôi lúc đó và
tôi c̣n giữ cho đến bây giờ.
Nhân dân và tôi
chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
như người câm
không nói
chiến tranh đi qua đi qua
người vẫn chết
c̣n chết vô t́nh
ở Sơn Mỹ Ba Làng An
Đắc tô Đắc Xiêng
Đường Chín
ở miền Nam
miền Bắc
Cam pu chia
ai biết
c̣n chết măi
Nửa đêm thức dậy
nghe tiếng c̣i tàu thở hơi than máy đen
cùng nỗi mệt mỏi
của những khúc gỗ trôi trên sông một mùa nước trước
đă đi qua những chặng rừng không cây cối
đất đỏ bom hoang
khi cuộc biểu t́nh bị đàn áp
chúng ta rát cổ hô hào
dân chủ tự do
trong mạnh máu những con gịi c̣n rúc
đứng đầy đường đại bác xe tăng
chúng ta nói chúng ta c̣n lực lượng
nhân dân ơi
tôi khóc tôi khóc
em bỏ về một ḿnh
hai hàng cây xanh đường Trưng Trắc
bao giờ tôi mới được hôn em
Chúng ta gặp nhau
c̣n gặp nhau
mỗi ngày
như nhân dân
c̣n gặp nhau
bốn ngàn năm chưa thấy mặt
Việt Nam
Nhân dân ơi
mỗi lon gạo lon bắp
mỗi củ khoai củ sắn trồng trên đất này
chưa được tự do ăn
nên c̣n đẩy xe thuê
làm đĩ
lượm lon
hốt rác
mỗi ngày
như mọi đêm
Nhân dân ơi rất anh hùng
Nhân dân ơi chúng ta c̣n đông
nơi mũi chông nhọn chúng ta giận dữ
đ̣i trả thù
và được ăn no
Chúng ta gặp nhau
mỗi ngày
thân mật
như nhân dân c̣n đông lực lượng
tôi yêu em
như người lạ
vô cùng đắng cay
hôm qua hôm nay
ngày mai ngày mốt
người chết
người sống
không nói
không cười
không khóc
ḥn đạn bắn vào đầu
ḥn đạn đồng thối
quá khứ như một đống phân
tương lai treo ngọn cờ đỏ
nhân dân tôi
rất độ lượng
chống đất đứng dậy làm anh hùng
nhân dân ơi
trong giọt máu này của tôi
da vàng Châu Á
tháng năm 1970
Có lẽ bài thơ này tôi viết lúc nằm ở bệnh viện E2 ở Hà Nội.
Lúc này tôi cảm thấy trống trải dễ sợ. Mệt mỏi và chán nản thoáng
một lúc không c̣n nữa. Tôi cứ ngồi im, ngó hai mắt vào hai cánh cửa
sổ đóng trước mặt. Tôi như đờ ra. B́nh thường những buổi tối như thế
này tôi đọc, tôi làm thơ hoặc viết nhật kư ghi lại những suy nghĩ
của ḿnh về cuộc đời này, về cuộc chiến tranh này, về cuộc cách mạng
này, về bạn bè, về những ngày c̣n nhỏ của tôi ở Vỹ Dạ... Nhưng tôi
biết kể từ nay tôi không thể viết được nữa, tất cả những suy nghĩ,
xúc động, tư tưởng... chỉ được nằm trong đầu óc tôi, không thể viết
ra trên giấy được. Và, kể từ nay, những sinh hoạt b́nh thường hàng
ngày của tôi cũng phải thay đổi.
Sáng mai như thường lệ tôi dậy sớm, xách phích đi lấy nước uống. Tôi
mở hé một một cánh cửa sổ và chế nước ngồi uống. Đối với tôi, sự yên
tĩnh của những buổi sớm mai rất tuyệt vời. Tôi để ḿnh lang thang
trong trí nhớ trở về với những buổi sớm mai ở Vỹ Dạ. Không biết bây
giờ mẹ tôi đi lấy ḷng về chưa. Rồi tôi đọc lại những bài thơ mới
làm hoặc những đoạn viết dỡ đêm qua. Bây giờ th́ không được nữa rồi.
Khoảng tám giờ, ông Thanh đến gặp tôi, hướng dẫn tôi viết bản kiểm
điểm. Một giờ sau, ông ta trở lại, tôi đang nằm trên giường. Ông
đứng ngay trước cửa chỉ tay vào tôi hỏi:
“Anh viết xong chưa?”
“Rồi”.
“Đưa tôi xem”.
Đọc xong bản kiểm điểm của tôi ông nói:
“Anh viết chưa đạt yêu cầu”.
Rồi ông ta bắt tôi thêm chỗ này, bỏ chỗ kia. Có đến mấy lần ông ta
lui tới bắt tôi sửa đi sửa lại bản kiểm điểm.
“Anh nhớ kèm theo bản sơ yếu lư lịch của anh nữa”.
Tôi viết. Ông lại góp ư. Xong xuôi, ông bảo tôi lên lấy sách về. Ông
ta hoàn toàn không nói cho tôi biết viết lư lịch và kiểm điểm để làm
ǵ, và tôi cũng không hỏi. Tới đâu th́ tới. Chán, mệt và đau đầu lắm
rồi.
Một giờ chiều, hôm đó là ngày 26 tháng 1 năm 1972, ông trẻ tên Thanh
này vào bảo tôi:
“Chiều nay, anh sang hội trường làm việc.
Anh sẽ kiểm điểm trước toàn thể cán bộ bệnh nhân K65 về những việc
làm của anh. Tuyệt đối anh không được có một thái độ hoặc hành động
xúc phạm đối với bất cứ một người nào. Khi nào chúng tôi cho anh nói
anh mới được nói. Anh hăy ngồi đây, bao giờ tôi đến báo anh hăy sang
hội trường”.
Ông ta c̣n dặn thêm tôi phải thế này thế nọ trước những phản ứng của
mọi người. Một giờ rưỡi tôi sang hội trường. Hơn ba trăm con người
đă tụ tập ở đó. Tôi bị đấu tố rồi. Sáng nay bốn chi bộ bệnh nhân đă
họp để phát động gây căm thù và phân công đấu tố tôi.
Tôi bước vào. Mọi người xôn xao, th́ thầm. Khẩu hiệu Đảng Lao động
Việt Nam muôn năm, tượng Bác Hồ để trên cao. Ba bốn cái bàn dài phủ
khăn trắng làm bàn chủ tịch đoàn. Cũng những cái ông khảo tra tôi
hôm qua ngồi hết ở đó, có thêm ông Bí thư Đảng ủy bệnh nhân và ông
Điềm, bác sĩ trưởng K. Ông Lai mặt láng ngồi giữa. Các cửa đóng kín,
trừ cửa ra vào mở rộng. Ông Thanh dẫn tôi đi thẳng lên phía bàn chủ
tịch. Một cái ghế đặt sẵn phía bên phải bàn chủ tịch đoàn. Cũng vẫn
ông Lai đó đứng dậy chỉ tay vào cái ghế để sẵn đó:
“Ngồi đó!”
Tôi ngồi xuống, tôi vẫn hút thuốc. Một ông ngồi ở hàng ghế đầu đứng
dậy quay mặt lại nói:
“Đề nghị các đồng chí ổn định”.
Ông Lai đứng dậy:
“Ta làm việc các đồng chí ạ. Thưa các đồng chí, từ ngày ra Bắc đến
nay, anh Nguyễn Đính đă phạm những sai lầm hết sức nghiêm trọng về
mặt lập trường, quan điểm và tư tưởng. Lát nữa chúng tôi sẽ tóm tắt
một số điểm chính cho các đồng chí rơ. Hôm nay, chúng ta họp ở đây
là để phân tích góp ư cho anh Đính thấy rơ hơn nữa những sai phạm
của ḿnh, và để anh có hướng sửa chữa, cải tạo ḿnh tốt hơn. Tôi đề
nghị các đồng chí trong lúc góp ư phải b́nh tĩnh, thể hiện bản chất
tốt đẹp của người cách mạng, là những người, hơn ai hết, đă góp máu
xương của ḿnh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dưới sự lănh đạo
của Đảng. Chúng ta phải tỏ cho anh Đính biết Đảng ta rất khoan hồng
đối với những người có tội biết ăn năn hối cải. Đây là một cơ hội
cho anh Đính làm lại cuộc đời của anh, một cơ hội để anh ăn năng,
hối cải. Số phận của anh lúc này đây là do anh quyết định”.
Rồi ông ta đọc sơ yếu lư lịch của tôi và tóm tắt những ǵ mà hôm qua
họ đă khảo tra tôi. Tất cả là những lời buộc tội, áp đặt và có kết
luận.
Ông quay sang tôi:
“Phần anh, anh không được phát biểu ǵ cả khi mọi người góp ư. Khi
nào chúng tôi cho phép anh mới được nói. Anh nghe chưa?”
Ông ta quay sang ông Thanh:
“Đồng chí Thanh làm biên bản buổi họp cho với”.
Một ông khác ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:
“Một lần nữa chúng tôi xin nhắc lại, đề nghị các đồng chí hăy b́nh
tĩnh khi phát biểu ư kiến”.
Ông Bí thư Đảng ủy khối bệnh nhân ngồi trên bàn chủ tịch đoàn đứng
lên:
“Các đồng chí ạ, chúng ta là những cán bộ, Đảng viên được Đảng cho
ra miền Bắc, hậu phương lớn, chữa bệnh và học tập. Rồi đây tất cả
chúng ta sẽ trở lại chiến trường của ḿnh. Hôm nay chúng ta góp ư
cho anh Đính là để bảo vệ Đảng, bảo vệ tư cách của những người cán
bộ Đảng viên của Đảng. Các đồng chí phải hết sức b́nh tĩnh. Tôi đề
nghị các đồng chí khi góp ư, cần phân tích kỹ những sai lầm nghiêm
trọng của anh Đính mà các đồng chí ở Cục vừa tŕnh bày. Tôi đề nghị
các đồng chí cần vạch rơ thêm những sửa chữa, cải tạo, cụ thể và
đúng mức cho anh Đính”. [1]
Hội trường im lặng một lúc, rồi gần như tất cả lồng lộn lên, mỗi
người một cách, xỉ vả tôi. Người trợn mắt, bậm môi; người nghiến
răng chỉ tay thẳng vào mặt tôi; người dong hai tay nắm đấm lên trời
đập vào không khí; người chống nạnh dậm chân xuống nền nhà; người
bước ra khỏi ghế ngồi vừa nói vừa vung tay tiến về phía tôi; người
nói nửa chừng bật lên tiếng khóc... Hễ lúc nào không khí có hơi lắng
đi, sẽ có người đứng lên gợi ư cho mọi người phát biểu: “tôi thấy
chúng ta chưa đi sâu mặt này...”; “tôi thấy điểm kia cần phân tích
sâu thêm”; “tôi đề nghị các đồng chí triển khai những điểm này...”
Sau một vài ư kiến, khi cuộc đấu tố bắt đầu có đà, ông Thanh trên
bàn chủ tịch đoàn đứng dậy:
“Tôi nói thêm một số điểm để các đồng chí hiểu rơ thêm về anh Đính,
và trên cơ sở đó các đồng chí phát biểu ư kiến tập trung hơn”.
Ông ta đọc bài thơ “Hồ Chí Minh muôn năm” của tôi [2].
Tôi chỉ nhớ mấy đoạn:
Sông mang phù sa đỏ
Chảy ra biển muôn năm
Người mang hồn sông đó
Ḷng như biển vô cùng [3]
Chín chín ngọn Hồng Lĩnh
Máu đất đà kết tinh
Đă đem tin điềm lạ
Mang tên Hồ chí Minh
..........
Nuôi Người bằng sữa đắng
Nước mắt mẹ lầm than
Nên tim Người từ đó
Đau niềm đau Việt Nam
.........
Hôm nay đang đánh Mỹ
Miền Nam chưa ngủ yên
...........
Nhớ Người vẫn gọi tên
..............
C̣n tôi tên lính nhỏ
Vác súng đi theo Người
Mấy năm đà gian khổ
Tim hồng vẫn đỏ tươi [4]
Đọc xong bài thơ ông ta nói:
“Đó là cái bề mặt hay nói cho đúng đó là mặt giả của anh ta. C̣n đây
mới là mặt thật, chân tướng và bản chất của anh ta:
Một tập sách giấy hồng
Ghi lời thánh
Ông thánh già đă chết
Các đồng chí có biết anh ta nói ai không? Ông ta nói đến Hồ chủ tịch
vĩ đại và kính yêu của chúng ta đó.
A ha ta là một tên hề
Một tên hề không có râu
Một tên hề không có bánh ḿ mà ăn
Đó là anh ta nói về bác Tôn”.
***
Cả hội trường lao nhao. Tôi có cảm tưởng như tất cả mọi người đều
gầm thét lên, vung tay sấn đến bao vây lấy tôi. Tôi tức ngực, tôi
ngộp thở trong đám người phủ kín tôi đó. Không phải sự sôi động mà
là sự tức tối, phẫn uất đă nổi lên.
Tôi ngồi im. Tôi chịu đựng, cái dạ dày tôi chịu đựng. Tôi ngồi im có
khi bất động như một xác chết để ngồi cúi đầu trên ghế. Sau này cô
Mộng, một người bạn của tôi nói: “Thấy họ xỉ vả và hành hạ anh, em
thấy họ ác quá. Em sợ anh lên cơn dạ dày rồi ngă lăn ra. Em mà như
anh lúc đó chắc em chết thôi”.
Tôi ngồi im, ghi hết những lời họ chửi mắng tôi. Tôi được phép làm
việc này, v́ trước khi vào cuộc đấu tố, một ông có dặn tôi đem theo
giấy bút ghi chép để sau này có dịp suy ngẫm lại những điều người ta
nói về ḿnh. Những tờ ghi chép này tôi c̣n giữ cho đến bây giờ. Tôi
chỉ ghi tóm tắt những ư chính của những người phát biểu. Tôi chép
lại những lời phát biểu này và chỉ thêm một số câu chữ cho rơ nghĩa
ở những chỗ cần thiết. Một gạch đầu ḍng là ư kiến của một người; có
người phát biểu nhiều lần.
Ư kiến tập thể.
“Tên Đính, phải gọi hắn là tên Đính, không phải anh. Mỹ Diệm đă cài
hắn lại để phá hoại, để chống đối lại nhân dân, chống đối lại chế độ
chuyên chính vô sản của ta. Tên Đính đă viết những lời giận dữ đả
kích Đảng, chế độ; đó là kẻ thù, chúng ta không c̣n mơ hồ ǵ nữa.
Tôi đề nghị: Chính quyền xử trị đúng mức”
“Tên Đính, phải gọi là tên Đính, không anh ǵ cả.
Tên Đính không phải v́ va chạm quyền lợi, không phải v́ tức tối, mà
do suy nghĩ kỹ, mang tính chất phản động chống lại chính sách, đường
lối của Đảng ta. Mục đích của hắn là nhằm cái ǵ đây cho hắn thôi.
Những suy nghĩ của tên Đính đă đi trái với con người của tôi.
Hắn đả đảo chiến tranh, đả đảo chiến tranh nào? Hắn đả đảo chiến
tranh chống xâm lược chứ ǵ nữa. Như vậy là tên Đính bảo ta phải đi
đầu hàng sao?
Tên Đính là một tên phản động. Không biết có phải hắn do một tổ chức
của địch nào đó đưa vào tổ chức của ta để phá hoại? Chúng ta không
thể dung thứ hắn được.
Chúng ta hết sức đau đớn, v́ tên Đính đă phỉ nhổ lănh tụ của chúng
ta”.
“Tên Đính là một tên, một tên phản động nói xấu lănh tụ của chúng
ta. Hắn không phải là một người sai lầm, ngu dại, hắn là một tên
phản động. Hắn có một tổ chức của hắn. Hắn bị địch nhồi sọ. Hắn chui
rúc vào tổ chức của ta để cung cấp tài liệu cho địch”.
“Tên Đính đă tham gia cách mạng, là cán bộ tuyên huấn, nhưng hắn lại
có chân trong tổ chức Cần lao nhân vị. Hắn phản động rơ ràng. Đúng
hắn là một tên phản động chửi bới Đảng và lănh tụ. Chúng ta phải thù
tên Đính. Chính đầu óc phản động của tên Đính đă tạo cho tên Đính
những cái nh́n xấu về miền Bắc. Hắn đă cố t́nh làm một tên phản
động, cố kết với địch”.
“Tên Đính, phải gọi hắn như thế mới đúng. Tên Đính có một tổ chức
phản động. Đúng, hắn là một tên phản động có tổ chức. Tôi yêu cầu
trừng trị tên Đính đúng mức”.
“Tên Đính xuất thân từ gia đ́nh nghèo, đáng ra hắn phải căm thù đế
quốc. Chưa căm thù đế quốc hắn đă làm tay sai cho địch. Hắn chửi
Đảng, chửi nhân dân, chửi lănh tụ. Một tên phản động. Hắn không c̣n
học vấn, học vấn của hắn vất xuống hố xí. Học vấn cái ǵ, hắn là một
tên phản động”.
“Tên Đính là một kẻ thù của chúng ta. Hắn là một tên phản động, hắn
là kẻ thù của nhân loại. Tôi đề nghị: phải làm cho hắn có thái độ
thức tỉnh, hối cải, có như thế, hắn sẽ sẵn sàng được hưởng lượng
khoan hồng của chúng ta. C̣n nếu hắn ngoan cố, chúng ta sẽ có biện
pháp đối với hắn”.
“Tên Đính, một tên tay sai phản động. Tên Đính đă đả kích lănh tụ.
Hắn là một tên ngoan cố đắc lực của địch. Chúng ta phải có h́nh phạt
xứng đáng đối với hắn, nếu tên Đính c̣n ngoan cố.
Hắn đă không phân biệt được chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh
phi nghĩa. Nguy hiểm hơn nữa hắn đă viết thư vào Nam cho bạn bè của
hắn xuyên tạc, nói láo về miền Bắc. Thật rất nguy hiểm”. [5]
“Đó là cách luồn gió để bẻ măng của một tên phản động. Tôi nói lên
đây tôi rất đau ḷng. Đính là một tay phản động chui vào hàng ngũ
của ta để phá hoại. Tôi rất hổ thẹn về con người quê hương của chúng
ta như thế”. [6]
“Nó đă đụng chạm đến t́nh cảm thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta
căm thù nó, nhưng vẫn đủ b́nh tĩnh, chúng ta vẫn đủ b́nh tĩnh. Do
bản chất giai cấp vô sản của chúng ta, chúng ta vẫn c̣n dùng lời lẽ
nói với nó. Chúng ta sẵn sàng khoan hồng cho nó. Nhưng nếu nó ngoan
cố th́ chúng ta sẽ có biện pháp xử trị”.
“Anh ta có nói đến giá trị làm người. Giá trị đó là cái ǵ? Động cơ
tham gia cách mạng của anh ta là không đúng. Anh ta là tiểu tư sản,
là cơ hội. Giá trị làm người của anh Đính là chống Đảng, anh hùng
của anh là anh hùng kiểu Mỹ, anh hùng của cao bồi.
Người ta bị lầm về anh. Anh đọc chủ nghĩa Mác để xuyên tạc chủ nghĩa
Mác. Anh nói đến tự do, anh đ̣i tự do. Anh có đầy đủ mọi tự do của
một con người sống ở đất nước này, anh c̣n đ̣i hỏi đến tự do ǵ nữa?
Đúng là tên Đính lập luận hai mặt. Cần lao mà tên Đính nói ở đây là
Cần lao nhân vị. Tất cả lời lẽ của tên Đính đều mang hơi hám của bọn
Nhân văn - Giai phẩm và của đài Gươm thiêng ái quốc. Anh học đại học
văn khoa của địch, anh ở trong vùng địch nên bị nhồi trong óc nhiều
tư tưởng phản động. Chứng tỏ cũng đủ kết án anh rồi. Nhưng tùy anh,
anh muốn đi theo con đường nào th́ đi”. [7]
“Lời lẽ tên Đính là hoàn toàn đả kích Đảng, đả kích Trung ương, Đảng
viên. Cho nên tên Đính là một tên trắng trợn phản cách mạng. Phải có
biện pháp trừng trị đích đáng. Tên Đính phản cách mạng hoàn toàn”.
“Tôi chưa từng nghe ai dám xúc phạm đến lănh tụ. Tên Đính rơ ràng là
phản động. Tên Đính, một tên ngu ngốc. Nhưng chúng ta phải tỏ ra có
độ lượng, đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại. Bản thân tên
Đính phải thấy sai lầm của ḿnh”.
“Trần Vàng Sao! Có lạ ǵ với cái tên của anh đâu. Ở trong Nam anh đă
từng làm những bài thơ t́nh đăng trong các báo ngụy như Hiện đại,
Bách khoa, Mai... [8] Anh nên đổi tên để khỏi phải nhục. Hay là địch
đă đưa anh vào hàng ngũ của ta? Anh bất b́nh với tổ chức, với Đảng.
Thế kẻ thù của anh là ǵ? Kẻ thù của anh không phải là địch th́ là
ta, là cách mạng, là Đảng. Anh muốn đi theo con đường nào, con đường
của bọn Nhân văn-Giai phẩm hay bọn bồi bút ở Sài G̣n? [9] Anh Đính,
anh đừng tưởng anh giỏi, anh c̣n kém nhiều và phải học nhiều nữa.
Anh phải làm như Trịnh Đ́nh Thảo, Dương Quỳnh Hoa, Tôn Thất Dương
Kỵ...” [10]
“Sự căm giận của tôi cũng giống như của toàn thể các đồng chí ở đây,
nhất là các đồng chí ở Trị Thiên. Nguyễn Đính đă đối lập với chúng
ta, đă quay mũi súng về phía chúng ta. Những bài viết của Nguyễn
Đính khác với những lời Đảng đă dạy. Đó là những quan điểm chống
cộng đă cũ. Nguyễn Đính có một ư thức khác với ư thức của chúng ta,
có một lập trường khác với lập trường của chúng ta. Anh phải nh́n rơ
kẻ thù hơn. Kẻ thù của Nguyễn Đính là chủ nghĩa Cộng sản, là Trung
ương Đảng. Chúng ta chẳng bao giờ nhổ nước miếng vào băi phân. Chúng
ta cần phân tích, bộc bạch cho nó rơ. Tư tưởng phản động của Nguyễn
Đính đă rơ rồi”.
“Anh Đính chống Đảng. Thế th́ anh Đính theo cách mạng để làm ǵ?
Đúng là tri thức không đáng bằng một cục phân”.
“Văn hóa có tác hại rất lớn. Địch đă tiêm nhiễm văn hóa của chúng
vào đầu óc anh Đính. Anh Đính chưa hiểu về chuyên chính vô sản. Đảng
ta rất nhân đạo, trấn áp anh th́ không khó, nhưng ta có chính sách”.
Đến đây, một ông trong chủ tịch đoàn đứng lên hướng dẫn, gợi ư, phát
động mọi người góp ư:
“Tóm tắt về anh Đính như thế này: Anh Đính tự cho anh là con người,
c̣n chúng ta là những đinh ốc, con vật; anh là người có tri thức,
c̣n chúng ta là những người ngu ngốc. Như thế anh Đính phải nghĩ đến
một cuộc cách mạng nào khác đây? Anh nói xấu lănh tụ, không có lập
trường về chiến tranh. Anh cho chế độ miền Bắc là bất công. Toàn bộ
nhận thức, quan điểm của anh Đính đều có giấy trắng mực đen. Thực
chất bên trong của anh ta là một tên phản động, chống đối Đảng,
chống đối cách mạng. Anh ta đối lập với chúng ta.
Giữa anh Đính và chúng ta có một mâu thuẫn đối kháng. Lẽ ra anh Đỉnh
không được ngồi ở đây nữa. Nhưng v́ ḷng nhân đạo của ta nên anh
Đỉnh c̣n ngồi đây. Chúng ta muốn giáo dục, cải tạo anh Đính”.
“Rồi đây tên Đính nó sẽ có những lời đường mật xin tha, xin khoan
hồng. Nhưng ta phải mở cho nó một con đường tốt. Và chúng ta phải có
một biện pháp cho tốt, đó là biện pháp chuyên chính vô sản”.
“Thằng Đính phải gọi như thế mới được. Tất cả những người theo cách
mạng ở đây không phải là cuồng tín đâu, mà bởi ruộng đồng, quê
hương, v́ cha mẹ chết. Nó khinh mẹ nó, v́ mẹ nó đẻ nó ra đâu để cho
nó phản động như thế này. Nó không đáng là cục cứt đáng cho ta nhổ
nước miếng. Anh em bức xúc quá không nói được”.
“Nói với thằng Đính, chứ không anh ǵ cả, thằng Đính hăy nghe đây.
Tôi đề nghị: xét lập trường của nó mà có biện pháp xử trị”.
“Tôi nói với tư cách là K trưởng, một Đảng viên, một trí thức. Chúng
ta phục vụ cách mạng v́ mục đích thiêng liêng, chứ không phục vụ
những đối tượng có đầu óc phản động”.
Tôi đề nghị chúng ta phải đề cao cảnh giác hơn nữa. Anh Đính có
những hiện tượng chống Đảng, chống lănh tụ, chống chế độ. Lôi Phong
tự nguyện làm một đinh ốc của Đảng, một đinh ốc ư thức được nhiệm vụ
của ḿnh. Tôi hănh diện khi nói tôi là một người Việt Nam, tôi là
một Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam”. [11]
“Tôi phát biểu hai điểm về anh Đính.
Một là, anh Đính đả đảo chiến tranh, anh muốn ḥa b́nh. Anh nói miền
Bắc bất công. Nhưng, ai là kẻ gây chiến tranh? Đâu là chính nghĩa,
đâu là phi nghĩa? Rơ ràng anh Đính phản động. Anh Đính đi t́m tự do
của Mỹ Ngụy phải không?
Hai là, theo sơ yếu lư lịch mà anh Đính đă khai với tổ chức, tôi
nghi ngờ về lư lịch của anh ta. Nghèo mà đi học được là do địch đỡ
đầu, địch không đỡ đầu làm sao mà đi học được. Anh Đính khai chưa
đúng lư lịch của ḿnh”.
“Tôi xin phân tích thêm về ư thức và tư tưởng của anh Đính. Anh Đính
đă nhiễm độc những hư thối của chế độ Mỹ ngụy. Anh có quan điểm rất
mơ hồ về chiến tranh. Anh không phân biệt chiến tranh chính nghĩa và
chiến tranh phi nghĩa. Anh kêu gào tự do cho những người nghèo là
thế nào? Anh tiêm nhiễm học thuyết Hê-ghen (Hegel) mà Hê-ghen là kẻ
đă từng kêu gọi ném bom nguyên tử hủy diệt nhân loại (!). Cái trường
đại học văn khoa ở Huế đă đầu độc anh ta. Bọn Cờ đỏ [12] cũng có
cùng một luận điệu như thế. Anh Đính cũng có cùng một luận điệu như
thế. Anh Đính chỉ là một con gịi mang biết bao nhiêu bệnh tật trong
người”. [13]
“Năm nay tôi 57 tuổi, hơn 40 năm đi theo con đường của Đảng, bây giờ
tên này phản động chống Đảng, tôi đau xót vô cùng. Chưa ai dám xúc
phạm đến Bác Hồ, nay tên Đính lại dám xúc phạm đến Bác Hồ. Đính là
người Việt Nam, người Việt Nam mà lại dám xúc phạm đến Bác Hồ. Tôi
muốn đánh gục tư tưởng sai lầm của tên Đính”.
“Tôi đứng trên quan điểm của người Đảng viên để nói. Anh Đính là kẻ
thù của tôi, v́ anh xúc phạm đến lănh tụ. Hoạt động cách mạng của
anh Đính chẳng có chi cả, không đáng là chi cả. Anh Đính đă bộc lộ
những tư tưởng phản động. Văn hóa miền Nam của bọn đế quốc đă xâm
nhập vào anh Đính. Tôi đề nghị: phải có biện pháp cương quyết và
cứng rắn với anh Đính”.
“Đồ bịp bợm. Tên này là một tên bịp bợm. Nó hô nhân dân muôn năm,
nhưng lại chống Đảng. Luận điệu của tên Đính giống như luận điệu của
Ngô Đ́nh Diệm”.
“Luận điệu của tên Đính là luận điệu của kẻ thù. Chế độ ta là chế độ
của chuyên chính, của giai cấp vô sản. Chỗ đứng của tên Đính không
phải là chỗ đứng của một người nghèo mà là đường đi của kẻ thù. Tư
tưởng sai lầm của tên Đính rất nghiêm trọng. Tên Đính đừng dựa vào
các lời nói của các Đảng viên và cán bộ ở đây mà kích động”.
“Tay Đính, phản động. Học thức là vô ích. Tôi bóp bụng, tôi chịu
đựng, mặc dù tôi hết sức căm thù nó”.
“Đính là một kẻ do địch cấy vào để phá hoại hàng ngũ ta. Đó là một
tên phản động tày trời. Bản chất của tên Đính là phản dân hại nước.
Mang danh nghĩa cán bộ B [14] là nhơ bẩn. Cho tên Đính ăn hóa ra vô
ích. Tôi tức giận. Tôi phát biểu để cởi mở hết sự tức giận của tôi.
Phải có biện pháp trừng trị nó”.
“Chúng ta rất tiếc là sự việc này xảy ra trong đơn vị của chúng ta,
trong Đảng bộ của chúng ta. Anh Đính nói xấu Đảng, nói xấu lănh tụ,
Đảng viên. Thế học thức của anh Đính là ở chỗ nào? Những người b́nh
thường như chúng ta nhận ra được con đường đi giáp mặt với kẻ thù,
chịu hy sinh thân mạng của ḿnh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc
là trí thức. Đó mới là trí thức”.
“Tên Đính phải mở mắt ra mà xem. Cách nh́n về chiến tranh của tên
Đính rất phản bội. Chúng ta lên án tư tưởng, hành động này của tên
Đính, phải cải tạo nó theo đường lối và chính sách của ta”.
Đến đây, ông Lai đứng dậy:
“Thưa các đồng chí. Tôi biết các đồng chí c̣n rất nhiều ư kiến muốn
phát biểu. Nhưng bây giờ ta phải để cho anh Đính thú nhận tội của
ḿnh đă”.
Ông ta quay sang tôi:
“Anh Đính, đứng dậy. Anh hăy đọc bản kiểm điểm thú tội của anh đi!
Đứng đó đọc!”
Tôi mệt mỏi, chán nản và muốn mửa, mấy lần tôi dợn dợn rồi cố nín.
Cái dạ dày của tôi rúc rúc. Tôi muốn đưa tay ôm bụng, nhưng tôi đứng
dậy. Có một vài cặp mắt ở đàng sau cuối hội trường nh́n tôi rồi quay
đi. Có những cặp mắt đỏ máu mở trừng như trân không muốn nhắm ghim
vào tôi. Có người nhổ nước miếng, khịt mũi; có người hừ; có người
cất điếu thuốc khỏi miệng, phun nước miếng thẳng vào tôi; có người
xô ghế đứng dậy nghiến răng; có người mặt lạnh tanh, chỉ hơi dim mắt
ngó tôi; có người liếc nghiêng, đầu hất ngược lên mấy cái. “Đồ mất
dạy!”, “đồ chó đẻ!”, “bắn được rồi!”, “bắn mẹ hắn đi!”, “để chi cái
đồ đó!” “dơ dớp!”, “dơ dáy!”....
Tôi muốn ói ra thật rồi. Tôi nói [15] :
“Từ ngày ra Bắc đến nay, tôi đă phạm những sai lầm về ư thức, tư
tưởng sau đây:
Bằng những ghi chép và trong những bài thơ, tôi đă có những suy nghĩ
phản động có hại đến thanh danh của Đảng:
- Tôi đă chê bai và mạt sát các Đảng viên,
- Tôi đă xúc phạm đến uy tín của lănh tụ,
- Tôi đă nói xấu các đồng chí ở trung ương;
- Tôi đă nói xấu chế độ;
- Tôi đă có thái độ bất kính đối với một số tri thức ở miền Bắc
[16];
- Những điều tôi đọc ở sách vở chưa thấu đáo nhưng đă vội kết luận;
- Đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay (trong một số
bài thơ của tôi) tôi đă mất b́nh tĩnh v́ quá lâu mà chưa kết thúc.
Tôi nghĩ rằng ta sẽ thắng, nhưng nhân dân sẽ phải chết rất nhiều.
Những sai lầm của tôi hết sức nghiêm trọng. Đó là những tội phạm của
tôi đối với Đảng, đối với nhân dân, đối với cách mạng. Tập thể đă
căm thù tôi, đă xúc động khi tôi xúc phạm đến uy tín của lănh tụ.
Tập thể đă coi tôi như một kẻ thù và yêu cầu xét xử tôi theo pháp
luật. Tự bản thân tôi, tôi thấy tội của tôi theo pháp luật là bỏ tù.
Tôi mong ở sự độ lượng và khoan hồng của tập thể đối với tôi.
Xét quá khứ tham gia cách mạng của ḿnh, nay ḿnh lại phạm những sai
lầm hết sức nghiêm trọng có tính chất phản động như thế, tự tôi tôi
đă xóa bỏ cái quá khứ trước của ḿnh đi.
Tôi đă thấy rơ những sai lầm của ḿnh. Tôi tin tưởng ở tập thể.
Tôi phải sống ḥa ḿnh trong lao động, trong tập thể để tự cải tạo
ḿnh, để ḿnh trở thành người tốt đối với xă hội.
Tôi mong sự giúp đỡ của trên, của tập thể. Nhưng chính bản thân tôi,
tôi phải tự rèn luyện học tập những anh em đồng chí xung quanh”.
Tôi đọc xong, ông Lai ngoắt tay ra dấu:
“Ngồi xuống”.
Mấy cái đầu đội mũ cát trên hàng ghế chủ tịch đoàn cụng vào nhau vừa
hút thuốc, vừa uống nước th́ thầm. Ông Bí thư Đảng ủy bệnh nhân vừa
đứng nhỏ to với một ông trong đoàn khảo tra trong góc hội trường vừa
vẩy tay một ông khác đến. Tôi dựa người vào thành ghế nh́n thẳng ra
cửa ra vào. Mấy ông Bí thư chi bộ bệnh nhân đi chen giữa các hàng
ghế rỉ tai. Ông tên Lai đứng dậy nói, đại ư:
“Thưa các đồng chí, anh Đính đă đọc bản kiểm điểm của anh. Chúng tôi
biết các đồng chí chúng ta chưa nói hết những ấm ức, phẫn nộ của
ḿnh, các đồng chí c̣n rất nhiều điều muốn phát biểu ra ở đây.
Bây giờ chúng tôi đề nghị các đồng chí hăy đi sâu góp ư kiến về
những biện pháp nhằm giúp anh Đính cải tạo ḿnh”.
Ông Lai vừa nói xong, ở cuối hội trường đă có người vừa dong tay vừa
đứng dậy:
“Đối với tên Đính, tôi đề nghị chúng ta cần phải tiếp tục đấu tranh
nữa.
Đấu tranh để tên Đính thấy rơ những tội phạm của nó, và buộc nó phải
thú nhận tất cả những tội phạm của nó”.
“Bây giờ ta xử tên Đính như thế nào? Xét những sai lầm của tên Đính,
tôi thấy có mấy nguyên nhân thế này: là đầu óc tiểu tư sản, cái tự
do mà tên Đính nói là một thứ tự do cá nhân. Tất cả đều do bị ảnh
hưởng văn hóa của địch”.
“Tên Đính phải có một hệ thống, một dây móc nối ở trong Nam, trong
vùng địch”.
“Xử lư tên Đính thế nào à? Cho đi cải tạo!”
“Tội của nó đáng lẽ là bắn”.
“Cho đi cải tạo”.
“Tên Đính nhận thức và đánh giá những điều mà nó tŕnh bày ra là
chưa đúng. Tên Đính tiếp thu chưa đúng đắn và thiếu thành khẩn những
ư kiến của chúng ta. Tội của nó rất to lớn đối với toàn dân tộc ta.
Phải giáo dục nó, nhưng cũng phải có biện pháp cải tạo nó”.
“Tên Đính chưa thành thật nói hết. Hai là, hắn là một tên phản động,
phản động có ư thức chính trị, điều này chúng ta cần chú ư v́ rất
quan trọng”.
“Tội trạng rất to, đem bắn ở đây cũng được rồi”.
“Cho nó đi cải tạo dài hay ngắn hạn là tùy mức độ tội trạng sau này
ta xét xử”.
Ông tên Lai nói:
“Tôi biết các đồng chí c̣n có nhiều ư kiến và nhiều đồng chí cũng
chưa nói hết những ấm ức, tức giận của ḿnh. Qua sự góp ư, phân tích
hết sức sâu sắc và đúng đắn của các đồng chí, đến đây tôi tạm sơ
kết, tạm gọi là sơ kết một bước về anh Đính. Thế này các đồng chí ạ.
Những tư tưởng phản động trong con người của anh Đính đă có từ năm
1968 [17]. Tôi nhắc lại từ năm 1968 là lúc mà anh ta c̣n ở trong
rừng. Từ năm 1968 đến nay, 1972, là 4 năm; hai năm trong rừng, hai
năm ở miền Bắc. Tôi nhắc lại như thế để các đồng chí thấy rơ tác hại
của những tư tưởng và hành động phản cách mạng của anh Đính là nguy
hiểm tới mức độ nào. Chúng ta phải khẳng định trách nhiệm của Đảng
là Đảng ta kiên quyết loại bỏ tất cả những tư tưởng khác và sai trái
đối với tư tưởng, lập trường và quan điểm của Đảng. Hơn nữa, ở đây
lại là những tư tưởng phản động, chống phá Đảng, chống phá cách mạng
th́ phải đánh chứ không phải chỉ loại trừ nữa. Nhưng chúng ta không
đánh con người anh Đính, chúng ta đánh là đánh cái tư tưởng, cái
hành động phản động của anh ta. V́ chúng ta tin tưởng rằng con người
của anh Đính có thể cải tạo được với điều kiện là bản thân anh Đính
phải thú nhận một cách thành khẩn và đúng đắn hết những sai phạm của
ḿnh trước Đảng. Chủ trương của Đảng ta luôn luôn kết hợp trừng trị
đi đôi với giáo dục, mà giáo dục là chủ yếu.
Thưa các đồng chí, vấn đề của anh Đính vẫn c̣n tiếp tục. Ngang đây
chưa hết. Tôi xin nhắc lại, ngang đây chưa phải là hết. Chúng tôi
chưa kết luận về anh Đính như thế nào cả. Chúng tôi đưa ra mấy khẳng
định sau: một là, trước đây hai hôm anh Đính là cán bộ tuyên huấn,
một người bạn ở K65, nhưng hôm nay bước đầu, tôi nói rơ là chỉ mới
bước đầu ta kết luận, con người của Nguyễn Đính có những sai lầm
nghiêm trọng chống đối Đảng, chống đối chính phủ. Tư tưởng của
Nguyễn Đính là tư tưởng phản động chống đối Đảng ta. Chính phủ ta.
Mức độ phản động đến đâu, như thế nào ta chưa kết luận. Nguyễn Đính
chưa thú nhận hết những tội lỗi của ḿnh, mặc dầu Đính đă có thú
nhận. Do đó chúng ta cần phải tiếp tục đấu tranh với Nguyễn Đính,
đấu tranh đến cùng, đấu tranh không khoan nhượng. Hai là, tập thể
chúng ta đă có nhiều ư kiến về việc xử trị anh Đính, cụ thể là: một
là bắn, hai là tiến hành giáo dục, cải tạo một cách nghiêm túc. Thưa
các đồng chí, chúng ta chưa quyết định được. Nguyễn Đính phải thấy
sự khoan hồng của Đảng, nếu Nguyễn Đính là một tên phản động có nợ
máu th́ phải xử lư bằng biện pháp mạnh. Muốn như thế nào đó, cái đó
là tùy Nguyễn Đính. Và anh ta phải tự thấy cái đó. Chính sách của
Đảng ta là luôn luôn độ lượng với những người biết hối cải. Nguyễn
Đính vẫn chưa thú hết tội. Và chúng ta phải nói cho anh ta biết rằng
ngang đây chưa phải là hết đâu”.
Mọi người đă ra khỏi pḥng. Căn pḥng sáng hẳn lên. Tôi vẫn ngồi một
chỗ và hút thuốc. Mấy ông trong đoàn khảo tra ngồi trên bàn chủ tịch
đă đứng dậy. Họ đang nói chuyện tiếng to và cười vui vẻ.
Trước mặt tôi ba dăy ghế băng, cái thồi ra, cái thụt vào xô lệch
nhau. Một vài cái ghế dựa nghiêng ngửa giữa các lối đi. Ngọn đèn ở
ngoài hành lang vừa tắt. Ông thợ điện đang đi thu dây và các bóng
bắt thêm trong hội trường. Tối nay điện không bị cắt. Bây giờ chắc
khoảng hơn mười một giờ. Các cửa gương đă đóng. Trong pḥng đă hết
hơi người, nhưng vẫn c̣n cái mùi ǵ nằng nặng lẫn với khói thuốc lá
lảng vảng. Ông Thanh bước lại gần tôi nói:
“Anh về được rồi đó”.
Tôi đứng dậy bước đi. Ông thợ điện người Nam Bộ khoảng trên 50 tuổi
mở một cánh cửa hông nh́n tôi nói:
“Anh đi ngả này, anh Đính”.
Lạnh, có gió thổi hút vào. Những dăy nhà, những dăy lầu, cửa sổ khép
mở, đèn thắp sáng như những toa tàu. Dăy nhà tôi ở phía bên kia
đường.
Các giường ngủ trong pḥng đă mắc mùng. Bốn người c̣n tụm lại uống
nước trà, nói chuyện. Họ nh́n tôi rồi lặng thinh. Ông già Giác vẫn
ngồi xếp bàn trên giường. Ông đưa hai tay vuốt tóc rồi để yên sau
đầu. Thường ngày ông già Giác hay uống nước trà với tôi. Hễ có trà
ngon thế nào ông cũng gọi tôi uống. Ông hay ướp bông bưởi với trà
loại ba hoặc trà bồm để uống. Cho đến sau này, ông Giác, ông Tuyến
và anh Khôi là những người ở cùng pḥng với tôi vẫn đối xử tử tế với
tôi như thường. Tôi bước vào pḥng trong, ông già Tuyến người Quảng
Ngăi nằm trong góc đă đi ngủ. H́nh như ông bỏ về trước, không dự hết
cuộc đấu tối tôi. Tôi nhai mấy viên Ka-vét rồi để nguyên áo quần
đang mặc đi nằm. Tôi mệt và chán. Tôi không muốn suy nghĩ và tính
toán ǵ nữa. Tôi cũng chẳng cần t́m cách đối phó như thế nào về sau
này nữa, và cũng chẳng cần t́m hiểu xem người ta sẽ xử sự với tôi ra
sao nữa. Chán và mệt lắm rồi.
Cô y tá trực xách cái đèn bao đi vào. Lần này cô không đong đèn nh́n
vào giường tôi như mọi khi nữa. Ông già Tuyến trở ḿnh ho, rồi lẹt
xẹt mở cửa đi ra ngoài.
Tôi nhớ mẹ tôi, tôi nhớ nhà, tôi khóc.
Năm đó tôi ba mươi tuổi.
***
Tôi nhớ rơ một hay ba ngày sau, khoảng 7 giờ sáng, bà Quy, bác sĩ
chủ nhiệm khoa bảo tôi:
“Anh chuẩn bị sáng nay về Cục. Giấy tờ và thủ tục chúng tôi đă làm
xong. Anh cứ đợi đây. Bao giờ tôi vào báo anh sẽ đi”.
Lát sau, bà ta quay trở lại đưa giấy tờ cho tôi:
“Xe đợi anh ngoài cổng”.
Tôi chào ông già Tuyến. Ông đưa trả tôi mấy cuốn sách, những cuốn
b́a đỏ của Mao Trạch Đông bằng tiếng Pháp. Tôi nói:
“Bác cứ giữ mà đọc”.
Ông già lắc đầu:
“Cái thằng...”
Rồi ông hỏi tôi:
“Mầy đi đâu hả Đính?”
“Dạ, họ nói về Cục”.
Tôi bước ra ngoài pḥng, không có ông già Giác. Tôi không chào ai
hết. Mọi người bây giờ coi như không có tôi.
Tài xế là một thanh niên rất trẻ có râu quai nón. Suốt dọc đường từ
Sơn Tây về Hà Nội tôi và anh ta không nói ǵ với nhau. Sau này rất
lâu t́nh cờ tôi gặp anh ở Hà Nội. Anh ta chào tôi rất vui vẻ. Anh ta
nói: “Anh biết không, lúc đưa anh về Hà Nội, trở về Sơn Tây tôi bị
mấy ông tra hỏi đủ điều. Họ hỏi tôi trên đường đi anh đă nói ǵ với
tôi, và tôi đă nói ǵ với anh. Tôi nói là anh có mời tôi hút thuốc,
nhưng tôi lại không hút thuốc”.
Xe ngang qua nghĩa trang Mai Dịch, tôi chợt nhớ lại trong trận tra
vấn tôi có một ông đă hỏi:
“Anh quá tệ đi anh Đính ạ. Anh nói xấu cả những đồng chí lănh đạo
của ta đă chết chôn ở nghĩa trang Mai Dịch nữa”.
“Tôi có nói thế đâu”.
“Anh không bao giờ thành khẩn hết. Đây này, có phải là anh đă viết:
“...ở cái chết con người cũng không được b́nh đẳng. Cứ tùy theo tiêu
chuẩn bao nhiêu thịt, bao nhiêu đường, bao nhiêu sữa mỗi tháng, mỗi
ngày mà kẻ chết đi, người th́ được chôn ở nghĩa trang Mai Dịch, kẻ
th́ ở Văn Điển”. Chắc anh cũng biết nghĩa trang Mai Dịch là nơi dành
cho những đồng chí lănh đạo có công lớn với cách mạng với nhân dân
với đất nước?”
Đến Cục đón tiếp cán bộ B ở 11 Hoàng Hoa Thám, tôi vào tŕnh giấy
tờ. Đến lúc này, tôi cũng không biết người ta sẽ c̣n làm ǵ tôi nữa.
Chắc chắn là tôi sẽ bị khảo tra nhiều lần nữa, nhưng không biết bằng
cách nào. Tôi có cảm tưởng cơ thể của tôi như bị mất cân bằng. Tôi ở
trong trạng thái của một người bị bắt buộc phải làm việc quá nhiều,
nhưng các thớ thịt không căng lên mà lại giản ra, máu lưu thông
không đều; tất cả như dồn tại một chỗ trong đầu. Tôi cứ muốn mửa.
Tôi vào pḥng làm việc để tŕnh giấy tờ. Một anh chàng rất trẻ,
trắng trẻo ngồi sau bàn giấy sát cửa ra vào, chào tôi:
“A, anh Đính”.
Anh ta tên Ninh, người Quảng Nam, có quen tôi lúc ở K65. Anh ta bị
thương ở trán, phía trên thái dương trái hỏm vào một lỗ bằng đồng
bạc kênh năm xu. Nắng mưa ǵ anh ta cũng đội cái mũ cát dạ để giữ ấm
đầu và đề pḥng có va chạm. Hầu hết những người làm việc ở Cục đón
tiếp cán bộ B này là người miền Nam, trong số này phần đông ở chiến
trường ra chữa bệnh hoặc an dưỡng. Những người này nhờ quen biết
thân thế vận động xin được làm việc ở đây để khỏi vào lại chiến
trường và để được hưởng các tiêu chuẩn chế độ của cán bộ miền Nam.
Anh chàng này cũng thế. Cha anh ta là một cán bộ cao cấp không muốn
cho con trở lại chiến trường nên xin chuyển anh ta về làm việc ở
đây.
Anh ta chỉ cho tôi vào pḥng trong để tŕnh giấy tờ. Pḥng trong chỉ
có một người đàn ông đứng tuổi ngồi sau bàn giấy. Những bàn chung
quanh đều vắng người. Ông ta cầm xấp giấy tờ của tôi liếc qua rồi
cất giọng:
“Anh tạm ở đây, chờ các anh ở trên giải quyết. Bây giờ anh để đồ đạc
và nghỉ ngoài hội trường. Các tiêu chuẩn của anh căng tin sẽ giải
quyết. Nếu anh đau, anh ra dăy nhà sau đến pḥng y tế. Cơm trưa của
anh tôi đă báo. Tiêu chuẩn ở đây một đồng hai một ngày. Tiền c̣n
thừa (bốn hào) sau này anh sẽ truy lănh. Buổi sáng anh phải tự túc,
v́ ở đây là cơ quan làm việc”.
Hai ba người bước vào pḥng cười nói, giọng Quảng, giọng Thừa Thiên,
giọng Bắc... rồi tiếng máy chữ lóc cóc, tiếng gọi nhau ngoài hành
lang, ở pḥng ngoài...
“Thế mà tôi cứ tưởng anh hy sinh rồi chứ? Đến đây làm ǵ thế? Lại
tiêu chuẩn chế độ chứ ǵ hay t́m người chứng để cưới vợ... ha ha...
Thôi, thôi, ngồi đây, ngồi đây, uống trà nói chuyện cái đă”.
“Ê, chuẩn bị đi phép phải không? Xuống nhận tiêu chuẩn tế cho rồi”.
Người đàn ông đứng tuổi nh́n tôi nói:
“Thế này nghe anh Đính. Về đây tạm thời anh không được đi đâu hết,
chỉ ở tại đây, chờ ư kiến của các anh. Thôi, anh ra hội trường
nghỉ”.
Ở hội trường cũng có một vài người (đều là cán bộ ở chiến trường) ở
xa đến liên hệ công tác nằm chờ. Tất cả đều nằm trên ghế băng. Tôi
kéo mấy cái ghế băng sát vào nhau gần cửa ra vào và cạnh cửa sổ làm
chỗ nằm. Tôi chắc thằng Ngô, thằng T́nh, bà Ngọc Trai, ông Doăn
Triều đă biết chuyện của tôi. Sắp Tết rồi. Chắc chắn những ngày tết
tôi phải bó rọ ở đây một ḿnh.
Hai hôm sau, người ta báo cho tôi chuyển chỗ ngủ. Phía bên kia đường
Hoàng Hoa Thám, đối diện với Cục đón tiếp hơi chếch về phía Hà Nội,
vào sâu trong hẻm có một dăy nhà mới xây làm nhà khách dành cho
những người ở xa đến nghỉ lại. Dăy nhà nhiều pḥng xây trên một cái
hồ rau muống mới được lấp đất. Nhà mái ngói, phên tre trát vữa,
chung quanh c̣n ngổn ngang những ụ đất đá, những đống vôi vữa bỏ dở
đọng nước mưa, và tre nứa, gạch ngói vỡ rải khắp sân. Đất chỉ lấp
phần nền để làm nhà, vẫn c̣n lại một phần hồ rất rộng, ban đêm ếch
nhái kêu um nghe tức ngực. Đoạn đường từ con đường hẻm cũ vào nhà
phải đổ cát lấp những hố bùn. Hai bên con đường hẻm này có một hai
cái nhà nhưng mặt xây ra đường Hoàng Hoa Thám nên không có cửa ngơ.
Cuối hẻm là một cái dốc, nhà thằng Ngô Thế Oanh ở sau đó, khuất sau
những cây to. Tôi đă ngủ lại nhà thằng Oanh một hai lần rồi.
Căn pḥng tôi ở có khoảng sáu giường, đi ngoài ngơ vào là pḥng đầu
tiên của dăy nhà. Có lẽ tôi là người đầu tiên đến ở đây. Tôi nằm
giường ngoài cạnh cửa sổ ngó ra đường. Mưa lất phất và lạnh. Ông gác
cổng Cục đón tiếp, người Nam bộ, đưa cho tôi một ổ khóa và dặn tôi
khi nào đi ăn cơm nhớ khóa cửa. Ông ta nói với tôi, giọng Nam bộ pha
Bắc:
“Mấy anh dặn tôi nói lại với anh là anh ở đây và không được đi đâu
hết. Đến giờ, anh sang bên Cục ăn cơm”.
Tôi bỏ đồ đạc lên giường rồi ra ngồi trên bực cửa. Mùi vôi và xi
măng mới hơi khó chịu. Chung quanh nhà không có cây cối ǵ cả. Không
có cửa ngơ, chỉ có một băi đất trống rộng mở ra đường, chằng chịt
vết bánh ô tô nước đọng thành những vũng dài. Con đường trước mặt
thỉnh thoảng lắm mới có người đi qua. Không có một thứ tiếng động
nào cả, không nghe tiếng người nói, chỉ có tiếng ô tô chạy ngoài
đường Hoàng Hoa Thám. Tất cả đều trống không và tôi một ḿnh. Tôi
ngồi ngó mưa như rắc bụi trên những vũng nước. Tôi lượm một mảnh
ngói ném ra giữa sân, một mảnh rồi hai ba bốn mảnh ngói, vôi vữa
chết đóng cục. Không c̣n cái ǵ để làm nữa, tôi cứ ngồi yên ngó ra
ngoài. Gần một buổi sáng và hết cả ngày, hết ngồi lại nằm, tôi cứ
loanh quanh luẩn quẩn một ḿnh tôi thế này. Ăn cơm xong, trưa chiều,
tôi trở về lại đây, mở cái cửa duy nhất của pḥng này, tôi ngồi ngó
ra giữa trời đất. Trời c̣n mưa lất phất, tôi mặc thêm cái áo vệ
sinh. Cái áo bông vẫn chưa đủ ấm. Buổi chiều lại yên tĩnh và trống
trải hơn nữa. Tôi trông trời mưa thật to, mưa ào xuống nước chảy
không kịp tràn cả sân và chim, một vài tiếng chim, chim se sẻ vừa
nhảy vừa hót trên sân, rồi chợt vụt bay rồi kêu toáng lên v́ có bóng
người. Nhưng không có ǵ hết. Một ḿnh tôi, đầu óc tôi mệt mỏi, chán
nản. Đêm đến, ngoài ánh sáng của ngọn đèn điện trong pḥng hắt ra
sân một vạt và tiếng ếch nhái, c̣n th́ tối đen hết. Tôi thèm một
miếng nước trà, nhưng không có nước sôi và ấm chén. Tôi nhai mấy
viên Ka-vét cho cái bụng đỡ cồn cào. Gần nửa đêm th́ điện cúp.
Sáng hôm sau, cái ông dưới bốn mươi tuổi tôi tạm đặt tên Thanh cho
dễ gọi, cái ông đă khảo tra tôi ở K 65, đến gặp tôi. Ông ta nói:
“Anh theo tôi lên đây làm việc. Nhớ mang theo giấy bút”.
Tôi theo ông ra đường cái.
“Anh lên đây tôi lai”.
Ông ta chở tôi về phía Hà Nội. Gần đến vườn bách thú, ông rẽ sang
một con đường phía bên phải sát đó (tôi không nhớ tên đường). Đi một
đoạn dốc dài dài, ông ta đứng lại trước một dăy nhà một tầng. Ông ta
không nói ǵ hết. Ông dắt chiếc xe Phượng Hoàng nam màu đen lên
thang gác. Tôi đi theo sau. Ông ta dựng xe vào lan can hành lang,
khóa lại, rồi mở cửa một căn pḥng ở cạnh lối xuống thang gác.
“Anh vào đây”.
Ông ta bật điện và mở cửa sổ. Một cái bàn với hai cái ghế để sát cửa
sổ có màn che bằng vải hoa. Ông ta đi vào trong mang ra một phích
nước. Ông ta chế trà.
“Anh ngồi xuống đi”.
Tôi kéo ghế ngồi xuống. Ông đẩy một tách nước về phía tôi.
“Anh uống nước”.
Tôi lấy thuốc hút và uống nước. Ông ta vẫn mặc cái áo đại cán bằng
nỉ màu đen, khăn quàng cổ ca rô xanh hồng đen trắng. Cái mũ lưỡi
trai bằng nỉ kiểu Liên Xô cũng màu đen luôn luôn trên đầu. Ông ta
xoa tay, rồi đặt hai bàn tay vào nhau lên kẹp đựng giấy tờ. Ông ta
bắt đầu nói, trong lúc tôi dựa ngửa người lên ghế và duỗi chân ra
dưới bàn.
“Chúng tôi đưa anh về đây là để tiếp tục làm việc với anh. Hiện nay
quần chúng, cán bộ và Đảng viên ở K65 hết sức bức xúc, để anh ở đó
chúng tôi xét thấy không có lợi. Số phận và tương lai của anh bây
giờ là do anh quyết định đó. Anh chưa nói hết và thành thật với
Đảng. Đây là cơ hội cho anh hối cải. Anh phải nói hết, nói thật, chỉ
có cách đó anh mới cứu được anh. Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ
chạy lại. Đảng rất độ lượng, mặc dù anh đă có những thái độ và hành
động chống Đảng. Chúng tôi biết anh đang ở trong một t́nh trạng hết
sức căng thẳng. Chúng tôi tạo điều kiện cho anh suy nghĩ thật đúng
đắn về những việc làm của anh trước kia. Chúng tôi tin anh sẽ tỉnh
ngộ và phải tỉnh ngộ để được hưởng lượng khoan hồng của Đảng”.
Ông ta nói, nói rất nhiều. Ông nói như giảng nghị quyết. Cách mạng
miền Nam đang thắng lớn. Miền Bắc vừa đang ra sức xây dựng chủ nghĩa
xă hội, vừa đổ hết sức người sức của chi viện cho miền Nam, đồng
thời hoàn thành nghĩa vụ quốc tế của ḿnh đối với hai nước bạn anh
em là Lào và Campuchia. Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trước
mắt nhân dân ta có những khó khăn nhất định, nhưng thuận lợi là cơ
bản. Nhân dân tiến bộ khắp hoàn cầu, kể cả nhân dân lao động tiến bộ
Mỹ và các nước tư bản, đều đứng về phía chúng ta. Chúng ta có hai
nước hậu phương lớn là Liên Xô và Trung Quốc vĩ đại cùng các nước xă
hội chủ nghĩa anh em khác đang hết ḷng hết sức ủng hộ và giúp đỡ
chúng ta. Đảng ta vĩ đại, nhân dân ta anh hùng, chúng ta nhất định
thắng. Sự thất bại của đế quốc Mỹ và bè lũ ngụy quyền tay sai là tất
yếu và chỉ c̣n là vấn đề thời gian v.v...
Ông ta nói nữa:
“Những người như anh cách mạng miền Nam đang cần. Tôi tiếc là anh đă
phạm những sai lầm quá nghiêm trọng. Nhưng chưa muộn đâu anh Đính ạ.
Chúng tôi muốn cứu anh, muốn cho anh trở nên người có ích cho xă
hội. Cho nên điều tốt nhất, là anh phải hết sức thành khẩn trong
việc khai báo. Anh phải nói hết, nói thật, không nên giấu giếm một
việc, một điều ǵ hết. Anh phải biết rằng hôm ở K65 có những điều
anh nói xấu Đảng, các đồng chí lănh đạo và cán bộ Đảng viên, chúng
tôi đă không cho anh chị em biết. Nếu họ nghe được th́ chưa biết
việc ǵ sẽ xảy ra như thế nào đối với anh. Riêng tôi, tôi tin rằng
con người anh có thể cải tạo được. Anh phải trở thành một con người
tốt”.
Ông ta nói có đến 20 phút, nửa giờ. Ông ta nói lúc nhanh, lúc chậm,
lúc như b́nh thản, lúc dằn giọng. Có khi ông ta đứng dậy bậm môi, có
khi ông ta nh́n ra ngoài qua khoảng trên tấm màn che cửa sổ.
“Hằng ngày anh sẽ lên đây làm việc với tôi. Mọi việc sẽ được giải
quyết nhanh hay chậm là do anh. Điều mà chúng tôi yêu cầu anh phải
nói rơ là về mặt tư tưởng và ư thức, lập trường, anh phải nói hết
những suy nghĩ của anh về chế độ, về miền Bắc, về chiến tranh, về
Đảng v.v... Thứ hai là những việc làm của anh khi ra miền Bắc. Ai đă
giao nhiệm vụ này cho anh, những người đó hiện nay ở đâu, đang làm
ǵ. Công việc của anh đă tiến hành đến đâu, và trong dự định anh sẽ
hành động như thế nào? Thứ ba là mối quan hệ của anh trong những
ngày ở miền Bắc. Anh giao tiếp với ai, quan hệ với ai? Anh đă tổ
chức họ như thế nào v.v.. Tôi sẽ nói cụ thể hơn về những vấn đề này
lúc làm việc với anh, bây giờ tôi chỉ gợi ư. Trước hết anh viết cho
chúng tôi một bản kiểm điểm. Chúng tôi sẽ căn cứ vào bản kiểm điểm
của anh để xem xét thái độ của anh có thành khẩn hay không, có trung
thực hay không? Chủ yếu trong bản kiểm điểm này có hai điểm quan
trọng mà anh phải tŕnh bày rơ là tư tưởng và hành động của anh. Anh
nhớ, tự anh phải đề ra một phương hướng sửa chữa những sai lầm của
ḿnh. Hằng ngày tôi sẽ đưa anh lên đây làm việc. Anh cứ viết, bao
giờ xong chúng tôi sẽ xem lại và góp ư. Mấy ngày cũng được, để cho
anh thư thả và có th́ giờ suy nghĩ. Chúng tôi không hạn chế thời
gian”.
Ông ta lấy trong cặp giấy ra đưa cho tôi một xấp giấy kẻ ngang màu
vàng.
“Anh có bút rồi chứ? Giấy và mực đây. Buổi trưa, buổi chiều về ăn
cơm anh để lại tất cả giấy tờ ở đây. Tôi nhắc lại để anh nhớ. Trong
thời gian làm việc với tôi, anh không được đi đâu cả, không được
tiếp xúc với bất cứ một người nào. Tôi sẽ đưa anh đến đây và đến giờ
ăn tôi sẽ đưa anh về. Anh cần ǵ cứ báo cho tôi hoặc những đồng chí
ở Cục biết. Nếu đau ốm anh đến pḥng khám bệnh của Cục, mà ở đây
cũng gần Viện E2. Thuốc chữa bệnh anh sẽ được cấp phát đầy đủ”.
Đến trưa ông ta chở tôi về 11 Hoàng Hoa Thám. 1 giờ 30 chiều ông lại
đạp xe về chở tôi lên. Đến chiều, tôi nói với ông:
“Anh để tôi đi bộ cũng được. Đây với đó không xa lắm”.
Ông ta cắn môi, một lát sau bật miệng:
“Thế cũng được”.
Nhiều buổi ông ta đi đâu chỉ c̣n một ḿnh tôi ngồi trong pḥng. Tôi
cũng không biết dăy nhà một tầng này là cơ quan nào, dùng để làm ǵ
nữa. Có điều chắc chắn là giữa cái nhà câm lặng này và Cục đón tiếp
không có một quan hệ công tác nào cả. Suốt thời gian tôi đến đây ít
khi tôi thấy người ra vào. Dăy gác này các cửa pḥng đều đóng kín.
Thỉnh thoảng có một hai người đi ngang qua pḥng tôi ngồi. Tôi đoán
căn pḥng tôi đang ngồi đây là một pḥng vừa ở vừa làm việc. Căn
pḥng này nhỏ, chiều rộng hơn 3 mét. Một cái tủ đứng bằng gỗ tạp và
một bức màn vải hoa xanh đỏ đă cũ che không hết phía sau căn pḥng.
Phía sau không biết dài rộng bao nhiêu, luôn luôn tối, chắc là chỗ
ngủ. Khoảng kê bàn để tiếp khách và làm việc rộng khoảng 7 đến 8 mét
vuông.
Trong thời gian ở đây, thỉnh thoảng giữa chừng cuộc tra vấn ông ta
mời tôi ăn bánh kẹo uống nước trà và nói chuyện, chuyện nói bao giờ
cũng như vừa tâm sự vừa khuyên nhủ.
“Tôi tiếc cho anh... những người như anh là nằm trong hướng đào tạo
của Đảng...”
Có khi ông ta trong câu chuyện như t́nh cờ hỏi thăm về gia đ́nh của
tôi, anh em nội ngoại, bà con họ hàng hiện nay ở Huế sống ra sao; từ
ngày thoát ly đến nay tôi có liên hệ hoặc gặp gỡ họ đến không, cuộc
sống của họ thế nào... Tôi nói hết cho ông ta nghe, và ông ta có lần
khi không hỏi:
“Anh thấy Sài G̣n thế nào?”
Tôi cười:
“Tôi chưa bao giờ vào Sài G̣n”.
“Thế anh so Huế với Đà Nẵng th́ thế nào?”
“Tôi cũng chưa bao giờ vào Đà Nẵng”.
Tôi biết ông ta không tin, nhưng hơi sức đâu mà nói thêm nữa. Ông ta
ậm ừ ǵ đó trong miệng, rồi gật gật cái đầu hỏi nữa:
“Anh có bà con anh em ǵ ở Sài G̣n hay Đà Nẵng không?”
Tôi cười hứ một cái:
“Không”.
Ông ta hỏi những câu như thế bao giờ cũng làm như hỏi cho vui để qua
th́ giờ trong lúc ngồi uống nước. Có lần ông ta nói là ông ta chưa
thấy Huế bao giờ và bảo tôi kể sơ qua về Huế cho ông nghe. Tôi biết
qua cách kể và nhận xét của tôi về một thành phố địch tạm chiếm ông
ta sẽ đánh giá lập trường và quan điểm của tôi. Đang chừng câu
chuyện ông ta hỏi:
“Bạn bè của anh có ai làm việc cho địch không?”
Tôi không cho câu hỏi này là ngây thơ hay t́nh cờ một chút nào hết.
Tôi nói:
“Bạn bè tôi người nào đă đi làm việc đều làm việc cho địch hết”.
“Thế có ai là sĩ quan ngụy không?”
“Lính cũng có mà sĩ quan cũng có”.
“Bây giờ chắc có người đă lên đến cấp tá”.
“Hiện nay th́ tôi không biết. Lúc tôi thoát ly, bạn bè tôi có người
đă là trung úy”.
“Phần đông họ ở binh chủng nào?”
“Hải lục không quân đều có. Đa số là ở bộ binh”.
Một ngày hai buổi trong khoảng một tuần ngày nào tôi cũng phải leo
lên cái thang gác lộ thiên vào ngồi trong căn pḥng này để kiểm điểm
với cái ông Thanh này. Khoảng 10 giờ trưa ngày thứ hai, tôi đưa cho
ông ta bản kiểm điểm. Ông ta bỏ bản kiểm điểm của tôi vào kẹp giấy.
“Được tôi sẽ góp ư và bổ sung thêm. Bây giờ anh có thể về sớm”.
Trời vẫn mưa lâm thâm và lạnh. Tôi uống một chén nước cho ấm bụng.
Tôi chưa xuống cầu thang vội, tôi đứng t́ hai tay lên lan can ở hành
lang nh́n qua bên kia đường. Khoảng sân của dăy nhà này rộng, không
có cây cối. Bên kia đường là vườn bách thú. Một khoảng đất dốc của
núi Nùng thấp thoáng sau các tàng lá. Tôi quàng cái áo mưa lên cổ,
bước xuống thang gác. Đường Hoàng Hoa Thám thường ít người và ít xe.
Nhà ăn chưa có cơm, tôi quay ra cái quán gần ngơ mua diêm th́ gặp
anh Doăn Triều:
“Anh Triều, anh đi đâu đó?”
Anh Triều trong cử chỉ có vẻ vội vă.
“Về chuyện của mi đây”.
Tôi ngó quanh xem có ai luẩn quẩn không.
“Mầy thiệt là thằng... Bữa trước tao với bà Trai đă bảo mầy về Trại
sáng tác B, mầy không chịu. Mầy nghe tao với bà Trai th́ đâu có
chuyện này xảy ra. Thằng Trác hại mày chớ ǵ nữa”.
“Tôi nói thật với anh, tôi muốn trở lại chiến trường. Ra công tác A
th́ khó vào lại lắm.
“Mầy chẳng hiểu ǵ cả. Tao với bà Trai đang t́m cách cứu mày đây.
Tao muốn nhân cơ hội này xin cho mầy về Trại sáng tác B. Nhưng họ
không đồng ư. Họ bảo cần phải theo dơi mầy một thời gian đă. Mầy
thấy khổ chưa. Nghe tao bữa trước là hay rồi”.
“Anh có gặp thằng Ngô, thằng T́nh báo cho chúng nó biết chuyện tôi
với”.
“Ở Hội Văn nghệ một số anh em đă biết rồi. Bây giờ tao cũng chưa rơ
là họ sẽ đưa mầy đi đâu nữa. Bà Trai và tao sẽ t́m cách cứu mầy. Tao
sợ họ đưa mầy đi K3. Mà dám lắm”.
“Tôi bây giờ khó đi đâu và gặp ai hết”.
“Tao biết rồi. Cục 78 đang theo sát mầy. Mầy cứ sống b́nh thường.
Trường hợp có chuyện ǵ mầy cố t́m cách báo cho tao và bà Trai
biết”.
Trước khi chia tay, anh Triều nói:
“Nhớ đừng buồn ǵ hết. Phải cố sống như thường. Bà Trai gửi cho mi
mấy gói thuốc. Tao cũng đem chừng, chưa chắc gặp mi được”.
Cách đó hơn một hai tháng, anh Triều và chị Trai đă lên K65 nói tôi
về công tác ở Trại sáng tác B, mọi thủ tục chuyển tôi đi công tác đă
xong. Tôi không đi, tôi muốn vào Nam. Tôi nhớ mẹ tôi quá. Anh em bạn
bè c̣n trong đó. Nếu ra công tác A (tức công tác ở miền Bắc), th́
trở vào Nam rất khó. Lúc đó anh Triều có giải thích cho tôi rơ tôi
đến công tác ở Trại sáng tác B ở Hà Nội, nhưng vẫn thuộc biên chế
cán bộ miền Nam.
Lúc này tôi không hối tiếc ǵ về việc này. Tự tôi, tôi đă quyết định
như thế.
Suốt thời gian tôi bị tra vấn, thỉnh thoảng có một vài người đến dự
cuộc. Những người này đều đă có mặt trong cuộc thẩm vấn tôi ở K65,
có khi họ đến giữa buổi, có khi họ đến từ đầu. Có người ngồi yên
nghe hoặc chỉ ghi chép; có người th́nh ĺnh trong cuộc đối đáp hỏi
chen ngang một câu. Thường những người này đều có thái độ bực tức
giận dữ ra mặt. Họ đứng dậy chống tay lên mặt bàn hoặc vừa theo dơi
thái độ của tôi, vừa nghếch lên nghếch xuống cái đầu. Giọng lưỡi của
họ bao giờ cũng nạt nộ, dọa dẫm.
“Anh nói không thành thật”.
“Anh c̣n giấu chúng tôi nhiều điều”.
“Không được đâu anh Đính. Anh nên nhớ anh là người có tội. Anh c̣n
trẻ, anh phải nghĩ đến tương lai của ḿnh. Đảng không bỏ anh đâu,
Đảng sẽ khoan hồng, nhưng anh không được giấu Đảng. Đảng biết hết
rồi”.
“Anh là ai? Anh hăy nói thật đi!”
“Anh đă làm ǵ cho địch?”
“Chúng tôi biết hết, anh không qua mặt được chúng tôi đâu”.
Rồi họ lấy những tấm ảnh chụp nhật kư của tôi, những ghi chép mà họ
đă tịch thu của tôi ra, cứ theo cái đà đó, hạch sách, dọa nạt tôi.
Thường họ hay kéo nhau ra ngoài hội ư to nhỏ với nhau, rồi sau đó đi
vào pḥng họ bảo nhau: “Cứ thế... cứ thế... ừ ừ... cứ thế...”
Ông Lai kẻ chủ cḥm cuộc tra vấn tôi thường đến dự cuộc. Một hôm ông
ta đưa cho tôi mấy tờ giấy có chữ đánh máy bảo tôi đọc. Đó là một
bài thơ, không ghi tên tác giả, nhan đề là “Cảnh tượng”. Tôi chỉ nhớ
đại ư man mán: vào một ngày mùa hè nóng dữ dội, một chàng thi sĩ
bước vào một vườn hoa, có một bông hoa đỏ rực. Thi sĩ đi khỏi vườn
hoa và lạc vào một khu vườn hoang, ở đó có một cây ngọc lan đang ra
hoa, nhưng tầm gởi và gai gốc bám đầy. Một con cú quàng khăn đỏ đang
đậu trên cành. Thi sĩ đang bàng hoàng th́ một con mèo đen ở đâu đó
xuất hiện. Thi sĩ hoảng hốt bỏ chạy...
Ông Lai hỏi tôi
“Anh biết tác giả bài thơ này chứ?”
“Tôi không biết”.
“Anh thấy bài thơ này thế nào?”
“Đó là một bài tả cảnh”.
Và ông ta không hỏi ǵ thêm nữa. Có thể họ tin tôi không biết người
làm ra bài thơ này thật. Bài thơ này của Nguyễn Hữu Ngô dán trên báo
tường ở Đài Giải phóng (58 Quán Sứ, Hà Nội). Bài này tôi đă đọc lâu
rồi.
Khi tra vấn tôi trong bản kiểm điểm, đến mục quan hệ bạn bè, ông
Thanh hỏi:
“Anh có bạn bè ở Hà Nội không?”
Tôi nói có.
“Đó là những ai”.
“Hồ Thanh [18], Nguyễn Hữu Ngô”.
“Họ là người thế nào?”
“Bạn cũ của tôi ở Huế”.
“Có phải bạn thân không?”
“Bạn thân”.
“Bây giờ họ đang làm ǵ?”
“Công tác tại Đài Giải phóng”.
“Anh có hay đến Đài Giải phóng không?”
“Có”.
“Tư tưởng của những người đó như thế nào?”
“Tôi không biết”.
“Bạn bè thân với nhau mà anh lại nói không biết”.
“Làm sao tôi biết hết họ được”.
“Thế anh thường trao đổi với họ về những điều mà anh đă viết trong
nhật kư không? Cụ thể là thế này, có khi nào anh trao đổi với anh
Ngô, anh Thanh và những người khác nữa những suy nghĩ của anh về
miền Bắc, về chế độ xă hội chủ nghĩa, về Đảng, về chiến tranh vân
vân... Và ư kiến của họ như thế nào? Họ có đồng ư với anh không?”
Tôi nói ngay:
“Chúng tôi lâu lâu mới gặp nhau và mỗi lần gặp nhau thường nói đủ
thứ chuyện. Tất nhiên trong câu chuyện thường cũng hay nói đến những
suy nghĩ của ḿnh về miền Bắc, về chủ nghĩa xă hội, về Đảng... và
việc đồng ư hoặc không đồng ư với nhau về một điểm nào đó là chuyện
thường”.
“Thí dụ họ đă đồng ư với anh về những điều ǵ?”
“Làm sao tôi nhớ hết được”.
Vẻ bực tức và giận dữ của ông Lai lộ ra ngay trong cử chỉ và thái
độ. Ông ta hứ một tiếng. Đến nước này tôi chẳng cần phải giữ ư tứ ǵ
nữa. Mặc kệ, họ muốn làm ǵ tôi th́ làm.
Buổi chiều ngày tôi nộp bản kiểm điểm, tôi lên lại căn pḥng này.
Lúc đó, ông Thanh vừa mới ngủ dậy. Ông bảo tôi rót nước pha chè
uống. Ông lấy mấy tờ Nhân dân, Quân đội Nhân dân để giữa bàn, rồi
bảo tôi ông đi có việc một lát sẽ trở về.
Tiếng mở khóa xe đạp nghe cách một cái, ông ta vác xe xuống thang
gác. Giữa chừng thang gác phần lộ thiên một cô gái bước lên. Ông ta
dừng lại nói ǵ với cô ta rồi đi xuống. Ông ta đạp xe về ngă Ba
Đ́nh. Tôi nghe tiếng dép nhựa lóc cóc trên thang gác, rồi lẹt xẹt
ngoài hành lang. Cửa pḥng vẫn mở. Cô gái ngó vào như t́nh cờ. Thỉnh
thoảng cô lại đi ngang qua pḥng tôi ngồi, khi cầm tờ báo, khi xách
phích nước. Tôi cầm mấy tờ báo lật qua lật lại. Dăy nhà này không
biết dùng để làm ǵ mà yên tĩnh thật. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng
người nói ở tầng trệt. Cũng không thấy xe cộ ra vào. Không thấy bóng
trẻ con. Tôi hút thuốc, uống nước. Có lẽ ông Thanh này chưa bao giờ
vào chiến trường. Ông ta tập kết ra Bắc rồi làm việc luôn từ đó đến
nay. Chắc ông ta ở ban bảo vệ Đảng của Ban Thống nhất Trung ương.
C̣n căn pḥng này, có lẽ ông ta mượn để làm việc với tôi. Ngoài ông
ta ra, không bao giờ tôi thấy một người nào ở trong pḥng này. Tôi
nh́n lên bức tường trước mặt. Ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng khoác áo
đưa tay chào, phía dưới là những ảnh màu chụp người, nhà cửa, xe cộ
cắt từ báo ảnh Liên Xô. Anh Triều có nói người ta dám đưa tôi đi K3
lắm. K3 là trại cải tạo những phần tử xấu, phản động ở Quảng B́nh.
Tôi cũng chỉ nghe nói thế, nhưng không biết cái K3 này như thế nào?
Hồi mới ra Hà Nội, tôi gặp thằng Ngô, thằng T́nh, Út (Ư Nhi) đang
đứng trước veranda [19] của Đài Giải phóng ở 58 Quán Sứ, tôi nói với
thằng Ngô: “Rứa mà tụi hắn đồn mi bị đưa ra Bắc là để đi cải tạo ở
K3 Quảng B́nh”. Thằng Ngô đẩy cái kính cận thị sát mắt: “Thiệt hả
mi? Tụi hắn đồn rứa hả mi?”, rồi hắn ngửa mặt lên trời cười ha ha
rất sướng.
Một tiếng đồng hồ sau, ông mà tôi tạm gọi là Thanh này trở lại. Ông
ta dắt xe lên thang gác, dựng xe vào lan can ngay trước cửa, khóa
lại, cầm túi xách, đi thẳng vào sau pḥng. Ông ta trở ra một tay cầm
một cặp giấy, một tay xách cái bót da màu đen. Ông ta để cặp sau
lưng ghế, rồi lật cặp giấy, rút bản kiểm điểm của tôi ra để lên bàn.
“Tôi đă đọc bản kiểm điểm của anh rồi. Anh đă viết theo dàn bài mà
tôi gợi ư. Nhưng vẫn c̣n nhiều, rất nhiều chỗ cần phải viết lại. Tôi
đă nói với anh nhiều lần, chúng tôi muốn cứu anh. Chúng tôi đă tạo
điều kiện cho anh thấy rơ những sai lầm của ḿnh để có phương hướng
sửa chữa. Anh nên hiểu rằng đối với những trường hợp như anh thường
người ta có ngay biện pháp xử lư. Và, chúng tôi chỉ cần thực hiện ư
kiến của tập thể anh chị em ở K65 đối với anh là đủ. Nhưng chúng tôi
không làm như thế. Chúng tôi tin con người anh có thể cải tạo được.
Anh sẽ trở nên một người có ích mà cách mạng miền Nam đang cần”.
Ông ta đưa bản kiểm điểm cho tôi và nói tiếp:
“Anh viết c̣n thiếu nhiều lắm. Anh chưa thật sự thành khẩn và không
cụ thể”.
Ông ta bảo tôi đọc bản kiểm điểm. Trong bản kiểm điểm của tôi, nhiều
chỗ bên lề và phần giấy c̣n lại có những chữ ghi chú nhằm sửa sai
tôi của ông ta.
Bản kiểm điểm của tôi có ba phần: A- Tóm tắt lư lịch; B- Phần kiểm
điểm; C- Phương hướng sửa chữa. Tôi ghi lại dưới đây bản kiểm điểm
của tôi (bản thảo) đă được ông Thanh này góp ư sửa chữa nhiều lần.
A- Tóm tắt lư lịch.
Họ và tên: Nguyễn Đính, tên riêng: Nhân.
Làm thơ lấy tên Trần Vàng Sao.
Sinh ngày.............. tại...............
B- Phần kiểm điểm.
Sau khi đă được các đồng chí ở Cục đón tiếp cán bộ B [20] và tập thể
K65 góp ư kiến và phân tích, tôi đă nhận thấy rơ những sai phạm về ư
thức, tư tưởng có tính phản động của ḿnh, tôi tự kiểm điểm ḿnh như
sau:
Bằng nhật kư, những ghi chép khi đọc sách, thư từ và thơ văn, tôi đă
biểu lộ những tư tưởng và suy nghĩ [21] chống Đảng, nói xấu các đồng
chí lănh đạo ở Trung ương, xúc phạm lănh tụ, mạt sát các Đảng viên,
xuyên tạc chế độ xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhận thức sai lầm về
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước hiện nay; khinh miệt giới văn
nghệ sĩ và tri thức miền Bắc.
1) Đối với chủ nghĩa xă hội ở miền Bắc
- Về chuyên chính vô sản.
Một thắc mắc đă có trong đầu óc tôi khi ở miền Bắc là những điều đă
nói trong kinh điển về chuyên chính vô sản và sự thực thi chuyên
chính vô sản ở miền Bắc là hoàn toàn trái nghịch nhau. Chuyên chính
vô sản và sự lănh đạo của Đảng không phải là một. Staline khi đấu
tranh chống lại bọn cơ hội trong Đảng đă xác định rơ (về mặt lư
thuyết) rằng: Nếu như Lénine có lần nói “chuyên chính của Đảng” là
muốn nói Đảng không chia quyền lănh đạo với một phe phái nào khác,
v́ chuyên chính vô sản là chuyên chính của giai cấp vô sản đối với
các giai cấp phản động chống đối cách mạng. C̣n nếu “Đảng chuyên
chính” th́ chuyên chính với ai, không lẽ lại chuyên chính với giai
cấp đang nắm chính quyền là giai cấp vô sản. Staline đă xác định
điều đó là sai lầm, không thể coi sự lănh đạo của Đảng và chuyên
chính vô sản là một (xin xem Staline toàn tập, tập 6) [22].
Khi ở miền Bắc, tôi có cảm nghĩ là miền Bắc đă vi phạm nguyên tắc
kinh điển đó. Tôi cho là Đảng đă với tay quá dài ra khỏi quyền lănh
đạo của ḿnh để xâm phạm vào quyền chuyên chính của giai cấp vô sản.
Ở các Đảng bộ cơ sở, tôi cảm thấy h́nh như cách làm việc có tính
quan liêu, mệnh lệnh của những đồng chí lănh đạo đă thể hiện sự vi
phạm nguyên tắc đó. Quyền hạn của chi bộ, Đảng bộ to quá, lấn áp cả
quyền hành chính. Quần chúng muốn được tiếng là tiến bộ th́ không
dám phê b́nh thẳng Đảng viên, cấp ủy. Như thế, tôi kết luận, ở miền
Bắc chỉ có chuyên chính của Đảng, chứ không phải là chuyên chính của
giai cấp vô sản. Và chuyên chính của Đảng đó thực chất là chuyên
chính của Trung ương. Giai cấp vô sản, rơ ra là chuyên chính của
giai cấp này, không có thực quyền.
- Về kinh tế.
Tôi cho rằng miền Bắc khó có thể tái sản xuất mở rộng được. Khu vực
sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất tư liệu tiêu dùng bị
mất cân đối trầm trọng. Vừa tích lũy vốn dành cho khu vực trên, vừa
phải dành cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, lại thêm đất nước có chiến
tranh, đó là một vấn đề nan giải. Trong lúc đó, bất cứ một quan hệ
nào giữa người dân với người dân cũng đều được gọi là quan hệ sản
xuất xă hội chủ nghĩa [23]. Tôi nghĩ rằng muốn có một quan hệ sản
xuất xă hội chủ nghĩa, trước hết phải có hai điều kiện cần và đủ là,
một là lực lượng sản xuất xă hội chủ nghĩa, hai là khối lượng vật
chất tiêu dùng của nhân dân phải có tính xă hội chủ nghĩa. Không có
đủ hai điều kiện đó th́ mọi quan hệ trong xă hội gọi là quan hệ sản
xuất xă hội chủ nghĩa đều là ảo tưởng. Miền Bắc chưa có hai điều
kiện đó. Ăn mặc thiếu thốn, làm ăn bỏ công bỏ việc mà cứ nói quan hệ
sản xuất xă hội chủ nghĩa. Tôi cho như thế là chúng ta đă quá chú
trọng về phía trước mà bỏ quên hiện tại chúng ta đang có nhiều thiếu
thốn khó khăn. Và tôi nghĩ rằng t́nh trạng trộm cắp, gian thương,
những cách làm ăn bê bối trong các cửa hàng mậu dịch, hợp tác xă
buôn bán, ăn uống... do đó mà ra cả.
Tôi cho là nhân dân th́ thiếu thốn, kẻ giàu người nghèo trong xă hội
c̣n nhiều, người có nhiều thịt, kẻ không có thịt mà ăn như thế là
không b́nh đẳng. C̣n lâu nhân dân mới thấy chủ nghĩa xă hội thật sự.
- Về văn học nghệ thuật.
Tôi có thái độ bất kính đối với một số người làm công tác văn học
nghệ thuật ở miền Bắc. Tôi cho họ có tài, nhưng không dám suy nghĩ
độc lập, viết lách theo chỉ thị nghị quyết của Đảng; viết một điều
ǵ sợ mất lập trường hoặc không đủ luận cứ để tŕnh bày th́ họ lại
trích dẫn nghị quyết, lời của các đồng chí lănh đạo. Như thế là họ
nịnh lănh đạo, làm việc miễn cưỡng, thiếu tự do. Họ có tiếng mà
không có miếng. Tôi nghĩ rằng từ cân thịt, lạng đường họ được phân
phối th́ cái kiến thức của họ cũng căn cứ vào đó, lấy đó làm cơ sở,
mà phân phối. Tôi thắc mắc v́ sao trí thức miền Bắc được Đảng và
Chính phủ đào tạo bao nhiêu năm nay lại không viết được một quyển
sách nào về kinh tế, chính trị hoặc nghiên cứu về triết học khả dĩ
có giá trị mà tất cả đều do các đồng chí ở Trung ương. Viết về Bác
Hồ cũng chỉ có đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí Tố Hữu... Cả cái kho
tàng lư luận Marx - Lénine đồ sộ như thế mà các nhà nghiên cứu đă có
cuốn sách nào cống hiến cho nền lư luận chủ nghĩa Marx-Lénine ở Việt
Nam chưa, hay rồi cũng chỉ có Bác Hồ, các đồng chí ở Trung ương, như
cuốn Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng... của đồng chí Lê Duẩn. Tôi mất
tin tưởng ở một số người làm văn nghệ và trí thức ở miền Bắc là v́
thế. Do đó mà tôi đă nói:
“Nếu không có tài đánh giặc th́ miền Bắc chỉ là một vũng nước bùn
lộn cứt”.
Một số cuốn sách và bài báo viết về văn học phản động ở bên Tây hay
ở vùng địch tạm chiếm đă làm cho tôi ít tin tưởng ở sự hiểu biết của
các tác giả về loại văn học này. Tôi cho họ chưa đủ sức để đối đầu
với địch về phương diện này. Tôi nghĩ có chính nghĩa chưa đủ, cần
phải có kiến thức. Về hạn chế sinh đẻ, tôi cho đó là tàn nhẫn. Tôi
ghê tởm chuyện nạo thai. Hạn chế sinh đẻ, tôi nghĩ, chẳng qua là một
cách giải quyết sự thiếu thốn, khó khăn về nhân khẩu.
Đó là những suy nghĩ và tư tưởng hết sức sai lầm và phản động của
tôi. Những điều tôi hiểu trong sách vở chưa thấu đáo, sự liên hệ
thực tế của tôi lại có tính cách xuyên tạc, hơn nữa lại hết sức mơ
hồ và bản thân tôi không t́m ra một chứng cứ cụ thể. Tôi biết một mà
chưa biết hai. Tôi chưa hiểu rơ về sự lănh đạo của Đảng. “Đảng ta là
một Đảng cầm quyền” [24].
Đối với xă hội miền Bắc, tôi không hiểu hết những đặc điểm của nó.
Tôi chỉ thấy khó khăn mà không thấy thuận lợi. Thấy một vài hiện
tượng ở bên ngoài xă hội tôi đă vội vàng kết luận đó là thực chất
của xă hội. Do đó, trong ghi chép, nhật kư, thơ văn của tôi, tôi chỉ
nêu lên những khó khăn, đau đớn, thiếu thốn trong xă hội, mà không
nêu hết cái tốt, cái ưu việt của xă hội. Những sai lầm đó đă dẫn tôi
đến sự mất tin tưởng, bất măn với chế độ [25]. Từ đó, cái ǵ thật sự
là tốt đẹp tôi cũng nói là xấu như vấn đề hạn chế sinh đẻ chẳng hạn.
Cái óc tiểu tư sản vẫn chưa được gột rửa hết những tư tưởng phản
động tiêm nhiễm trong những năm tôi sống trong vùng địch c̣n sót
lại, thêm vào, đó là tính tự cao tự đại của tôi, đă làm cho tôi có
thái độ khinh miệt một số người làm văn nghệ và tri thức ở miền Bắc
và khen bọn Trần Dần, Phùng Quán. Từ đó tôi có tư tưởng chống lại
đường lối văn nghệ của Đảng. Tôi cho các đồng chí Phạm văn Đồng,
Trường Chinh, Tố Hữu... không phải là những chân lư sống của nghệ
thuật. Con người ta có hạn, nghệ thuật th́ lâu dài, không thể căn cứ
vào những lời nói của các đồng chí lănh đạo để làm bằng cứ cho chân
lư của nghệ thuật được.
2) Đối với sự lănh đạo của Đảng
Từ những suy nghĩ về chuyên chính vô sản và nền kinh tế của miền
Bắc, tôi đă có thái độ không tin tưởng ở sự lănh đạo của Đảng.
Tôi cho rằng tất cả những tệ nạn xă hội hiện nay Trung ương đều
biết, nhưng Trung ương bất lực không giải quyết nổi. Tôi nghĩ rằng
Trung ương Đảng chỉ có tài lănh đạo đánh giặc chứ không có kinh
nghiệm về xây dựng chủ nghĩa xă hội, nhất là về kinh tế.
Tôi cho rằng trong cuộc cách mạng của ta, ta chủ trương xóa bỏ giai
cấp, nhưng trong xă hội lại h́nh thành một giai cấp mới, đó là giai
cấp lănh đạo mà Trung ương là đứng đầu. Giai cấp lănh đạo này có
nhiều đường, nhiều thịt sống trên lưng trên cổ nhân dân, ra chỉ thị,
nghị quyết cho những thằng ở dưới.
Từ chống đối, bất măn đó có khi tôi đă nói xấu các đồng chí lănh
đạo. Tôi gọi Tố Hữu, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng là những tên và
trong bài thơ Sân Khấu II tôi đă xúc phạm lănh tụ [26].
Đối với các Đảng viên có lần tôi đă chê bai và mạt sát thậm tệ. Tôi
đă dùng những lời lẽ hết sức vô lễ, hết sức bẩn thỉu như cái chổi
quét nhà, ăn máu tanh đàn bà, cuồng tín để nói về họ. Tôi đă cho
Đảng đă thành công trong việc biến những Đảng viên thành những đinh
ốc, bù loong.
Suy nghĩ như thế, tôi căm tức, tôi cho Trung ương Đảng không biết
hết những cực khổ, nhọc nhằn của nhân dân. Tôi muốn nhân dân phải
biểu t́nh, viết báo chữ to tố cáo những kẻ ngồi trên sung sướng để
nhân dân phải cực khổ, nói rơ những nguyện vọng của ḿnh và nổ súng
vào bọn đầu trâu mặt ngựa.
Những tư tưởng của tôi về sự lănh đạo của Đảng hết sức phản động.
Tôi đă tỏ thái độ căm tức hết sức điên cuồng, không lối thoát. Tôi
đă quên mất rằng, chúng ta đang đánh Mỹ, bất cứ một hành động, một
suy nghĩ nào có phương hại đến chế độ, đến uy tín của Đảng kẻ thù
đều muốn lợi dụng.
Cuốn La nouvelle classe dirigeante của M. Djilas [27] (một tên xét
lại phản động đă từng làm bộ trưởng ngoại giao Nam Tư) mà tôi đă
biết hồi c̣n ở trong vùng địch đă làm cho tôi có suy nghĩ sai về
Đảng là “một giai cấp lănh đạo mới”. Sai lầm của một số Đảng viên đă
làm cho tôi hiểu sai không đúng đắn về Đảng viên của Đảng. Những lúc
suy nghĩ như thế tôi đă quên mất trong bất cứ một cuộc đấu tranh
chống xâm lược hoặc trên một lĩnh vực nào, Đảng viên là những người
đi trước hơn tất cả, là những người đă hy sinh nhiều hơn tất cả.
Tôi thắc mắc về những va chạm trong đường lối của các Đảng anh em
trong phong trào cộng sản quốc tế. Mỗi Đảng đều có một sách lược
riêng, một chiến lược riêng. Ai đúng? Ai sai? Nhưng chính tôi, tôi
cũng rất hănh diện về Đảng ta đă có một đường lối độc lập hoàn toàn,
không phụ thuộc vào một Đảng nào khác. Chính nhiều khi tôi cũng đă
nghĩ con đường từ Mạc Tư Khoa sang Bắc Kinh phải qua Hà Nội.
Thực tiễn của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xă hội ngày nay phải làm cho tôi hiểu rơ điều đó.
Nước ta là nước Việt Nam, Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam, người
sáng lập và đứng đầu là Hồ chủ tịch, ta có đường lối của ta. Cái
tinh túy của chủ nghĩa Marx - Lénine là ở trong cách mạng Việt Nam,
được áp dụng một cách sống động và phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
3) Đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước
Tôi đă mất b́nh tĩnh trước sự kéo dài của chiến tranh. Tôi tin tưởng
nhất định ta sẽ thắng, nhưng nhân dân ta sẽ chết rất nhiều. Tôi bị
ám ảnh bởi sự chết chóc của chiến tranh gây ra. Cuộc đánh nhau ở Nam
Lào đă dằn vặt ư thức tôi. Nam Lào, tôi nghĩ nơi thí điểm của chiến
lược Việt Nam hóa của Nixon. Hắn gieo gió ở đó, và những người Việt
Nam phải gặt băo, phải chết ở đó.
Tôi đă có những tư tưởng căm thù và ghê tởm chiến tranh như thế. Tôi
đă lên án tất cả các cuộc chiến tranh, không phân biệt chiến tranh
phi nghĩa và chính nghĩa. Và tôi đả đảo chiến tranh.
Với những ư nghĩ đó ngay trong bản thân tôi, tôi đă thủ tiêu sự đấu
tranh rồi. Tôi đă quên mất rằng chính sự chết chóc, tàn phá, nô lệ,
tù đày là do đế quốc gây ra. Muốn chấm dứt chết chóc và tàn phá th́
phải đuổi bọn xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cơi nước ta. Muốn thế th́ phải
cầm súng để ngăn chặn chiến tranh phi nghĩa. Thà hy sinh tất cả,
nhất định không chịu làm nô lệ. Không ǵ quư hơn độc lập, tự do.
4) Về quan hệ
Tôi đă trao đổi những thắc mắc, suy nghĩ của tôi để mong có sự đồng
t́nh với một số bạn bè hoặc mới quen khi ra Bắc hoặc đă quen từ
trước trong chiến trường. Và cũng đă có một số bạn bè như Nguyễn Hữu
Ngô, Bùi Đức Mẫn đă có một vài điểm đồng t́nh với tôi. Nguyễn Hữu
Ngô đồng ư với tôi về cái nh́n của tôi về chiến tranh và về sự bất
lực của lănh đạo trước một vài t́nh trạng xấu của xă hội. Mẫn đồng ư
với tôi về nguyên nhân của sự bất b́nh đẳng trong xă hội.
Trong quan hệ với bạn bè như thế, tôi đă gây ảnh hưởng xấu cho họ.
Tôi đă sai trái c̣n làm cho họ sai trái theo tôi.
C- Phương hướng sửa chữa
1. Bằng thực tiễn lao động để tự cải tạo ḿnh [28]
2. Phải t́m hiểu những cái hay cái đẹp của xă hội ta để cải tạo nhận
thức
3. Học hỏi ở các đồng chí chung quanh [29]
4. Đọc sách phải đúng đắn và nghiêm túc hơn nữa. Học tập chủ nghĩa
Marx - Lénine để cải tạo tư tưởng ḿnh.
Nói thật, tôi mệt mỏi và chán lắm rồi, tôi viết cho qua. Suốt ba bốn
ngày, ông Thanh này xoay tôi từng chữ, từng câu, từng ư, gạch bỏ,
thêm bớt, và làm cái việc gọi là gợi ư cho tôi thêm nhiều đoạn nữa.
Tôi viết lại bản kiểm điểm, thêm vào những điểm bổ sung, rồi nộp cho
ông Thanh. Ông ta bảo tôi đọc cho ông ta nghe. Tôi đọc và không cần
để ư đến thái độ của ông ta. Thỉnh thoảng ông ta ngắt tôi và góp ư
thêm bớt. Ngay ở đoạn đầu phần kiểm điểm: “Từ ngày ra Bắc, bằng nhật
kư, những ghi chép khi đọc sách, thư từ và thơ văn, tôi đă biểu lộ
những tư tưởng và suy nghĩ chống Đảng...”, ông ta lắc đầu nói to:
“Tôi đă ghi chú ở ngoài lề là anh phải ghi thêm hai chữ “hành động”
vào, “biểu lộ những tư tưởng, suy nghĩ và hành động” nữa chứ”.
Tôi nói liền:
“Tôi chỉ có tư tưởng, lập trường chống Đảng, chứ không có hành động
chống Đảng”.
Tôi nhất định không làm theo ông ta.
Ông Thanh nói:
“Bản kiểm điểm của anh vẫn chưa đầy đủ. Những điều anh đă nói th́
anh không nói hết, và c̣n nhiều vấn đề anh chưa nói. Sự thành khẩn
của anh chỉ có mức độ. Chúng tôi chấp nhận ngang đó đă. Không phải
anh kiểm điểm như thế là hết đâu. Đó mới chỉ là một bước. Và anh c̣n
tiếp tục làm việc với chúng tôi”.
Có người đứng ngoài hành lang. Ông ta đứng dậy đi ra. Hai người to
nhỏ một lúc. Ông kia nghiêng đầu nh́n tôi, rồi đi xuống cầu thang.
Ông Thanh trở vào:
“Chiều nay anh tạm nghỉ cái đă. Tôi cũng thông cảm cho anh, kể ra
anh cũng căng thẳng. Sáng mai tám giờ anh lại đến gặp tôi”.
Tôi nói:
“Bây giờ c̣n sớm, anh cho tôi đi ra mua ít tờ báo”.
“Được, anh cứ đi, nhưng không được gặp bất cứ một người nào và không
được nói chuyện của anh cho họ biết. Kể từ nay, những ngày ở đây,
anh đi đâu, làm ǵ, quan hệ với ai đều phải báo cho chúng tôi biết.
Tốt hơn hết là anh không nên giao thiệp với bất cứ người nào ở Hà
Nội. Chúng tôi luôn luôn theo dơi sát những hành động và việc làm
của anh. Tôi nói thẳng cho biết. Bây giờ anh cứ đi”.
Tôi vừa bước ra khỏi pḥng, ông ta nói theo:
“Anh nhận đầy đủ các tiêu chuẩn và sinh hoạt phí rồi chứ?”
Tôi nói rồi, rồi xuống cầu thang. Trời tạnh, nhưng c̣n lạnh.
Cái nhà khách mà tôi ở trong những ngày bị khảo tra thường chỉ có
một ḿnh tôi. Lâu lắm mới có một cán bộ miền Nam đến ngủ qua đêm.
Chắc tôi là người đầu tiên và duy nhất ở đây lâu ngày. Một buổi
chiều khoảng 3 giờ, lúc đó tôi đang ngồi đọc báo ở trên giường, một
ông bước vào.
“Chào anh”.
Ông ta trạc năm mươi tuổi, người cao gầy, hơi đen. Ông ta mặc một bộ
đồng phục, áo bốn túi màu vàng đất, đội mũ phớt Liên Xô màu xám. Ông
ta là người trong đoàn khảo tra tôi ở K65 và cách đây mấy hôm ông
cũng có mặt trong pḥng của ông Thanh nọ. Sau tiếng chào, ông ta nói
liền:
“Tôi đến gặp anh và nói chuyện cho vui, không phải đến làm việc với
anh đâu, anh đừng ngại. Tôi biết anh ở Huế và biết nhiều về Huế nên
tôi đến hỏi anh một vài chuyện”.
Ông ta tỏ vẻ thành thật. Nhưng đối với tôi lúc này tất cả những
người thuộc loại này đều không tin. Ông ta nói ông là người Thừa
Thiên, có bà con ở Huế. Chắc ông ta muốn biết tin tức người thân mà
biết đâu tôi biết. Ông hỏi tôi về Huế, về cầu Trường Tiền, chợ Đông
Ba, chợ Bến Ngự, chợ An Cựu..., về sinh hoạt ở Huế, về mức sống của
người Huế. Ông nói:
“Tôi nói thật tôi tiếc cho anh lắm, anh Đính ạ. Những người như anh,
có nhiều điều kiện tiến bộ, tiếc là anh lại vấp vào những chuyện như
thế”.
Nói chuyện một hồi, ông ta đứng dậy nh́n cái pḥng to dài chỉ có một
ḿnh tôi và một dăy giường trống không có chiếu. Ông nói:
“Ở đây, anh dễ tự tử lắm. Nhưng anh đừng có dại”.
Ông bước ra ngoài:
“Tôi đến nói chuyện với anh cho vui, chứ không có ư ǵ hết. Khi khác
sẽ gặp lại anh”.
Ông ngập ngừng ở ngoài cửa dưới mái hiên:
“Kể ra ở đây một ḿnh cũng buồn thật”.
Tôi ra 11A Hoàng Hoa Thám ăn cơm. Cơm ở đây khác với các K điều
dưỡng cho cán bộ miền Nam là có độn ḿ sợi. Lúc này tôi ăn rất nhiều
và rất ngon, nhiều khi không thấy no và có vẻ thèm ăn nữa. Tôi ăn
cơm một ḿnh như mọi người khác. Ai đến trước ăn trước. Người ăn
không đông, độ trên mười người, trừ những ngày có khách, nhưng khách
lại không đều, trưa năm, sáu người, chiều c̣n một hai, hoặc không có
ai, hoặc đông hơn, bất chừng. Tôi là người khách duy nhất thường
trực ở đây. Có khi tôi ngồi ăn chung bàn với người gác cổng. Sau bữa
ăn, thỉnh thoảng ông mời tôi ra pḥng trực cũng là nhà ở của ông,
uống trà hút thuốc nói chuyện.
Tôi nói với ông:
“Nếu tôi ở đây th́ vui biết mấy. Có khi thèm uống trà, ở trong đó
cũng chịu”.
Khi có dịp uống nước với ông, thường bao giờ cũng vào buổi chiều,
tôi ngồi ở đây cho đến sập tối. Tôi ngồi uống nước, c̣n ông ta th́
lục đục làm một việc ǵ đó.
“Anh ở đây c̣n lâu không?” Ông hỏi tôi.
“Tôi cũng không biết nữa”.
“Gần Tết rồi. Anh có đi phép không?”
Tôi lắc đầu. Ông nói:
“Có mấy người quen ở quê ra nhắn tôi gặp nhau một bữa, nhưng chắc là
sau Tết”.
Ông ta nói giọng Nam bộ hơi pha Bắc.
“Anh năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Dạ, ba mươi”.
“Tết mà ở nhà khách th́ buồn chết”.
Rồi tôi trở lại cái pḥng mà người ta đă sắp xếp cho tôi ở trong một
cái hẻm vắng. Một hai ba bốn năm sáu ngày hay mấy nữa tôi cũng không
nhớ, một ḿnh, không quen cũng không được, cứ ăn cơm xong tôi trở
lại đó, một ḿnh, không buồn không vui, không ǵ hết. Tôi cũng không
nghĩ ngày mai người ta sẽ làm ǵ tôi nữa. H́nh như những lúc này tôi
không c̣n chán nản, mệt mỏi nữa. Tôi như một người bị liệt từ năo bộ
đến cơ bắp. Tôi lừ đừ, một ḿnh, một cơi, ngày như đêm, đêm như
ngày, không gặp ai, không thấy ai, không có ai nói chuyện. Chung
quanh tôi, người lạ. Tôi như chết rồi. Chỉ c̣n một bóng dáng ám ảnh,
dày ṿ tôi, đó là mẹ tôi. Và tôi thấy ḿnh c̣n thở.
Nửa đêm thức giấc, tôi không nhớ ḿnh đâu. Tôi tưởng tôi cứ như
thường, tôi thấy ḿnh b́nh yên. Tôi trở dậy, mở toang cửa ra ngồi
ngoài thềm hút thuốc. Không biết mấy giờ rồi. Bây giờ mà có trăng,
ánh sáng sẽ làm cho không khí bớt nặng và tôi có thể nh́n thấy mọi
vật chung quanh, thấy ḿnh bớt vắng lạnh. Nhiều đêm như thế này, tôi
bật đèn, mở toang cửa ra, tôi có cảm tưởng cái ánh sáng th́nh ĺnh
ào ra ngoài đă làm cho đất đá và các vật ngổn ngang ngoài sân kia
vụt thức dậy. Tôi đứng sửng trước cửa như trời trồng. Bây giờ tôi
không c̣n ai nữa, ngoài đất đá và những thứ vô dụng người ta vất bỏ
ngoài kia. Tôi cảm thấy chúng cần thiết và thân mật với tôi lúc này
đây. Cái cảm giác trống không và không nhớ ǵ hết đă bắt đầu trong
tôi từ đây, bây giờ. Rồi đây sẽ có những lúc tôi lang thang giữa
phố, trên các đường làng, ngoài đồng, giữa chợ ở những nơi xa lạ,
một ḿnh, đầu óc trống không, không nhớ ǵ hết. Chỉ có cơn đau dạ
dày làm tôi đặt tay lên bụng và biết rằng ḿnh c̣n sống như thế này
và chung quanh có người.
Tám giờ sáng hôm sau tôi lên pḥng ông Thanh. Tôi ngồi vào cái ghế ở
vị trí hàng ngày tôi ngồi. 10, 15 phút, hai ba ông đến, trong đó có
ông Lai. Bước vào pḥng họ kéo ghế ngồi liền. Ông Thanh rót nước. Họ
nói qua nói lại với nhau những chuyện ǵ đó, coi như không có tôi.
Tôi th́ tôi cứ hút thuốc, uống nước. Trà ở đây bao giờ cũng ngon,
không Thanh Tâm th́ cũng Thanh Hương, Hồng Đào.
“Thôi, chúng ta làm việc, anh Lai nhá!”
Ông Thanh nói.
Ông Lai xoa hai tay vào nhau:
“Trời vẫn c̣n lạnh, khó chịu thật”.
Vừa nói ông ta vừa kéo dịch cái ghế ra. Mấy ông kia, ông nào cũng mở
cặp, túi xách lấy sổ sách để trước mặt. Mặt mày họ lạnh tanh. Và bây
giờ họ mới nh́n tôi, tất cả đều bằng những cặp mắt chằm hăm; có cặp
mắt cúi xuống, ngó trợn qua phía trên gọng kính; có cặp như lim dim
theo cái đầu gật lên gật xuống; có cặp mở to ngó thẳng vào hai mắt
tôi; trong lúc đó hai cái dùi dưới bàn rung rung... Tôi chẳng chờ
đợi cái ǵ cả. Tất cả mọi sự rồi cũng chẳng tốt lành ǵ cho tôi hết.
Tôi sẽ bị cải tạo lao động ở K3, bị giam ở Hỏa Ḷ...
Ông Lai nói trước:
“Chúng tôi đă đọc bản kiểm điểm của anh”.
Ông ta cầm chéo mấy tờ giấy kiểm điểm của tôi, ấn mạnh ngón tay cái
ở một góc, dứ dứ trước mặt tôi, nói tiếp:
“Chúng tôi nói thẳng cho anh biết là chúng tôi vẫn chưa tin những
điều anh nói ra đây đều là thành thật, nhất là những điều mà anh
nhận là ḿnh sai lầm. Những tư tưởng phản động chống Đảng của anh có
hệ thống và không phải mới có đây, mà đă có từ lâu rồi; tôi chưa cần
nói nguồn gốc. Chúng đă thấm sâu trong óc năo máu thịt của anh, và
có thể coi như đó là máu thịt của anh, cũng được. Cái nh́n của anh
về miền Bắc, về chế độ xă hội chủ nghĩa, về Đảng... đâu phải giản
đơn là cái nh́n của một người lạc hậu, không có tŕnh độ nhận thức,
cũng không hẳn là v́ bất măn mà xuyên tạc, nói xấu. Đó là một cách
nh́n có hệ thống, có quan điểm lập trường hẳn hoi; nói rơ ra đó là
quan điểm, lập trường của giai cấp tư sản, mà đă là tư sản tức là
phản động, chống cộng, chống cách mạng, chống nhân dân, chống Đảng.
Thế th́... không lư mới có mấy ngày mà anh lại từ bỏ những quan
điểm, lập trường đó một cách dễ dàng và thú nhận chúng sai lầm và
phản động. Ở đây, chúng tôi không dọa nạt, không ép buộc anh một
điều ǵ cả. Anh cũng không bị tra tấn hoặc hành hung. Nhưng tôi biết
anh sợ, anh sợ (những người chung quanh nh́n nhau gật đầu) và anh
thú nhận, dù đó là cực chẳng đă. Bởi v́ những điều anh thú nhận là
ngược với cái lư tưởng phản động mà anh tôn thờ. Anh đă nói ra được
một phần tư tưởng và suy nghĩ phản động, sai lầm của ḿnh, nhưng anh
chưa nói hết và cũng c̣n thiếu thành thật. Ngay từ đầu chúng tôi
muốn tự anh nói ra những việc mà từ ngày ra Bắc đến nay anh đă làm.
Anh đă hoạt động như thế nào, có bao nhiêu cơ sở, gồm những ai?
Và... ai, ai đă giao cho anh nhiệm vụ này. Nói rơ ra CIA hay bọn
ngụy Sài G̣n? Không phải chúng tôi không biết nhưng chúng tôi muốn
cứu anh, muốn cứu những con người như anh. Chúng tôi muốn anh được
hưởng lượng khoan hồng của Đảng.
Nhưng anh vẫn không nói, anh giấu. Vô ích, điều đó chỉ làm cho anh
lún sâu vào vũng bùn nhơ của tội lỗi. Đảng rất độ lượng và sẵn sàng
khoan hồng, nhưng chỉ với những người biết ăn năng và hối cải, và,
và... cũng phải trải qua một quá tŕnh giáo dục và cải tạo.
Vậy động cơ tham gia cách mạng của anh là ǵ? Anh không thể che mắt
được quần chúng. Tập thể K65 đă cho anh một bài học. Họ căm phẫn,
nhưng rất sáng suốt. Anh đă chui vào tổ chức của cách mạng để phá
hoại”.
Mấy tiếng sau ông ta nói đều đều một giọng, dằn từng tiếng một, rồi
ngừng, xoay người đổi thế ngồi, vắt một tay lên thành ghế:
“Anh phải nói rơ ra ở đây những hoạt động của anh từ ngày ra Bắc”.
Tôi không tỏ vẻ ǵ là bực tức, cứ cái giọng điệu đó cứ rề rà kéo dài
măi tôi đă chán. Tôi hút một hơi thuốc trả lời:
“Tôi bị thương và đau dạ dày. Tôi được cho ra Bắc chữa bệnh, rồi vào
lại chiến trường”.
Ông giật cái tay để trên thành ghế, chồm người ra phía trước:
“Chúng tôi c̣n nhiều việc phải làm, không thể mất th́ giờ với anh
như thế này được nữa”.
Im lặng một lúc. Một ông nói:
“Anh Đính ạ, chúng tôi đă đối xử với anh rất tử tế. Cho đến lúc này,
anh cũng vẫn là một cán bộ B. Anh vẫn được hưởng đầy đủ tất cả mọi
chế độ, tiêu chuẩn của cán bộ B. Anh là người miền Nam. Chúng tôi
đây cũng là người miền Nam. Chúng tôi có thể dễ hiểu anh hơn và
trong một mức độ nào đó cũng có thể nói là có thể thông cảm với anh.
Chúng tôi muốn trường hợp của anh được giải quyết trong nội bộ của
chúng ta”.
Ông này nh́n tôi, rồi tiếp:
“Nhưng anh vẫn không biết điều”.
Một ông khác:
“Tội của anh là tội ở tù. Nhưng chúng tôi vẫn chưa đưa anh ra pháp
luật là v́ thế”.
Tôi nói:
“Tôi đă nói hết với các anh rồi. Tôi không c̣n ǵ để nói nữa. Những
tư tưởng và suy nghĩ của tôi đă được tôi ghi lại, c̣n đó, tôi có
giấu ǵ đâu. Có thể có nhiều điều tôi không viết ra trong bản kiểm
điểm, bởi v́ tôi không thể nhớ hết được”.
Ông Lai nói:
“Tôi muốn biết điều mà anh không viết ra”.
“Có nhiều điều tôi nghĩ tôi đă ghi lại. Nhưng làm sao tôi ghi lại
hết những suy nghĩ của ḿnh. Các anh nói thế tôi cũng chịu”.
Ông Lai dằn giọng:
“Anh thừa biết là chúng tôi muốn anh nói ra cho chúng tôi biết những
ǵ?”
À, những người này muốn tôi nói thế này: tôi là CIA mà mạng lưới
hoạt động của tôi ở miền Bắc là thế này này. Mà thôi, mệt quá, nói
qua nói lại với những người này càng thêm căng đầu căng óc. Hơn nữa
tôi cũng chẳng biết nói ǵ với họ nữa. Suốt những buổi như thế này
họ nói nhiều hơn tôi. Tôi ngồi đó, nhiều khi lơ đăng nh́n lên mấy
tấm h́nh cắt trong báo ảnh Liên Xô dán trên tường, chấm ngón tay vào
những giọt nước đổ trên bàn vẻ những ṿn tṛn, những mặt người mặt
thú. Cuộc hỏi cung cứ rề rà kiểu này làm tôi chán và mệt. Tôi không
muốn nói ǵ nữa. Tôi cũng chẳng lo lắng ǵ nữa. Họ bắt tôi nhận
những điều mà tôi không có. Tôi thư thả và không cảm thấy căng
thẳng.
“Thôi tùy anh. Đă thế anh đừng có trách chúng tôi sau này. Ông Lai
nói. Anh sẽ c̣n gặp chúng tôi. Bây giờ trước mắt anh ở tạm tại nhà
khách của Cục một thời gian cái đă, chưa biết lâu hay mau, chờ trên
quyết định. Có ǵ anh cứ gặp anh Thanh đây. Nếu anh Thanh đi vắng,
anh gặp các anh ở Cục. Anh có thể ra phố, nhưng tuyệt đối không được
gặp một người nào cả, không được nói với bất cứ với ai về chuyện của
anh. Chắc anh phải ăn Tết ở đây rồi đó. Kể cũng buồn thật”.
Họ c̣n xúm nhau nói với tôi nhiều điều, nhiều chuyện nữa. Tất nhiên
họ chưa buông tha giả dớm tôi đâu. Cái t́nh trạng này vẫn c̣n kéo
dài măi, mỗi lúc mỗi khác, mỗi hoàn cảnh mỗi khác vẫn c̣n cho đến
lúc tôi viết những ḍng này. Khi th́ trực tiếp chạm mặt bằng thường
mục hoặc bằng áo mũ công an; khi th́ cho người lẩn vào trong các
cuộc gặp gỡ nói chuyện giữa bạn bè; khi th́ đi ngang qua đường giả
đ̣ ngó vào nhà, hay đứng bên gốc ổi, gốc khế nhà bên cạnh ngó trời
ngó đất chổng tai, liếc mắt đủ cách, đủ kiểu...
Tôi lại về nằm dài trong cái pḥng to rộng một ḿnh, gối tay lên đầu
ngó mái nhà. Đọc sách cũng ít thích thú, hết ra sân nh́n trời nh́n
đất, lại vào ngồi lên bực cửa. Rồi không có việc ǵ làm, một ḿnh,
tôi để ư hết tất cả các vật chung quanh: cái cán xen găy một nửa,
mấy tấm sắt làm trạc dắt đất vất bừa băi ở một góc, những vôi vữa
c̣n lại nước mưa chảy xoi thành núi sông ao hồ, những đống gạch vỡ,
đường nước giọt dưới mái hiên... Nhiều khi tôi loanh quanh luẩn quẩn
giữa những đống vật này, đẩy cái cán xẻng găy lún sâu vào đống vữa,
dũi chân vào đống cát, ném một viên gạch xuống hồ để nghe tiếng bọt
nước sủi tăm...
Lạ thật, suốt thời gian ở đây tôi không nghe tiếng chó sủa, không
thấy một con gà con vịt. Bây giờ mà có một con vật ǵ động đậy chạy
qua đây chắc là vui lắm.
C̣n người?
Người đi ngoài đường kia, tôi không quen, không biết. Họ thấy tôi
cũng như tôi thấy họ, như mọi vật trước mắt có trong con mắt th́
thấy. Người bước vào pḥng này th́ bao giờ họ cũng nh́n tôi không
như nh́n một con người. Mắt, miệng họ bao giờ cũng xiên lệch.
Đêm như ngày, ngày như đêm, ở trong tối hay ra ngoài sáng, tôi chỉ
có ḿnh tôi, không có ai thân thiện, bạn bè. Rồi cũng như sau này,
cả ngày thường khi không nói chuyện với ai, cứ như câm như điếc. Vây
chung quanh là những bộ mặt nặng nề, khinh khỉnh.
Tết đến rồi. Ở các pḥng làm việc của Cục đón tiếp cán bộ B người vô
ra nhiều hơn. Họ đi từ pḥng này sang pḥng khác, kẻ chạy, người
bước mau, vội vàng hấp tấp. Họ lo Tết. Họ chia hàng, nhận tiêu
chuẩn. Mặt người nào người nấy cũng vui, cũng cười. Những bàn làm
việc có ghế, có giấy tờ sổ sách, có cả thuốc lá, mứt kẹo, trà đường
và thịt, nhưng không có người ngồi. Tôi ra pḥng khám bệnh xin một
ít thuốc dạ dày. Cửa pḥng khám bệnh đóng một cánh. Cô y sĩ đang ở
căng-tin, bận giúp những người khác phân phối hàng. Một người đang
lúi húi nhận thịt nói với tôi:
“Anh vào nhận tiêu chuẩn đi”. Ông nói vói vào trong pḥng:
“Anh Đính ở K65, cho anh nhận tiêu chuẩn Tết”.
Những ngày tết những người thường ăn cơm ở đây đều đi phép. Các cô
phục vụ nhà ăn là người Hà Nội nên ai cũng về nhà. Tôi chưa biết ăn
ở đâu. Khoảng 29 Tết, ông Thanh bảo tôi:
“Những ngày Tết anh vẫn ăn cơm ở Cục. May có mấy ông không đi
phép...”
Ông nói tiếp:
“Anh nhớ là không được tiếp xúc với ai hết. Ra Tết các anh trên sẽ
có hướng giải quyết cho anh. Anh đi đâu phải báo cáo cho đồng chí
trực ở Cục biết”.
Rồi ông hỏi tôi một câu hỏi mà ông ta đă hỏi tôi nhiều lần:
“Anh có bà con ở Hà Nội không?”
“Không”.
“Anh nhận tiêu chuẩn Tết rồi chứ?”
Tôi gật đầu nói rồi.
Tôi cũng chẳng c̣n bụng dạ nào để nghĩ đến Tết với nhứt nữa. Đây là
một cái Tết chán ngắt, mệt mỏi và buồn thảm nhất trong đời tôi. Hai
mươi bảy, hai mươi tám Tết rồi. Trưa, chiều ra ngoài 11A ăn cơm. Tôi
nằm dài, mưa lạnh, tối câm.
Những ngày Tết trong pḥng ăn chỉ có một ḿnh tôi. Những bữa ăn tẻ
ngắt và lạnh. Ông gác cổng và một vài người khác đem cơm về ăn ở
pḥng riêng, cô phục vụ hỏi tôi:
“Tết chắc anh nhớ nhà lắm?”
Tôi cười.
“Anh không có bà c̣n bạn bè ở Hà Nội à?”
“Không chị ạ”.
Chiều ba mươi, tôi mang gói chè Hồng Đào ra pḥng trực uống nước với
ông gác cổng. Tôi nói:
“Tôi thấy Hồng Đào dễ uống hơn Thanh Hương”. Tôi định mở gói chè,
ông xua tay:
“Hồng Đào, Thanh Hương hay Thanh Tâm ǵ th́ cũng một vị, thế thôi,
thua Thái Nguyên hết. Tôi có chè Thái Nguyên đây”.
Chúng tôi uống trà. Ông ta nói:
“Anh thấy không, thua Thái Nguyên hết. Chè này là của một người bạn
tôi tự sao lấy và gửi cho tôi đấy. Hồi anh lấy ít ấm về uống cho
vui”.
“Tôi không có ấm chén và nước sôi. Thôi, để tôi ra đây uống với Bác
cũng được”.
Đêm giao thừa, tôi nằm hút thuốc, trăn qua trở lại. Tôi không nhớ là
đêm đó tôi có nghe tiếng pháo hay không nữa.
Suốt mấy ngày Tết, tôi không thấy một đứa trẻ con.
Khoảng chiều này mồng 5 mồng 6 hay mồng 7, mồng 8 ǵ đó, ông Thanh
đến gặp tôi ở nhà khách.
“Anh chuẩn bị sáng mai đi. Sáng mai, bảy giờ, anh mang đồ đạc ra
ngoài văn pḥng và lấy giấy tờ”.
Tôi cũng chẳng hỏi đi đâu nữa.
Sáng mai, tôi xách va li và đồ đạc ra ngoài Cục. Ông Thanh đưa giấy
tờ cho tôi và bảo:
“Tạm thời, chúng tôi đưa anh trở lại K65. Anh đến đó phải luôn luôn
tỏ ra là một kẻ biết phục thiện, biết ăn năn hối cải. Thời gian ở
K65 là thời gian thử thách cho anh đó. Anh chị em K65 đều biết rơ về
anh, nên đó là một môi trường cải tạo tốt đối với anh. C̣n sau này
anh sẽ ra sao, điều đó hoàn toàn do anh và ư kiến của tập thể K65.
C̣n những việc khác, các anh ở K65 sẽ hướng dẫn. Chúng tôi sẽ gặp
anh sau”.
**
Tôi trở lại K65 tức là trở lại cái thế giới ở đó tôi không được coi
là con người. Gần giờ ăn trưa, tôi đến K65. Tôi để đồ đạc bên đường.
Tôi cảm ơn anh tài xế. Anh ta cười và hút với tôi một điều thuốc,
rồi đưa xe vào sân khu nhà A. Tôi cứ đứng bên đường, chưa biết ḿnh
đi đâu bây giờ. Người ta đă thấy tôi. Người trong các pḥng nháo
nhác ngó ra đường. Những cửa sổ trên lầu nhà A, dọc hành lang lầu
nhà B đầu người, thân người ló ra, hai bên hai phía, tôi ở giữa.
Nhiều người đă ra đứng ngoài hành lang, ngoài sân, nghiêng vai, ghé
vào tai nhau. Sau này cô Mộng, một người bạn tuổi suưt soát với tôi,
kể cho tôi biết: lúc anh mới lên, người ta x́ xầm rất dữ, có người
nhăn mặt, có người nhổ nước miếng:
“Thằng Đính!”
“Sao lại đưa hắn về đây?”
“Tưởng đă đưa hắn đi cải tạo rồi chứ”.
“Hắn!”
Ông Hà, người Quảng Ngăi khoảng trên 60 tuổi và ông Bí thư chi bộ
dăy nhà B1, cũng người Quảng Ngăi, tôi không nhớ tên, ra gặp tôi.
Ông Hà nói:
“Anh về lại tổ 3 ở pḥng cũ”.
Hai ông đi trước tôi theo sau. Tôi để bao sách vở và một vài thứ lặt
vặt trước cửa pḥng trực, rồi xách va li đi vào. Ông Hà chỉ cho cái
giường sát ngay cửa ra vào:
“Anh nằm đây!”
Ông Hà quay sang ông Bí thư chi bộ:
“Thôi đi ăn cơm đă”.
Rồi ông nói với tôi:
“Ăn cơm xong chúng tôi sẽ làm việc với anh”.
Mọi người trong pḥng cầm đũa chén đi ăn cơm. Họ coi như không có
tôi. Ông già Tuyến ở pḥng trong ra sau cùng. Ông nói với tôi:
“Đi ăn cơm mầy... mầy thiệt...”
Tôi đă được cho biết là cơm trưa của tôi đă báo rồi.
Nhà ăn ồn ào. Tôi bước vào. Tiếng nói, tiếng cười bớt dần rồi im
hẳn, chỉ c̣n tiếng bát đũa va nhau và tiếng chân ghế sắt kéo trên
nền xi măng. Mọi người đều nh́n tôi. Người đứng dậy, người ngểnh cổ,
người chỉ liếc qua rồi cứ cúi đầu ăn. Tôi ngó quanh, rồi t́m một bàn
chưa có người, kéo ghế ngồi đợi. Mấy bà, mấy cô phục vụ đứng ở cuối
nhà bếp chỉ chỏ tôi nói th́ thầm. Tôi loáng thoáng nghe một vài
tiếng nói nhỏ chung quanh. Những người đến sau t́m một bàn trống
khác ngồi đợi. Tiếng ồn chung quanh bắt đầu, nhưng không xáo động
như thường ngày. Một người cầm bát đũa đến bàn tôi, ông Bí thư chi
bộ khu B. Một người nữa đến, ông Bí thư Đảng ủy. C̣n thiếu một người
nữa.
“A, anh Phước, lại đây”.
Ông Phước, người B́nh Định, đau gan, đang đứng giữa pḥng. Ông Bí
thư Đảng ủy vẫy tay:
“Lại đây, lại đây anh Phước”.
Tôi ăn rất ngon. Suốt bữa ăn các ông đó có nói chuyện qua lại. Tôi
ngồi lại sau cùng. Ăn xong tôi đi rửa chén đũa. Một người đang rửa ở
ṿi nước thấy tôi bước đến, bỏ qua ṿi khác ngay. Mặc kệ, tôi cúi
xuống rửa. Đến thùng nước uống, cô Mộng đang hứng nước vào bát. Cô
vừa rút bát ra, tôi đưa bát vào. Đợi bát tôi đầy nước cô Mộng tắt rô
bi nê. Một vài người thấy tôi đứng uống nước, lảng ra đi chỗ khác
hoặc sang thùng nước bên cạnh. Chị Hoài, người cùng quê Quảng Điền
với tôi, đến lấy nước uống. Chị vừa hứng nước, vừa nh́n tôi cười.
Rồi chị và cô Mộng cứ đứng bên thùng nước cho đến khi tôi uống xong
mới về.
Bắt đầu từ đây, ở cái K65 này, tôi sống những ngày kinh khủng nhất
trong đời ḿnh. Không ai ăn thịt ăn cá chi tôi hết, nhưng quá dễ sợ.
Tôi vừa bước vào pḥng, ông Hà vào bảo tôi:
“Anh sang pḥng Đảng ủy làm việc”.
Nói xong ông ta bỏ đi ngay. Tôi cất bát đũa, đốt một điếu thuốc rồi
đi. Ṿng trong hành lang, tôi gặp thằng Nguyễn Viết Trác vừa mới đi
ăn cơm về. Hắn nhăn mặt, khấp khểnh bước, giả đ̣ lên cơn suyễn, nh́n
tôi, rồi cúi đầu lê chân bước vào pḥng [30]. H́nh như khi nh́n tôi
hắn có lắc lắc cái đầu th́ phải. Tôi sang nhà A, và pḥng ông Bí thư
Đảng ủy khối bệnh nhân [31]. Bên cái bàn đá mài kê sát cửa sổ ngó ra
ngoài sân ba bốn ông đủ bộ sậu trong ban lănh đạo Đảng và hội đồng
bệnh nhân đă ngồi sẵn đó. Họ đang uống trà và cười nói. C̣n một cái
ghế, ông Hà kéo ngồi. Tôi không có chỗ, tôi ngồi lên giường. Trời
tạnh, giữa trưa có hơi nắng, nhưng c̣n lạnh. Một ông trong họ đứng
dậy chế nước vào ấm. H́nh như cử chỉ đó thường là để chuẩn bị và ổn
định đầu óc của những người chủ tŕ một buổi họp. Ông Hà, Chủ tịch
Hội đồng bệnh nhân nói:
“Báo cáo các đồng chí, anh Đính đă đến”.
Quay sang tôi ông tiếp:
“Hôm nay chúng tôi mời anh đến đây để Đảng ủy và hội đồng bệnh nhân
làm việc”.
Rồi ông giới thiệu từng người một, mặc dầu ông ta biết là tôi đă
biết và quen mặt những người này từ lâu. Chỉ có ông Phước đau gan
người B́nh Định, làm Bí thư chi bộ khu B1 thay ông Bí thư người
Quảng Ngăi sắp chuyển đi nơi khác.
Ông Bí thư Đảng ủy, người Quảng Nam, khoảng trên 40 tuổi, mặt tṛn,
trắng, nói:
“Ban Thống nhất Trung ương và Cục đón tiếp cán bộ B tạm thời đưa anh
về đây và giao nhiệm vụ cho chúng tôi giáo dục và theo dơi anh. Đối
với anh lúc này, ư kiến của tập thể K65 là hết sức quan trọng. Anh
được hưởng mọi tiêu chuẩn như mọi người, nhưng ngoài nội quy và y
lệnh anh c̣n phải thực hành những điều sau đây”.
Ông ta nh́n vào cuốn sổ và nói tiếp:
“Anh nên nhớ là giờ đây anh không phải như anh trước kia nữa. Anh
phải nhớ những điều này. Ngoài việc đi ăn cơm, vệ sinh cá nhân trong
phạm vi của K65 ra, đi đâu anh phải báo cáo với anh Hà, hoặc với tổ
trưởng. Anh không được ra ngoài thị xă mà không xin phép. Ngay ở
trong K có tổ chức chiếu bóng vào ban đêm, anh phải xin phép các anh
đó mới được đi. Anh không được nói chuyện với bất cứ một người nào,
kể cả cán bộ bệnh nhân hoặc với những người ở cùng pḥng. Nói rơ ra
là anh không được gợi ư gặp hay nói chuyện với bất cứ một người nào.
Những người khác th́ có quyền nói với anh, mà nếu có hỏi, có nói với
anh th́ anh mới trả lời, c̣n không th́ thôi. Anh phải tỏ ra có lễ độ
với mọi người. Không phải như trước đâu, nói ǵ anh cũng phải thưa
dạ”.
Ông ta hớp một hớp nước rồi tiếp:
“Anh không được tham dự bất cứ một cuộc họp hoặc sinh hoạt nào trong
K. Nếu có một cuộc họp nào đó mà anh được cho phép dự, như sinh hoạt
tổ chẳng hạn, anh chỉ được ngồi nghe, và cấm không được phát biểu”.
Ông ta dừng lại hút thuốc. Ông Phó bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội đồng
bệnh nhân nói:
“Tuyệt đối, tôi nhắc lại, tuyệt đối anh không được góp ư, phê b́nh
bất cứ ai ở K65 này về bất cứ một việc ǵ”.
Ông Bí thư Đảng ủy tiếp:
“Anh phải nhớ kỹ điều đó”.
Ông ta nh́n tôi, rồi nói giọng to hơn.
“Tuyệt đối anh không được nhờ bất cứ ai trong anh chị em cán bộ ở
K65 làm một việc ǵ. Không được, tuyệt đối không được. C̣n nếu ai
trong anh chị em nhờ anh làm một việc ǵ, anh phải báo cáo cho chúng
tôi biết; chúng tôi có đồng ư anh mới được làm. C̣n điều này nữa,
tuyệt đối anh không được gặp gỡ bất cứ một người nào, dù là bạn bè
hay bà con ở nơi khác đến. Anh nghe chưa?”
Một người khác góp ư:
“Anh ăn nói với mọi người phải từ tốn, lễ phép. Tốt hơn hết, có ai
nói với anh anh mới được nói”.
Ông Chủ tịch hội đồng bệnh nhân nói:
“Anh Đính ạ, anh là một người có trọng tội. Anh phải biết ăn năn hối
cải. Những ngày anh ở đây là bước đầu chúng tôi đánh giá con người
anh. Và việc đánh giá của chúng tôi sẽ có quan hệ đến tương lai của
anh sau này. Và sau này, anh sẽ ra sao, đi đâu, làm ǵ là do các anh
ở trên quyết định. Tạm thời trước mắt anh ở đây đă. Thế thôi các
đồng chí nha”.
Ông Bí thư Đảng ủy nói:
“Anh có ư kiến ǵ không?”
“Không”.
“Thế thôi các đồng chí. Thôi anh về đi”.
Tôi ở căn pḥng cũ, trước ở pḥng trong, nay ở pḥng ngoài. Dăy nhà
B này có h́nh chữ U, pḥng tôi ở tầng trệt sát pḥng đấu góc khay.
Giường của tôi kê ngay cửa ra vào thông với cửa hành lang ngó sang
dăy nhà trệt bốn năm pḥng cách một khoảng sân rộng. Một cái bàn xi
măng đá rửa màu xám kê sẵn sát giường. Cái bàn này bây giờ với tôi
chỉ để vali, tách chén, bát đũa. Lúc này tôi c̣n đọc, viết ǵ được
nữa. Nhưng tôi mà đụng vào giấy bút, sách vở th́ chỉ gây thêm cực
khổ cho tôi. Người chung quanh thường ḍm ngó tôi, từng cử chỉ, từng
lời nói, từng bước đi. Đó không phải là nỗi khổ tâm của tôi mà là
một sự kinh khủng của tôi: Không viết được, không đọc được. Dần dà
về sau, tôi sang pḥng đọc sách báo của K ngồi đọc, rồi mượn báo về
pḥng, lúc này tôi chỉ mượn báo mà không mượn sách. Ngồi ở pḥng đọc
sách tôi thấy ḿnh thư thả, không bị ai ḍm ngó. Nằm trong pḥng
người qua kẻ lại với những bộ mặt khinh khỉnh liếc trừng, tôi quá
mệt. Tất cả báo chí tôi mượn về đều để trần ra giữa bàn, trên
giường. Và người ta cũng biết đó đều là sách báo của Đảng và tôi
mượn của K. Nhưng thường xuyên họ vẫn ḷ ṃ kiểm tra. Tôi chỉ đọc mà
không ghi chép. Tôi tránh việc cầm cây bút trên tay và trước mặt là
một quyển vở hay một xấp giấy trắng. Suốt thời gian này tôi không
bao giờ khóa va li.
Không khí ở K65 quá căng thẳng với tôi. Tôi không đi chơi đâu được,
không nói chuyện với ai. Căn pḥng tôi ở cũng vẫn là những người cũ
h́nh như có một hai người mới đến. Tất cả đều là Đảng viên. Trong số
này có một anh chàng người Quảng Ngăi trên 40 tuổi, luôn luôn ăn
diện, áo quần khi nào cũng thẳng nếp và đắt tiền [32]. Anh ta đang
có ư định lấy vợ và ở luôn miền Bắc. Trước anh ta rất vui vẻ với
tôi, nhưng bây giờ anh ta căm ghét tôi ra mặt, thậm chí anh ta c̣n
nhổ nước bọt trước mặt tôi.
Không khi nào tôi đang đi mà có ai gọi tôi cả. Tôi có đó cũng như
không. Người ta gọi tôi là “tên Đính”, “thằng Đính”. “Ê Đính, lại
đây nói cái này”. Cũng có người gọi tôi bằng anh, nhưng lúc đó chỉ
có tôi và người đó. Và người đó trước khi nói với tôi một điều ǵ
đều ngó trước ngó sau, và bao giờ cũng chỉ một câu ngắn, đôi ba
tiếng, rồi bỏ đi ngay, để nếu có ai thấy cũng chỉ xem như t́nh cờ
người này đi ngang qua mặt tôi [33].
Tôi vẫn giữ cách sinh hoạt b́nh thường hàng ngày của tôi. Buổi sáng,
buổi trưa xách phích xuống nhà bếp lấy nước... Cũng may đó là những
việc hằng ngày trước kia của tôi, không th́ bây giờ người ta sẽ bảo
tôi là cố phấn đấu để chuộc tội. Có điều là tôi không thức khuya
được. Trước kia, tôi có sắm một cây đèn dầu hỏa. Sau chín mười giờ
khi mọi người tắt điện đi ngủ, tôi thắp đèn dầu thức, đọc sách và
viết.
Ở gác trên có một anh thanh niên người Quảng Ngăi lớn hơn tôi một
hai tuổi, kỹ sư nông nghiệp th́ phải, bị bệnh thần kinh. Anh ta hát
rất hay, và thường ngồi trước hành lang đánh đàn hát to một ḿnh.
Một hôm đến giờ ăn cơm, tôi gặp anh ta cầm đũa bát từ trên gác đi
xuống. Anh ta nói, vừa nói vừa cười hi hi:
“Sớm quá, sớm quá, ông anh ơi! Ông làm sớm quá!”
Anh ta cười hi hi. Anh ta không dự cuộc đấu tố tôi tại hội trường
K65. Tôi chắc là anh ta không bị phê b́nh, dù anh ta là Đảng viên,
v́ người ta cho là anh ta bị thần kinh.
Lúc này tôi cũng chỉ có một ḿnh. Tôi quanh quẩn với cái bóng của
tôi, khi tôi theo nó, khi nó theo tôi; ban đêm trên vách, ban ngày
trên đường. Ở đây không ai đối xử với tôi như một con người. Thà tôi
bị đưa đi cải tạo lao động hoặc ở tù c̣n hơn. Dẫu sao ở đó những
người chung quanh cùng một hoàn cảnh, dù có ganh ghét nhau, đâm chém
nhau cũng c̣n xem nhau là con người. C̣n ở đây, người ta đối xử với
tôi một cách tệ hại. Người ta kinh tởm tôi, khinh bỉ tôi. Tôi như
một tên hủi, một con chó ghẻ dại hôi hám mà hàng ngày người ta buộc
phải chung đụng không thể tránh được. Vào một lối hẹp, hay ở một chỗ
đông người, tất cả đều tránh không để cho quần áo họ vướng vào quần
áo tôi, không để cho người họ đụng vào người tôi. Đến nhà ăn, những
con mắt cứ ngó trừng tôi. Không ai chịu ngồi ăn với tôi. Nhiều lần,
nhiều lần tôi nghĩ chắc trong người tôi có mùi cứt. Một bàn bốn phần
ăn, mới chỉ có hai hoặc ba, c̣n thiếu một, hễ tôi kéo ghế ngồi vào
là họ cầm bát đũa đứng dậy hầm hầm giận dữ bỏ đi. Cho nên túng thế
nhiều khi mấy ông Đảng ủy, chi ủy buộc ḷng phải ngồi với tôi. Nhưng
bữa đó, họ ăn rất mau và bao giờ cũng ra khỏi bàn trước tôi. Có lần,
tôi thấy một bàn ăn c̣n thiếu một người, tôi ngồi vào, lập tức ông
Phước, Đảng ủy viên, người B́nh Định, đứng dậy kéo theo một anh
chàng thanh niên ngồi cạnh đi qua bàn khác ngay. Mặt ông ta có vẻ
tức giận. Chàng thanh niên đó là con của ông ta, mới ra Bắc, đến
thăm ông ta. Ông ta không muốn cho con ḿnh ngồi ăn cùng bàn với một
kẻ như tôi. Rất nhiều lần ngồi đợi lâu không có ai thèm đến ngồi,
tôi nói với mấy bà, mấy cô nhà bếp chia cơm cho tôi ăn. Những người
này đă biết t́nh cảnh của tôi, nên thường thấy thế họ đến và nói:
“Để em chia cơm cho anh ăn”.
C̣n những người khác đến sau, gặp suất ăn cuối cùng không ngần ngại
bưng những phần ăn c̣n lại sang bàn trống khác ngồi ăn. C̣n tôi th́
tôi ăn được, bao giờ cũng rất ngon và ăn nhiều.
Cô Mộng kể cho tôi nghe, nhiều lần đi lấy nước, có người cầm cái gáo
đứng sau lưng tôi dứ dứ vào đầu tôi như muốn đánh. “Khi anh đi rồi
em mới nói với họ là các anh làm cái ǵ thế. Muốn giết người ta th́
cứ giết đi. Họ trợn em: Cô binh à? Em nói lại: Không binh ǵ hết.
Các anh làm rứa tôi ngó không được. Các chi bộ ở đây hồi đó họp đều
đề nghị tống cổ anh đi nơi khác cho khuất mắt. Nhưng mấy ông trên
bảo cứ để anh ở đây là tốt nhất, để cho ở đây giáo dục và cải tạo
anh. Mà em thấy, có giáo dục cải tạo ǵ đâu, họ chỉ hành hạ anh”.
Dần dần, nói thật, tôi cũng thấy quen đi cái không khí như thế. Một
ngày, hai ngày, một tuần, hai tuần, một tháng hai ba tháng, một hai
năm, không quen đi, không thấy như thường cũng không được.
Hơn một tháng tôi không đi ra khỏi chỗ tôi nằm, loanh quanh luẩn
quẩn ăn rồi nằm, rồi ngồi, chỉ có tôi với cái bóng của ḿnh. Rồi tôi
phải đi hớt tóc, mua một vài thứ lặt vặt ngoài thị xă. Tôi xin họ,
họ cho đi. Và mỗi lần như thế, bao giờ cũng có người lẽo đẽo xa gần
bên tôi. Và rồi buổi chiều, cũng buồn, tôi xin đi chơi. Tôi lang
thang khắp thị xă Sơn Tây, đi ṿng quanh hồ, ngồi bên hồ hút thuốc,
một ḿnh không có ai nói chuyện, không có ai chơi. Rồi ghé vào mậu
dịch ăn uống, ngồi ngoài lan can trên hồ uống một cốc cà phê ngó cây
cối lao xao trên cù lao trước mặt. Rồi lững thững đi về, chế nước
uống, rồi nằm, nghĩ vẫn vơ. Những lúc đó đầu óc tôi lùng bùng.
Những lúc đó tôi muốn viết.
Nhiều buổi chiều ăn cơm xong, tôi ngồi một ḿnh trong pḥng ngó qua
cửa hành lang. Dăy nhà trệt bên kia che mất không thấy trời. Cô Mộng
hay một chị nào đó đi qua liếc trước sau dúi vào góc bàn khuất sau
bức tường một gói giấy, rồi ra cửa hành lang xuống dăy nhà trệt. Tôi
biết đó là một vài gói thuốc hút, một cân đường hay một gói trà....
Tôi chán, tôi mệt mỏi. Tôi không c̣n muốn ǵ nữa. Tôi không c̣n cố
gắng nghĩ xem rồi người ta sẽ làm ǵ tôi. Tôi không cần đề pḥng ǵ
hết. Tôi bị hành hạ và đọa đày. Họ muốn làm nhục tôi, muốn cho tôi
hiểu rằng họ đă đối xử với tôi không phải như đối xử với một con
người. Và tôi phải hiểu rằng họ có quyền làm như thế. Họ không coi
tôi làm một tên tù, họ coi tôi là một con vật, một con chó, một con
chó sống giữa một đám người không có chó để làm bạn và không sủa
được [34].
Tôi bị tách khỏi sinh hoạt của con người, được con người cực chẳng
đă phải cho ăn, cho uống, cho ngủ, nhưng không được quanh quẩn đến
gần con người và nói tiếng người với họ. Tôi là một tên địch. Tất cả
những người trước vốn quen tôi hay nói chuyện, lui tới với tôi bây
giờ đều tránh mặt tôi. Họ sợ liên lụy, họ sợ bị mất lập trường. Tôi
sống lặng lẽ một thân, một ḿnh. Rồi tôi cứ sống lang thang bằng trí
nhớ của ḿnh. Tôi ngồi im với tôi. Dăy nhà trước mặt bên kia hành
lang đă che mất trời và cây cối ở xa. Suốt một hai giờ, ba bốn giờ,
khi nằm khi ngồi, khi uống nước, khi hút thuốc, không có việc chi
làm, không có ai nói chuyện. Người đi ra đi vào. Kệ họ. Hết sức th́
họ giết ḿnh là cùng. Cái thằng người Quảng Ngăi lúc đi qua chỗ tôi
là nhổ nước miếng xun xoe mặc quần áo tốt, cột thêm cái radio bên
hông để kiếm vợ, đang đứng giữa pḥng xức nước hoa, soi mặt vào cái
gương nhỏ. Ông già Giác ngồi xếp bàn trên giường ở trong góc hút
thuốc. Tôi uống với ông một ly nước trà bồm ướp hương bưởi, rồi ra
ngồi lại một ḿnh. Ông Tuyến đi qua nói, không đi chơi hả mầy, Đính,
kệ cha, đi cho đầu óc nó khỏe ra, ông cười, tôi dạ. Ông quay lại,
mầy đau bao tử, hút thuốc ít đi. Căn pḥng cứ vắng dần. Trời im và
vẫn c̣n lạnh. Tôi không biết làm ǵ hết và cũng chẳng có việc ǵ để
làm. Tôi nhai hai viên Ka-vét, rồi ngồi dựa đầu vào giường. Lúc này
là lúc vắng và im lặng nhất. Chưa biết bao giờ mới hết chiến tranh.
Ông già Giác cũng đi chơi rồi. Ở dăy nhà trước mặt có tiếng cười nói
của con gái và con trai giỡn nhau. Tôi cứ hút thuốc ngó lơ đăng ra
phía trước, đầu óc trống không. Có hơn 5 giờ chiều. Và tôi bỗng lặng
người đi. Trên bức tường của hành lang có mấy chữ viết bằng gạch
vụn, vụng về chữ lên chữ xuống, chữ to chữ nhỏ nghiêng ngả đậm lạt
không đều:
Chú Đính ơi
Chú Đính
Tôi xúc động, tôi xúc động vô cùng. Tôi biết người viết rồi. Đó là
một thằng bé bảy tám tuổi con của người y sĩ quê ở Thừa Thiên, nhà ở
cách pḥng tôi bảy tám mét bằng một khoảng sân rộng. Thằng bé không
được b́nh thường. Học đến lớp ba, sau một trận đau nặng, nó mất trí
và trở nên tàng tàng. Thằng bé là bạn duy nhất của tôi lúc này. Nó
thường đến với tôi và chẳng có ai để ư, nói năng rầy rà hay phê b́nh
ǵ về việc nó quan hệ với tôi hết.
Chú Đính ơi
Chú Đính
Tôi là thằng Đính, tên Đính, là nó, là hắn. Có ai gọi tôi bằng anh,
bằng chú đâu. Chỉ có nó, một thằng bé bị thần kinh gọi tôi bằng chú.
Thằng bé đến, có khi leo lên giường ngồi bỏ hai chân đu qua đu lại,
không nói ǵ hết. Có khi nó ngồi xuống thềm nhà bày ra các thứ gạch
đá, lá cây chơi một ḿnh. Rồi nó nh́n tôi cười, nói những câu không
có đầu không có đuôi. Nhiều khi nghe ba mẹ gọi, nó cũng không về.
Tôi phải dắt nó về. Biết ư, tôi chỉ đưa nó đến cửa, rồi quay lại.
Sau này tôi thấy dưới cửa sổ nhà nó cũng có mấy chữ viết bằng gạch:
Chú Đính ơi
Chú Đính
***
Mỹ đánh thị xă Sơn Tây. Lần đầu tiên thị xă Sơn Tây bị ném bom. Hai
quả bom rớt ngay trung tâm thị xă, có một quả trúng nhà hát nhân
dân, sân khấu lộ thiên bị sạt mất một góc. Không có ai chết hay bị
thương. T́nh h́nh trở nên căng thẳng. Thị xă thỉnh thoảng đă có
tiếng kẻng báo động có máy bay Mỹ. Bất cứ một đoàn bệnh nhân nào mới
đến K65 đều được ban lănh đạo cho biết t́nh h́nh và đặc điểm của thị
xă Sơn Tây. Thị xă Sơn Tây là nơi tập trung nhiều thành phần phản
động. Do đó việc quan hệ với người ở ngoài thị xă phải hết sức đề
cao cảnh giác, nhất là sau vụ Mỹ tập kích nhà giam tù binh Mỹ. Ở đây
có một nhà thờ Thiên chúa giáo. Một đêm Noel trước đây cán bộ miền
Nam được lệnh là không ra đường và đến nhà thờ để đảm bảo an ninh.
Hơn nữa, bọn phản động có thể lợi dụng việc có nhiều người đến nhà
thờ và qua lại đông trên đường trong đêm Noel để củng cố thế lực và
tuyên truyền xuyên tạc chế độ ta.
Khoảng 1 hay 2 tuần sau, các khối bệnh nhân họp khẩn cấp và bất
thường. Tất nhiên là tôi không được dự. Sau bữa cơm chiều, mọi người
trong pḥng vội vàng sắp xếp đồ đạc gọn gàng. 8 giờ tối, ông tổ
trưởng báo cho tôi sắp xếp đồ đạc chuẩn bị sáng mai 6 giờ sơ tán.
Nơi sơ tán là thôn Cam Đà, xă Cam Thượng, huyện Ba V́, tỉnh Sơn Tây.
Tôi cùng với hai người khác được sắp xếp ở nhà chị Hoàng thị Thuận.
Một ông tên Lai, người B́nh Định, tổ trưởng tổ Đảng, có nhiệm vụ
canh giữ và theo dơi tôi. Và một anh chàng người Vĩnh Linh tên Kiêm.
Anh này cũng là Đảng viên, người ốm cao, trắng trẻo, khoảng gần 30
tuổi. Trông anh ta bao giờ cũng ngớ ngẩn, nói năng lộn ngược, lộn
xuôi khó hiểu. Người ta bảo anh ta bị thần kinh, hậu quả của một cơn
sốt ác tính. Tôi th́ cho là anh ta giả đ̣ đau thần kinh để khỏi trở
lại chiến trường. Anh ta có ư định xin đi học bổ túc văn hóa ở Từ
Hồ. Anh Sinh, một người trong làng dắt tôi đến nhà chị Thuận. Tôi để
đồ đạc giữa sân. Một đứa bé gái khoảng sáu tuổi đang đứng dưới mái
hiên bước xuống sân chào tôi.
“Cháu chào chú ạ”.
“Chào cháu”.
Anh Sinh bước lên nhà nói to:
“Chị Thuận ơi, cho mấy bác ở nhờ một tí nha!”
Một người đàn bà răng đen, dáng người khỏe mạnh lớn hơn tôi độ 3
tuổi dưới bếp đi lên.
“Chào các bác. Mời các bác vào nhà xơi nước”.
Dân ở đây coi chuyện cán bộ nhân viên đến ở nhờ trong những ngày sơ
tán là chuyện b́nh thường, và họ c̣n mừng nữa, v́ như thế là vùng
của họ an toàn, máy bay Mỹ không ném bom. Có điều lần này họ thấy lạ
là những người đến sơ tán đa số là người miền Nam.
Lâu mới uống chè, ngon quá. Chỉ tiếc là không có gừng. Anh Sinh chào
tôi về và nói, nhà của anh ở sau lưng nhà chị Thuận, mời tôi khi nào
rảnh sang uống nước chè. Một lát sau ông Lai và anh chàng Kiệm đến.
Vừa thấy tôi thằng Kiệm la lên bài băi:
“Không, không, tôi không phải ở đây tề. Mà... mà... ở bên tê tề...
thôi, thôi...” Nói rồi hắn xách va li đi ngay. Mọi người đều nghĩ là
hắn nhầm chỗ. Chỉ có tôi biết là hắn sợ ở với tôi có thể bị liên lụy
những điều không tốt.
Nhà chị Thuận rộng, cao ráo, kiểu nhà rường, lợp tranh, ba căn hai
chái. Căn giữa để bàn thờ và tiếp khách. Bàn thờ sơ sài, một bát
nhan, một b́nh sứ để cắm hoa, không có đèn cơi trầu; phía sau là một
cái bàn soạn đă tróc hết sơn. Tôi và ông Lai ở căn dưới. Bốn mẹ con
chị Thuận ở căn trên và chái trên. Cũng như hầu hết nhà ở đây, chung
quanh nhà chị Thuận cũng có tường xây bằng gạch sống và một cái cổng
nhưng không bao giờ đóng. Nhà có một cái sân rộng lát gạch, một
giếng nước rất trong. Trước mặt nhà là một cái ao rộng như một cái
hồ, mùa mưa thả bèo nuôi lợn, mùa nắng trồng nếp. Chung quanh ao là
những hàng tre bao bọc.
Chị Thuận có chồng đi bộ đội vào chiến trường từ năm 1968. Mấy năm
nay gia đ́nh chị không nhận được tin tức ǵ của anh hết. Suốt ngày
chị ở ngoài đồng. Cơm nước do mấy đứa con ở nhà lo. Chị có 3 đứa
con, tất cả đều là gái. Đứa đầu tên Xuân học lớp 7, đứa thứ hai tên
Thu học lớp 4, đứa út tên Lan học lớp 1. Hết buổi học, đĩ Xuân ra
đồng giúp mẹ để lấy thêm công điểm. Đĩ Thu đi học về là quảy triêng
gióng đi hốt phân trâu nộp cho hợp tác xă. Xuân, Thu đứa nào cũng
đen nắng, chỉ có đĩ Lan là trắng và mập tṛn. Về nhà chúng nó làm
việc không hở tay, đứa nấu cơm, đứa vớt bèo cho lợn, giặt giũ, múc
nước vào chum... Cũng như hầu hết các gia đ́nh quanh đây, nhà chị
Thuận ăn no, nhưng không sướng. Bữa nào cũng chỉ có rau muống hái ở
ruộng phần trăm chấm với nước tương. Cá, th́ chỉ có cá vụn cũng kho
với tương, nhưng chỉ thỉnh thoảng. Lâu lâu tôi thấy chị Thuận chặt
một hai cây tre đem ra chợ Mía những ngày phiên bán được bảy tám
đồng. Những ngày đó cả nhà được ăn cá. Ở đây, nhà nào cũng có một
hoặc hai ba cái chum tương để trước sân. Cứ nh́n chum to chum nhỏ,
một chum hay hai ba chum th́ cũng biết nhà đông hay ít người. Tương
làm bằng nếp và ngô. Tương bao giờ cũng được dự tính ăn cho đến giáp
vụ, ngoài tương, muối và ớt ra, tôi không thấy nhà chị Thuận có thêm
một thứ ǵ khác nữa, không có ḿ chính, không có đường, nước mắm...
Mỡ th́ phải đợi đến Tết. C̣n đường th́ cũng phải đợi đến tết, lễ
Quốc khánh 2-9, hợp tác xă mới phân phối cho một nhà một ít mật mía
để nấu chè. Trẻ con, trừ một vài nhà có cán bộ làm việc ở thị xă
hoặc ở Hà Nội, hầu hết ít khi được ăn kẹo. Chúng để dồn lông vịt
hoặc những thứ lặt vặt sắt đồng ǵ đó, thỉnh thoảng đổi cho mấy bà
đồng nát lấy một hai que quệt mật mía ăn dẻo như kẹo. Bánh ḿ, ngay
ở thị xă Sơn Tây dân cũng không có huống hồ là ở đây. Sáng nào tôi
cũng để phân nửa cái bánh ḿ cho mấy đứa nhỏ. Ông Lai thấy thế cũng
làm theo. Chị Thuận nói, chú không để mà ăn, cháu nó đă có cơm,
khoai sắn rồi. Tôi cười, tôi uống nước trà quen rồi chị ạ. Chị thấy
không, sáng sớm mà tôi cũng một bát chè xanh đậm cũng được. Chị
Thuận nói, tôi thấy ít người trẻ mà uống nước chè đặc như chú. Cũng
quen thôi chị ạ.
Tôi thường ngồi nói chuyện với chị Thuận. Ngoài những lúc làm việc
mệt nhọc, khi có hơi thư thả, tôi thấy chị buồn buồn.
“Mỗi lần thấy mấy chú là tôi lại nhớ đến nhà tôi. Nhà tôi đi bộ đội,
năm 1968 vào Nam, ở chiến trường Tây Ninh. Một hai năm đầu nhà c̣n
nhận được thư. Mấy năm nay th́ không có tin tức ǵ hết. Tôi biết ở
chiến trường ác liệt lắm. Anh ấy chắc không c̣n nữa. Chú biết không,
mỗi lần nghe trên xă có giấy báo tử gửi về, những người có chồng đi
B như tôi, cô Th́n, người cứ như mất hồn, không muốn làm, muốn ăn ǵ
nữa. Mấy chị em chỉ c̣n ôm nhau mà khóc thôi”.
Một hôm ăn cơm tối xong, chị Thuận vội vă qua nhà chị Th́n. Một giờ
sau chị về, chị nói với tôi: “Có giấy báo tử gửi về trên xă. Không
biết đến phiên ai đây chú ơi. Đêm nay nhà nào cũng có người khóc”.
Những ngày đó không khí trên Cam Đà nặng nề. Chị Th́n qua nhà chị
Thuận, chị Thuận đến nhà chị Th́n, qua những nhà khác có người đi
Nam ngồi với nhau thút thít, mắt đỏ hoe.
Năm 1976, cháu Xuân gửi thư từ Cam Đà vào Huế báo cho tôi biết là bố
cháu đă hy sinh năm 1968 tại chiến trường Tây Ninh mà đến năm 1976
gia đ́nh mới nhận được giấy báo tử.
Những ngày sơ tán ở Cam Đà tôi được sống dễ chịu hơn. Từ cái không
khí như tù ngục, luôn luôn bị một đám đông ba bốn trăm con người
canh giữ, ŕnh ṃ, thù ghét, khinh bỉ, tôi bỗng có được một không
gian rất rộng và những con người chung quanh hiền từ, vui vẻ. Họ
cười nói với tôi b́nh thường. Họ xem tôi cũng là người như họ. Tôi
được họ gọi bằng anh, bằng chú, bằng em. Hàng ngày tôi chỉ chạm mặt
với cái đám đông coi tôi là thù địch ở nhà ăn. Ở đó, tôi vẫn ngồi ăn
một ḿnh, hoặc chung bàn với các ông Bí thư Đảng ủy, Bí thư chi
bộ... ngay cả ông Lai ở cùng nhà với tôi cũng tránh không ngồi ăn
với tôi.
Bây giờ ăn cơm xong tôi cứ thủng thỉnh đi về nơi ở. Có khi dọc đường
nhiều nhà dân c̣n gọi tôi vào uống nước nói chuyện. Ông Lai có nhiệm
vụ canh chừng tôi. Trừ đi ăn cơm, đi mua hàng, c̣n đi hớt tóc, đến
pḥng đọc sách, ra đồng chơi, tôi đều phải xin phép ông Lai. Ông
Lai, người thấp, to bề ngang, hai cằm bạnh ra, vai rộng và gù lên,
da mặt có màu ch́. Cặp mắt ông ta bao giờ cũng lừ đừ nh́n tôi. Ít
khi ông ta gọi tôi bằng anh, nói với tôi bao giờ ông cũng nói trổng
và từng tiếng một rất to như ra lệnh. Ông ta thường tránh ngồi chung
nói chuyện với tôi. Bất đắc dĩ lắm khi có bà con hàng xóm của chị
Thuận đến chơi, buộc ḷng ông phải ngồi với tôi. Nhưng lúc đó ông ta
cũng tránh nói với tôi, v́ nói với tôi ông phải gọi tôi bằng anh.
Sinh hoạt hàng ngày của tôi không c̣n bị bó hẹp quanh quẩn một ḿnh
tôi nữa. Tôi cảm thấy ḿnh được nhẹ nhàng hơn. Tôi đi ra, tôi đi vào
không có những con mắt trừng trợn, những băi nước miếng đánh bạch
dưới đất. Tôi cười, tôi nói được tiếng to. Đám trẻ con thường đến
sân nhà chị Thuận đánh thẻ, nhảy dây. Tôi ngồi xem chúng chơi đùa,
cười nói. Tôi lấy giấy báo xếp tàu bay, tàu thủy cho chúng chơi, tôi
vỗ tay hát ḥ với chúng. Tôi thường sang nhà anh Đại, anh Sinh, nhất
là nhà anh Cận, uống nước nói chuyện. Anh Đại, trước đi bộ đội bị
thương, phục viên về nhà làm ruộng. Anh Sinh th́ đă lớn tuổi, xă
viên. Anh Cận trẻ hơn tôi một hai tuổi, đi bộ đội, kém sức khỏe được
giải ngũ, bây giờ là cán bộ của một cơ quan nào đó ở thị xă. Anh Cận
có vợ và hai con, vợ anh là xă viên, người xinh đẹp. Nhà của họ ở
xây lưng nhau, có cửa sau đi băng hoặc đối diện với nhà chị Thuận.
Tôi chuyện tṛ với họ vui vẻ và khuây khỏa. Mỗi lần uống nước tại
nhà anh Cận, thế nào rảnh tay, ông cụ thân sinh của anh Cận cũng đến
ngồi góp chuyện. Hai cô em gái, một cô là giáo viên cấp I, một cô
tên Thể đang học lớp 10, bỏ dở về làm nông giúp gia đ́nh, thỉnh
thoảng ghé lại ngồi nghe. Cô chị có khi nói, nhưng cô em th́ không,
chỉ ngồi im và cười. Chuyện nói thường là chuyện đời, chuyện vui,
chuyện phong tục tập quán xoay quanh điếu thuốc, chén trà. Họ hay
hỏi tôi ở Huế, về đời sống của người dân ở Huế. Tôi kể hết với họ
những ǵ tôi đă sống và thấy ở Huế, không giấu, không thêm bớt.
Sống với họ, nói chuyện thành thật với họ, mới hiểu được tấm ḷng
của họ. Không phải họ không thích nói chuyện chính trị, nhưng như
ông cụ thân sinh anh Cận nói: các bác đó (chỉ những cán bộ miền Nam
ở sơ tán) hễ nói chuyện bao giờ cũng tỏ vẻ động viên chúng tôi, lên
lớp chúng tôi. Chúng tôi không thích thế. Ngồi với nhau nói chuyện
nên ḥa đồng mới vui, có thế uống chén nước hút điếu thuốc mới ngon.
Ông Lai không bằng ḷng ra mặt khi thấy những người chung quanh thân
mật với tôi. Nhưng ông ta cũng chịu. Tôi vẫn sống b́nh thường, không
bao giờ tỏ ra là ḿnh cố gắng phấn đấu để lấy ḷng những người như
ông ta. Tôi không sợ ǵ cả. Tôi có tư cách của tôi và tôi phải giữ
tư cách đó.
Dần dần, rồi cũng có những cán bộ bệnh nhân K65 đến chơi với tôi.
Trong số những người này, bác Nhă là người gần gũi với tôi nhất. Lúc
sơ tán về đây, bác ở nhà anh Cận nên tôi hay gặp bác, thành ra thân
quen. Bác Nhă là người Nam Định, khoảng gần 60 tuổi. Năm 17, 18 tuổi
v́ gia đ́nh quá cực, bác đi phu mộ. Trên tàu từ Hải Pḥng vào Nam
bác làm quen với một cô gái cùng quê và kết làm vợ chồng ngay. Bác
kể, lễ cưới là mấy chai li-mô-nát, vài cây kẹo, quây quần vài thằng
bạn cùng quê. Vào Nam, hai vợ chồng làm phu cạo mủ cao su cho đồn
điền của một thằng Tây. Một năm sau, vợ bác ốm nặng và chết. Kháng
chiến chống Pháp, bác đă tham gia làm cơ sở cách mạng, sau đó v́ hay
thay đổi chỗ làm việc nên bác mất liên lạc. Đến kháng chiến chống Mỹ
bác hoạt động lại, rồi bị lộ, cơ sở vỡ, bác thoát ly ra chiến khu.
V́ bị bệnh vết thương cũ hồi chín năm tái phát, lại tuổi già, bác
được ra miền Bắc chữa bệnh. Đến nay bác vẫn chưa vợ chưa con. Sau
một thời gian chữa bệnh, bác xin đi phép về thăm quê. Bác kể, đă mấy
mươi năm rồi, trở về quê tôi vẫn nhớ đường và vào đúng nhà của ḿnh.
Chị tôi mừng đến tái mặt, không ngờ tôi c̣n sống. Nhưng sau đó, chị
tôi bắt đầu nghi ngờ về tôi. Chị tôi hỏi xa hỏi gần tôi về bà con,
cô bác xem có phải tôi thật là thằng Hoàng Văn Nhă không. Khi biết
tôi thật là thằng Nhă rồi, chị tôi và bà con lại nghi tôi là Mỹ ngụy
cài ra hoạt động gián điệp. Tôi đoán biết điều đó và đưa giấy đi
phép và các thứ giấy tờ khác làm chứng. Bà cũng không tin. Chị tôi
lúc đó là Bí thư chi bộ xă. Thế là bà nói Ủy ban hành chính xă điện
ra K65 hỏi. Khi nhận được điện trả lời của K65 bà mới tin.
Chiều nào cơm nước xong, bác Nhă cũng rủ tôi ra đồng chơi. Bác nói:
“Tôi th́ sợ đéo ǵ, thằng cha Nai (Lai) nàm (làm) như anh là tù
không bằng. Anh cứ đi chơi với tôi, không sợ ǵ hết”. Từ khi quen
bác Nhă, bữa ăn nào bác cũng gọi tôi cùng đi.
Về sau có 3 người mới chuyển đến thường hay đến gặp tôi nói chuyện.
Đó là các anh Linh, Kim và Hiến. Cả ba người đều là người Quảng Nam
và là Đảng viên. Loáng thoáng tôi đă gặp họ ở nhà ăn. Họ tự động đến
ngồi ăn cùng mâm với tôi cười nói vui vẻ. Trong câu chuyện qua lại,
họ cho tôi biết tên những người bạn của tôi trước học ở Huế sau vào
Đà Nẵng hoạt động cách mạng. Tôi có những người bạn mà họ cũng quen,
họ có những người bạn mà tôi cũng quen, người Quảng có, người Huế
có. Chúng tôi quen biết nhau là như thế. Rồi họ thỉnh thoảng đến chỗ
tôi ở nói chuyện, mượn sách báo. Linh có nói: tụi tôi đến chơi với
anh, v́ thích anh. Anh đừng nghi là tụi tôi được phân công theo dơi
và t́m hiểu anh để báo cáo.
Năm 1976, tôi hay gặp Hiến ở Huế, lúc đó Hiến học đại học sư phạm
sử. Tốt nghiệp xong Hiến đi dạy đâu ở Quảng Nam. Từ đó tôi không
được tin ǵ về Hiến. Một người bạn rất thân của Hiến tên Phong có
cho tôi biết h́nh như Hiến mất tích ở Campuchia. Kim th́ học đại học
mỹ thuật Hà Nội. Sau ngày giải phóng, Kim làm việc ở Đà Nẵng. Trong
khi bước giật lùi để ngắm bức tranh đang vẽ ở trên sân thượng của
một ṭa nhà cao tầng. Kim đă hụt chân rơi xuống đất chết. C̣n Linh,
sau thời gian ở K65, tôi không có dịp gặp lại.
Những ngày này c̣n có một người thường lui tới với tôi là ông Đặng
Kiếm Ba. Ông tên thật là Đặng Ưa, người Phú Yên, trên bốn mươi tuổi.
V́ mê nhân vật Đặng Kiếm Ba trong truyện Rừng thẳm tuyết dày của
Trung Quốc nên ông lấy bí danh đó. Tôi đă quen ông ta lúc ở bệnh
viện E1 (Thạch Thất, Hà Tây). Hồi đó ông là Phó bí thư Đảng ủy khối
bệnh nhân. Lúc K65 chưa sơ tán c̣n ở thị xă Sơn Tây, ông ta cũng
tránh mặt tôi. Về đây, ông lại hay đến gặp tôi, nhờ tôi vẽ cho ông
học tiếng Anh. Ông cho tôi cuốn “English Grammar” for Pedagogical
Institutes của Liên Xô mà ông ta mua ngày 23.5.1959 ở Hải Pḥng.
Cuốn sách này bây giờ tôi vẫn c̣n giữ.
Ông Ba hay đi Hà Nội, tôi nhờ ông mua giúp mấy tờ báo Liên Xô, Trung
Quốc bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi nói với ông Ba: “Tôi muốn xem
những tờ báo này để biết thêm tin tức. Nhưng tôi rất ngại. Tôi sợ họ
nói tôi đọc báo địch. Nếu có ai hỏi anh cứ nói là anh họ tôi mượn”.
Một hôm tôi đi chơi đến 6, 7 giờ tối mới về thằng cha Lai nghiêm
mặt, gù lưng đứng trên thềm nhà trợn mắt, hai cái môi thâm tím rung
lên, mất b́nh tĩnh, hỏi to, lắp bắp từng tiếng:
“Anh... anh... đi đâu... năy giờ... mới về? Há... há...”
“Anh Ba rủ tôi đi chơi”.
Ông ta thuận chân bước xuống thềm, không nói ǵ nữa. Ông Ba lúc đó
là ủy viên thường vụ Đảng ủy phụ trách thanh niên khối bệnh nhân.
Tôi bước vào nhà, chị Thuận đang ngồi bên phản đứng dậy ra bàn giữa
rót nước, nói:
“Chú Đính uống nước chè xanh. Cháu nó mới nấu”.
Tôi dạ.
Việc người ta đối xử với tôi không giống như người khác, những người
dân thường gần gũi với tôi dẫn dần đă nhận thấy.
Sau khi về đây khoảng hơn hai tuần, một buổi sáng thứ sáu, cô Mùi và
cô Chanh, y tá của K, đem thuốc đến phát cho bệnh nhân. Như thường
lệ, tôi đến nhận thuốc, cô Mùi bảo:
“Hôm nay anh không có thuốc”.
Tôi cứ nghĩ hôm qua cô y sĩ khám bệnh đă quên ghi phần thuốc của
tôi. Đến trưa, chiều cũng không thấy ai đến phát thuốc. Sáng thứ 7,
cô Mùi, cô Chanh đến phát thuốc. Cô Chanh đưa thuốc cho ông Lai, cô
Mùi gấp cuốn sổ phát thuốc lại. Tôi hỏi:
“C̣n thuốc tôi?”
Cô Mùi lật sổ ra, rà ngón tay trên danh sách bệnh nhân.
“Thuốc của anh cắt rồi. Anh không có thuốc”.
Tôi biết sau một thời gian điều trị, y bác sĩ cắt hẳn hoặc giảm bớt
lượng thuốc cho bệnh nhân để theo dơi tác dụng của thuốc, và sau đó
tùy theo t́nh trạng sức khỏe của bệnh nhân mà thay đổi cách điều
trị. Thuốc cắt hoặc giảm là thuốc chữa bệnh, c̣n các loại thuốc bổ
th́ vẫn giữ. Tôi bây giờ th́ thuốc chữa dạ dày và thuốc bổ đều cắt
hết. Sáng thứ 5 tuần tới, cô Xiêm y sĩ đến khám bệnh. Khám cho ông
Lai xong cô cắp sổ đi. Cô Xiêm xem như tôi biết là kể từ nay tôi
không được khám bệnh và phát thuốc nữa.
Máy bay Mỹ đă ném bom một số vùng chung quanh xă Cam Thượng. Thỉnh
thoảng thôn Cam Đài có kẻng báo động. Tôi và ông Lai giúp chị Thuận
đào một cái hầm ếch đủ cho 5 ngưới núp dưới bụi tre trên bờ ao. Đất
mềm dễ đào, nhưng cũng phải hai ngày mới xong. Chị Thuận nói với
tôi:
“Mới đầu tôi cứ tưởng là chú không làm được việc nặng”. Tôi ngả hai
bàn tay chỉ cho chị Thuận thấy những dấu chai, nói:
“Chi chớ đào hầm th́ tôi cũng quen rồi, chị ạ”.
Cứ theo tiếng kẻng báo động mà biết máy bay Mỹ ở gần hay ở xa và đă
xuống hầm hay chưa. Ít khi tôi xuống hầm. Tôi cứ ngồi ngoài miệng
hoặc ra sân xem tên lửa rượt máy bay Mỹ hay các trận không chiến.
Ông Lai cứ ŕnh cơ hội và nặng lời với tôi:
“Sao không chịu xuống hầm. Xuống hầm đi, ngồi trên đó để làm ǵ?
Không sợ dân họ phê b́nh à?”
Tôi không xuống.
“Nó đánh có điểm rồi”.
Bây giờ chiều chiều đi làm về, cơm nước xong, chị Thuận và đĩ Xuân
ngồi đánh mũ rơm và con cúi. Lúc này trẻ con trong thôn đi học đều
đội mũ rơm và mang một vành rơm ở sau lưng. Các lớp học đều có thành
đất cao một mét vây quanh và giao thông hào dẫn ra ngoài. Tôi vừa
nói chuyện với mẹ con chị Thuận, vừa tập đánh mũ rơm cho vui. Chị
Thuận nói:
“Chiến tranh chưa hết, chúng tôi c̣n khổ. Chắc mấy chú, mấy bác ở
chiến trường đă quen với bom đạn rồi. Ở đây, hễ nghe tiếng máy bay
là chúng tôi quá hăi. Ôi, nó mà ném bom xuống đây chắc chết hết
thôi”.
Đĩ Xuân hỏi tôi:
“Ở chiến trường Mỹ nó ném bom dữ lắm phải không, chú Đính?”
“Trong đó, không khi nào là không nghe tiếng bom đạn, không khi nào
vắng tiếng máy bay. Phút im lặng, lúc không có tiếng bom, không có
tiếng máy bay là lúc căng thẳng nhất, là lúc cái chết có thể đến với
ḿnh chưa biết khi nào”.
“Sao thế hở chú?”
“Lúc đó sẽ có B52”.
“Hăi quá chú nhỉ! Thế chú có sợ không?”
“Sợ chứ! Nhưng rồi cũng quen đi như ḿnh quen với cái chết bên cạnh
ḿnh hàng ngày”.
“Chú nói cái ǵ thế?”
“Lúc mới lên rừng, thấy có người chết, nhất là những người vừa mới
ngồi nói chuyện với ḿnh, mới đi mới đứng đó, hay vừa mới gặp ḿnh
hôm qua. Chú sợ và ớn. Nhưng rồi, chiến tranh ngày càng ác liệt,
ngày nào cũng có người chết, và lâu thành ra quen đi”.
“Chắc chú thù thằng Mỹ lắm, chú Đính nhỉ?”
Chị Thuận cười:
“Cái con này, không thù sao chú lại tham gia cách mạng”.
Đĩ Xuân:
“Chúng cháu ghét thằng Mỹ v́ chúng nó ném bom giết nhiều người quá”.
Rồi chị Thuận lại liên tưởng, chị nói:
“Bố chúng nó đi B từ năm 1968. Mấy năm nay không có tin tức ǵ cả.
Chắc không c̣n đâu, chú Đính nhỉ?”
“Nói thế chứ... Có lẽ anh ở chiến trường Nam bộ, đường sá xa xôi,
thư từ khó khăn, mà thường lại hay bị thất lạc dọc đường”.
Chị Thuận nh́n tôi:
“Có mấy người đi bộ đội cũng một lần với anh ấy, người th́ đă chết,
người về được th́ thương binh cụt chân, cụt tay... Tôi chỉ mong nhà
tôi... miễn c̣n sống là được...”
Chị Thuận bỏ cái nùi rơm đang đánh xuống, đứng dậy đi vào nhà. Tôi
nghe có tiếng rót nước vào cốc. Những lúc đó không bao giờ có ông
Lai.
Thỉnh thoảng những cơn dạ dày lại hành tôi. Nhiều lần tôi phải chọc
cổ mữa để cơn đau dịu bớt. Liên tiếp mấy ngày tôi ăn cơm không được.
Một buổi sáng tôi ra ngoài nhà ăn báo cháo. Pḥng trực của y bác sĩ
cũng ở trong nhà ăn. Thấy tôi báo cháo, bà Quy, bác sĩ trưởng khoa
hỏi:
“Anh đau à?”
Bà ta hỏi nhưng không cần tôi trả lời. Bà quay sang cô Chanh, y tá,
bảo:
“Tôi đă bảo mấy cô khi nào anh này đau th́ cho anh ít giọt cồn Ben
la đon”.
Buổi chiều đi ra đồng chơi với bác Nhă, bác nói:
“Anh đau lắm hay sao mà ăn cháo. Tôi trông anh lúc này hơi xanh
đấy”.
Tôi nói là mấy tuần nay tôi không được phát thuốc và khám bệnh nữa.
“Nàm ǵ tồi thế!”
Hôm sau trên đường ra chợ Mía tôi gặp cô Xiêm, cô y sĩ phụ trách khu
vực tôi. Cô Xiêm đi lại gần tôi làm như t́nh cờ đi cùng đường. Không
có ai đi cạnh tôi. Cô nói nhỏ và rất nhanh:
“Bà Quy ra lệnh cho em không khám bệnh và phát thuốc cho anh đấy. Em
đang vội, cho em đi trước”.
Chắc là bác Nhă đă nói với cô Xiêm về chuyện tôi đau. Những ngày này
tôi đi nằm sớm. Cái bụng cứ đau lâm râm, đến hai ba giờ sáng lại đau
thật dữ dội. Tôi nằm co người lại, ép cái chăn bông vào bụng. Một
buổi tối, cô Xiêm đi vào, cô để cái đèn băo bên góc nhà. Không có
ông Lai. Cô bước lại giường tôi:
“Anh Đính sao mà đi ngủ sớm thế?”
Cô cúi xuống bên mùng:
“Anh đau lắm à?”
Cô vén mùng lên, ấn vào tay tôi mấy viên thuốc.
“Ka-vét đấy. Anh uống cho đỡ đau. Thôi, em về”.
Cách một hai hôm sau, buổi chiều, tôi đang ngồi đọc báo trên cái ghế
dài giữa sân, cô Xiêm đến. Cô nh́n vào trong nhà:
“Bác Lai có nhà không anh?”
“Ông ta đi đâu đó”.
Cô ngồi xuống ghế lật tờ báo để bên cạnh bỏ vào một gói giấy nhỏ rồi
gấp tờ báo lại.
“Em xin của mấy ông bệnh nhân đó. Khi nào có Bismuth em sẽ mang lại
cho. Anh đừng cho ai biết hết. Chết em đó. Thôi em qua bên bác Nhă
cái đă”.
Trước kia mỗi lần khám bệnh, tôi hay nói năm điều ba chuyện với cô
Xiêm cho vui. Nay th́ cô ngại. Cô Xiêm có một khuôn mặt tṛn, hai má
đầy và một chiếc răng c̣i. Cô sinh ở Thái Lan nên có tên là Xiêm.
Bây giờ mỗi lần gặp tôi như thế, cô lại dúi cho tôi vài viên Ka-vét,
vài gói Bismuth, có khi cô nhờ bác Nhă đưa cho tôi.
Mùa hè ở đây quá nóng. Nhà nào cũng có tường gạch sống bao quanh nên
kín gió. Buổi trưa không nằm nổi trong nhà, tôi hay ra ngồi trên bờ
tre ngoài ao để đọc sách. Lúc này tôi đang đọc dỡ cuốn Các học
thuyết về giá trị thặng dư (phần thứ hai) của Karl Marx. Từ ngày về
đây nhờ ở phân tán, ít ai nḥm ngó, tôi thỉnh thoảng lại đọc sách và
ghi chép, nhưng chỉ ghi chép hoặc tóm tắt những điều trong sách mà
không ghi những suy nghĩ của ḿnh về những điều đang đọc. Sách vở
của tôi, tôi để ngay ở đầu giường hoặc trên bàn của chị Thuận ở giữa
nhà. Thỉnh thoảng tôi lên chỗ cô Minh, người giữ tủ sách của K, mượn
sách báo. Cô bảo tôi, cần sách ǵ mà tủ sách ở đây không có, cô sẽ
về thư viện thị xă mượn giúp cho.
Ông Lai, người canh giữ tôi, hết sức khó chịu khi thấy tôi đọc sách,
ngay cả lúc tôi cầm tờ Nhân dân trên tay. Mặt ông ta hầm hầm, nhưng
không nói ǵ cả. Những lúc đó cái lưng của ông ta gù xuống.
Máy bay Mỹ đánh những vùng chung quanh ngày mỗi căng và dày hơn. 7
giờ sáng báo động xa, 9 giờ báo động gần, 3 giờ chiều báo động, nửa
đêm báo động. Nghe tiếng kẻng th́ nghe tiếng người lao xao, chộn
rộn, tiếng gọi nhau... rồi im lặng... Không khí như khô đi... rồi vỡ
tan trong tiếng máy bay gầm rú và tiếng súng lớn súng nhỏ lụp bụp
trên trời dưới đất... rồi báo yên, sinh hoạt lại như thường. Học tṛ
đội mũ rơm, mang con cúi sau lưng đi học, xă viên ra đồng, chợ Mía
vẫn đông. Nguyễn Hữu Ngô đến thăm tôi trong những ngày này, buổi
trưa nắng nóng [35].
Tôi đang ngồi ăn cơm một ḿnh. Nhà ăn đă vắng bớt. Tôi ngó trật lên,
thằng Ngô mặt đỏ lù lù ở đâu không biết đang đứng trước mặt tôi. Hắn
cười rồi kéo ghế ngồi bên cạnh tôi.
“Răng rứa mi?”
Tôi cười, ừ. Nhà ăn lại láo xáo. Những người đă cầm bát đũa ra về
đứng lại. Mấy ông Đảng ủy, chi ủy, hội đồng bệnh nhân nh́n nhau.
Những người đang ăn dừng đũa, ngừng nhai, nói nhỏ. Thằng cha Lai với
ông Hà, Chủ tịch hội đồng bệnh nhân ghé sát đầu nhau th́ thầm bên
thùng nước uống.
“Răng mi biết tao ở đây?”
“Tao sơ tán gần Chùa Tây Phương. Hắn đẩy gọng kính sát mũi. Rứa mà
tao tưởng mi đi K3 rồi”.
“Thà rứa c̣n hơn”.
Hắn khoanh tay lên bàn nh́n tôi cười, rồi nh́n chung quanh:
“Họ ngó mi với tao đó”.
Tôi và hết chén cơm đứng dậy:
“Về chỗ tao nói chuyện”.
Thằng Ngô dắt xe đạp đi theo tôi. Tôi nói:
“Ở sơ tán có đỡ. Ở dưới thị xă bọn hắn cứ chằm hăm tao”.
Thằng cha Lai gù vai lạch bạch sau lưng bọn tôi cách mười thước.
Tôi chế một b́nh trà, mang ghế ra sân chỗ có bóng im ngồi nói chuyện
với thằng Ngô. 15 phút sau ông Lai đi ṿng ngă sau nhà anh Cận về
tới. Thằng Ngô nói:
“Bà Trai và ông Doăn Triều đă cho bọn tao biết chuyện của mi. Bọn
hắn làm dữ lắm phải không. Ông Triều và bà Trai nói là mi bị đấu
tố”.
“Cả hàng trăm con người nhảy vào chửi mắng xỉ vả tao”.
“Kinh”. Hắn làm thinh rồi tiếp, “nghe bọn hắn đ̣i bắn mi”.
“Thiếu một chút nữa là tao bị xé xác”.
“V́ răng tụi hắn không đưa mi đi K3?”
“Mi ít biết. Tất cả những người ở đây đều coi tao là kẻ thù, là chó.
Để tao ở đây là một cách hành hạ tao tốt nhất”.
“Khiếp!”
Tôi hỏi:
“Thằng Thanh, thằng Sở ra sao rồi?”
“Hai đứa ở Hà Nội. Thỉnh thoảng có về nơi cơ quan sơ tán”.
“Sau vụ của tao, tao nghe mi c̣n đọc trên đài giải phóng buổi phát
thanh cho Huế, tao mừng. Tao cứ lo bọn hắn làm khó dễ với mi. Lúc
hỏi cung tao, bọn hắn có đưa bài “Cảnh tượng” của mi cho tao đọc và
hỏi tao có biết của ai không, bài thơ nói ǵ? Tao bảo tao không biết
và nói đó là một bài thơ tả cảnh. Mi có nhớ tờ Ḥn Kẽm mi cho tao
mượn không? Bọn hắn bảo tao có liên hệ với bọn sinh viên Việt Nam
phản động bên Tây Đức”.
Thằng cha Lai cứ lảng vảng vô ra trên thềm nhà, ngoài sân, mắt liếc,
mặt hầm hầm. Kẻng báo động có máy bay Mỹ. Tôi với thằng Ngô xuống
ngồi dưới hàng tre bên bờ ao. Tôi nói với thằng Ngô:
“Bọn hắn nghi CIA cài tao vào để phá hoại”.
Chị Thuận và mấy đứa nhỏ xuống hầm. Ông Lai ngồi bên miệng hầm mắt
cứ đảo qua hai đứa tôi. Kẻng báo động khẩn cấp. Có tiếng bom nổ xa.
Súng nhỏ súng lớn bắn loạn xạ trên trời. Tôi kéo tay thằng Ngô đứng
dậy:
“Lên xem tên lửa rượt máy bay”.
Anh Đại, anh Sinh và những người hàng xóm đều đứng trên sân ngẩng
mặt ngó lên trời.
Trên trời máy bay Mỹ chao đảo tránh tên lửa.
Tôi hỏi thằng Ngô:
“Mi thấy không chiến lần nào chưa?”
“Rồi”.
“Ban đêm thấy đạn đan trên trời mới thú”.
Đĩ Xuân, con chị Thuận cũng chạy lên sân. Tên lửa nổ lụp bụp trên
cao. Tôi hỏi đĩ Xuân:
“Cháu có phân biệt được tên lửa nổ với máy bay cháy không?”
“Khói màu da cam là của tên lửa, khói nâu là máy bay cháy”.
Kẻng báo yên. Thằng Ngô về. Tôi đưa nó một đoạn.
“Rảnh, tao tới mi chơi”.
Hắn lên pê-đan, đạp xe chậm chậm dưới hàng bạch đàn. Hắn quay đầu
ngó lại, đưa tay khoát khoát. Tôi nh́n theo cho đến khi hắn đi
khuất.
Tôi vừa bước chân lên thềm nhà, ông Lai đang ngồi trong nhà đứng dậy
hỏi liền:
“Anh đó là ai thế?”
“Bạn tôi”.
“Anh ta ở đâu?”
“Đài giải phóng”.
Một lát sau, ngó lui ngó tới tôi không thấy anh ta ở đâu nữa. Chiều
ngày hôm sau, bác Nhă cho tôi biết: “Tôi nghe mấy ông trong Đảng ủy
nói rằng lâu nay chúng nó nằm im, bây giờ đă bắt liên lạc với nhau.
Cái anh bạn đến thăm anh đó, họ bảo là đồng bọn với anh đó”. Tôi bảo
họ: “Bạn bè lâu ngày không gặp, người ta đến thăm nhau là chuyện
thường. Có ǵ đâu”.
Nửa tháng sau thằng Lê Ích Đề đến thăm tôi. Đề đến vào buổi chiều,
hắn đem theo mấy bao Tam Đảo và một gói trà. Hắn nói:
“Tao ở Viện điều dưỡng gần đây. Người ta nghi tao bị phổi nên chuyển
lên đó để điều trị. Vừa rồi có mấy người ở đây chuyển lên chỗ tao.
Tao nghe được chuyện của mi. Bữa ni sơ tán về đây, tao đến gặp mi và
hỏi cho ra chuyện”.
Tôi kể sơ cho hắn nghe mọi sự của tôi. Hắn ngồi nghe thỉnh thoảng
hơi mím môi. Hắn nói:
“Bọn hắn nói mi dữ lắm. Mi là một tên phản động, một thằng gián
điệp, CIA. ‘Hết ai mà hắn dám nói xấu cả Hồ chủ tịch’. Bọn hắn căm
thù mi, coi mi là địch, là Mỹ ngụy. Hôm đem mi ra đấu ở hội trường
K65 có thằng bảo nếu có súng hắn bắn mi ngay tại chỗ. Bọn hắn cho
Đảng khoan hồng với mi như thế là quá lắm rồi. Bọn hắn đă đề nghị
đưa mi đi cải tạo lao động. Có thằng c̣n nói những thằng như mi
không thể cải tạo được, nhưng phải ‘bỏ tù cho nó biết tay’. Tao nghe
cũng ớn”.
Thằng Đề có tật nói là hay thít tha. Hắn nói bao giờ cũng chậm răi,
sau một câu, hắn mở miệng ra tưởng như cười. Lê Ích Đề ở trong rừng
cũng như ra đây gặp nhiều khó khăn về lư lịch. Và h́nh như v́ lư do
đó mà hắn phải ra Bắc. Tổ chức cho là trong gia đ́nh hắn có người
liên hệ với bọn Đại Việt. Thằng Đề hỏi sinh hoạt hàng ngày của tôi
bây giờ thế nào, tôi nói:
“Tao coi như bị bắt và sống tù. Đi đâu cũng phải xin phép. Ra khỏi
chỗ ở là có người đi theo. Ở đây tao không có bạn bè. Sống như thế
này tao nhớ tụi bây quá sức”.
“Mi c̣n ở đây lâu mau nữa?”
“Tao cũng chịu, không biết”.
Tôi chỉ một cái thùng đang nức dở và mấy cái rổ, rá, nia cũ có, mới
có chưa nức có, nói:
“Hàng ngày tôi ngồi nức rổ rá cho vui. Tao lấy thúng mủng trong nhà
ra nức lại hết. Có mấy ông già người Quảng Ngăi mới đến thường đến
đây đan rổ rá. Họ đan, tao nức giùm”.
“Mi mà cũng biết nức đồ rứa à?”
“Ngó họ làm ḿnh tập th́ biết. Đan th́ tao chịu. Tao không kiên nhẫn
vót nan. Nhưng nức và chạy chân rết th́ tao làm rất đẹp. Thôi th́
những nhà chung quanh đây ai có rổ, rá, nia hư tao đều nức lại cho
hết. Cũng vui. Cắn chặc cặp vành giữa hai hàm răng rút mạnh sợi mây,
nghe kêu rắc rắc... thú vị và sung sướng vô cùng. Có nhiều khi cũng
tức v́ nửa chứng đứt mây”.
Thằng Đề cười h́ h́. Tôi kể cho hắn nghe mới đây thôi, tôi đang ngồi
dựa cột đọc báo trên thềm nhà, hai ba ông bệnh nhân với mấy người
hàng xóm, người đứng người ngồi uống nước chè nói chuyện giữa sân,
chị Thuận sửa soạn ǵ đó trong nhà, ông Lai gù vai xuống hậm hực
bước lên thềm, không nh́n tôi nói lắp bắp: “Anh... anh nên học đan
đát đi. Tôi nói thật, những người như anh sau này không ai dùng
đâu”. Tôi nghe tiếng ông già người Quảng Ngăi đang ngồi đan rá ngoài
sân: “Mệt quá, ông Lai ơi! Ǵ đâu không”. Ông Lai hỷ mũi bước nhanh
vào nhà.
Thằng Đề cầm gói thuốc xắc mân mê những sợi thuốc nói:
“Mi hút thuốc nhiều quá. Tao cũng cố bớt dần. Thuốc này mi kiếm đâu
ra đây?”
“Ừ, bây giờ tao chỉ có thuốc với trà. Tao thường ngồi hút thuốc uống
trà một ḿnh, ngó trời đất cây cối, xem bọn trẻ con chơi đùa, căi
nhau. Thuốc đó tao nhờ bà chủ nhà mua ngoài ḷ sấy. Mua dễ lắm, một
xấp có ba bốn hào. Tao chỉ hút được loại 2, loại 3, loại 1 quá nhẹ.
Có khi mấy ông xă viên hàng xóm cho cả một bó”.
“Này, thằng Đề uống một ngụm nước, hai môi chúm lại, này Đính, lúc
hỏi cung mi, bọn hắn có nói chi tao không?”
“Có, có. Bọn nó hỏi tao lúc lên K65 gặp ai. Tao bảo lên thăm ở chơi
với mi và thằng Minh mấy ngày”.
Hắn chím môi cười hỏi:
“Này, tụi Thừa Thiên hắn đối xử với mi ra răng?”
“Ui chào, tụi hắn cho tao làm nhục, bôi xấu quê hương. ‘Cái đồ nó
sống làm chi cho dơ dớp’. Có đứa nhổ nước miếng ngay trước mặt tao.
Chẳng có một thằng người Thừa Thiên nào đến chơi với tao hết”.
Thằng Đề ngồi nói chuyện với tôi một lúc nữa rồi về. Hắn đi nhờ xe
đạp một người khác cũng đến đây thăm bạn.
Măi hơn hai năm sau tôi mới có dịp gặp hắn ở Hà Đông. Thằng Đề là
một thằng rất lạ. H́nh như hắn có cái ǵ đó hơi rắc rối trong cuộc
sống riêng tư và trong gia đ́nh nên trong cách cư xử với những người
khác nhiều khi hắn có vẻ khắc khổ. Sau này về Huế có dạo tôi gặp hắn
luôn, rồi biệt đi có hàng tháng hắn mới ló mặt gặp anh em. Hắn cứ
vội vàng nhưng xét ra cũng chẳng có việc ǵ đến nổi hắn phải hấp
tấp.
Hàng tuần thường có người từ bệnh viện E2 ở Hà Nội, E1 ở Thạch Thất
chuyển đến, và những người ở đây chuyển đi nơi khác. Những người
thương tôi cũng dần dần đi hết. Những người mới đến bao giờ cũng
được chi bộ cho biết về tôi để cảnh giác và canh chừng. Hôm nào có
người mới đến bao giờ ở nhà ăn cũng có người chỉ chỏ tôi th́ thầm:
“đó, hắn đó”, “thằng nó đó”. Phần nhiều những người mới đến đối xử
với tôi ít căng thẳng, v́ họ là những người không dự cuộc đấu tố
tôi. Hơn nữa, do hoàn cảnh sơ tán ít thấy nhau, nên cũng đỡ cho tôi.
Hôm đó, Lịnh, Kim và Hiếu đến chơi. Lịnh nói:
“Hôm kia mít tinh bọn tôi không thấy anh. Sáng nay họp chi bộ tôi có
hỏi mấy ông: V́ sao không để anh Đính dự mít tinh? Mấy ông trả lời:
“Lệnh của Cục bảo vệ Đảng của Ban thống nhất Trung ương không cho
anh Đính tham dự bất cứ một cuộc họp nào”. Có ông nói: “Mít tinh kỷ
niệm Quốc khánh (?), thằng Đính không xứng đáng để tham dự”. Tôi
không đồng ư: “ở trong tù bọn địch bắt chúng ta phải chào cờ ba que
của chúng. Chúng ta phải để cho anh Đính tham dự mít tinh để chào
cờ. Mà anh Đính đâu phải địch. Chúng ta không nên quá hẹp ḥi và
phải cao thượng. Các đồng chí làm như thế khó mà cảm hóa được người
khác”. Có một ông đă nói: “Đối với thằng Đính cho nó sống được như
thế này là may cho nó lắm rồi”.
Tôi nói:
“Nói thật, lúc này mà tôi phải ngồi giữa đám đông những người ở
trong K này, cũng cực cho tôi...”
Kim hỏi:
“Tôi nghe nói có một người tên Tấu hay Tấn ǵ đó cùng quê với anh
nói rằng lúc c̣n ở thị xă Sơn Tây, anh đă đến pḥng của anh ta chơi,
trong lúc nói chuyện anh đă kể cho một số người nghe nội dung một
cuốn phim Mỹ. Anh ta bảo lúc đó và những người khác không để ư ǵ về
chuyện đó. Nhưng sau khi biết về con người anh, anh ta mới thấy anh
là một tên nguy hiểm. Anh ta đă báo cáo cho lănh đạo khối bệnh nhân
biết nội dung cuốn phim mà anh kể là phản động, đồi trụy. Và anh bị
kết án là đă t́m cách đầu độc thanh niên bằng phim ảnh của Mỹ ngụy.
Các chi đoàn đă họp để vạch trần những tư tưởng phản động chống Đảng
của anh và phát động trong toàn các chi đoàn một đợt căm thù tội ác
của Mỹ ngụy và cảnh giác những âm mưu thâm độc của chúng”.
Tôi mở miệng như cười, rồi thở ra một hơi:
“Tôi biết anh ta, tên của anh hơi khó nhớ, Tấn, Tấu ǵ đó. Anh ta
người cao, ốm, đen, tóc quăn, ít nói, hoặc nói không ra tiếng. Dạo
sau này gặp tôi, hắn giả vờ không thấy, rồi lăng đi. Hắn sợ liên
lụy. Trước tôi thỉnh thoảng có nói chuyện với hắn. Có một lần đến
chơi ở pḥng hắn, tôi có kể cho hắn và một cô bé tên Phương người
Quảng Ngăi, cụt cánh tay phải với một hai người nữa nội dung một
cuốn phim mà tôi đă xem ở Huế. Đó là phim La Strada của một đạo diễn
người Ư, Federico Fellini. Ờ, th́ ngồi với nhau nói chuyện chơi, tôi
luôn miệng cũng kể cho vui. Nhiều khi c̣n kể chuyện ma nữa chớ”.
Nói xong tôi cười ra tiếng, Lịnh nói:
“Người ta cho là anh đă bị nhiễm nặng tư tưởng tư sản phản động, khó
mà gột rửa được”.
Rồi Kim hỏi:
“Chắc anh muốn đi khỏi đây cho đỡ căng thẳng?”
“Đâu cũng thế thôi. Mà tôi đâu có muốn cái ǵ được”.
Tất nhiên tôi không thể nói hết suy nghĩ của ḿnh với những người
bạn này. Cũng phải bán tín bán nghi chớ. Lâu ngày quá, tôi cũng quen
đi cái không khí của những người chung quanh đối xử với tôi như thế.
Một hôm ăn cơm xong tôi ngồi trước sân uống nước cho mát. Một ông
nào đó tôi không quen mặt, đến kéo ghế ngồi cạnh tôi. Tôi đoán ông
ta là cán bộ của Cục đón tiếp cán bộ B. Ông ta nói ngay liền:
“Tôi tiếc cho anh quá. Nếu anh không phạm những sai lầm nghiêm trọng
vừa qua th́ anh đă được đi tham quan ở nước ngoài rồi. Anh Nguyễn
Viết Trác cũng đang chuẩn bị đi Hungary đó”.
Ông ta c̣n nói thêm một lúc nữa. Tôi ngồi yên uống nước không nói ǵ
hết. Rồi ông ta đứng dậy chào tôi đi.
Tôi thường hay bị hành hạ bằng những cuộc nói chuyện chán ngắt,
nhưng vẫn không đứng dậy đi được, phải ngồi im nghe. Và, những lúc
đó, tôi chỉ thấy chung quanh ḿnh, bàn ghế, b́nh chén, đất đá cây
cối. Những lúc đó, tôi cứ nh́n chăm chăm một viên sỏi, một cục đất,
một rễ cây ở xa, ở ngoài xa, ở ngoài tôi và người tôi đối mặt.
Một đêm tháng 12.1972, Mỹ đánh B52 Hà Nội. Tôi đang nằm liền vùng
dậy chạy ra sân. Lửa chớp sáng rực một dăy dài phía trên nóc nhà chị
Thuận. Tiếng nổ xa từng trận không dứt, rầm rầm.
“B52 rồi!”
Những nhà chung quanh người ta gọi nhau thức dậy. Tôi hỏi anh Đại và
anh Sinh, những người hàng xóm của chị Thuận:
“Hướng đó có phải là Hà Nội không?”
“Đúng là Hà Nội”.
Lửa trên trời phía trên Hà Nội cứ chớp liên tục, đỏ ối.
Tôi cảm thấy ḿnh như tức thở và trong người xôn xao.
Mỹ đánh B52 Hà Nội 12 ngày đêm, hiệp định Paris, tôi vẫn ở Cam Đà.
Những ngày mùa hè nóng rát da ở đây như vẫn c̣n lại trong trí nhớ
của tôi đầy đủ những cảm giác mệt mỏi buồn chán và xúc động. Tôi
thường nằm trên đám lá tre khô trên bờ ao sát cánh đồng. Buổi trưa
nhiều khi gió rất nhiều. Tôi nh́n mấy cây chuối mọc cheo leo bên bờ
nhớ lại những ngày c̣n nhỏ của tôi ở Vỹ Dạ. Bây giờ chắc mẹ tôi vẫn
c̣n đi bán cháo ở ngoài chợ hay trên Đập Đá, dưới hàng hiên Morin
ngoài đường Lê Lợi. Chiều nào cũng thế đi học ở trường Thế Dạ về,
tôi nấu cơm rồi in đầy một đọi, xé miếng lá chuối đậy lại, một tay
bưng cơm, một tay cầm cây đèn bóng đem ra chợ cho mẹ tôi. Năm lớp
nh́, lớp nhất, bốn năm ở Bồ Đề, ba năm ở Quốc Học, công việc đó đối
với tôi hàng ngày vẫn cứ đều đặn. Cho đến năm 1962, tôi đậu tú tài
và đi dạy học ở trường bán công Truồi, thỉnh thoảng lúc nào rảnh tôi
mới bới cơm và mang đèn ra chợ cho mẹ tôi. Vào nhà tôi ăn cơm một
ḿnh, lấy sách vở ra học bài, rồi đóng cửa lại leo lên ngựa nằm ngủ.
Khoảng 10 giờ là sớm nhất, thường khi là 11, 12 giờ, có khi 2, 3 giờ
sáng, có tiếng chó sủa ngoài xóm, rồi có tiếng ḥ, rồi một ánh lửa
lúc sáng lúc tối, lúc mất lúc c̣n lấp loáng qua hàng chè tàu, mẹ tôi
về. Tiếng hát vẫn kéo dài mệt mỏi, áo năo cho đến khi mẹ tôi đặt
gánh xuống đất, kéo vạt áo lên lau mặt. Những đêm mùa đông mưa to
mới thê thảm. Có khi đến 2 giờ sáng mẹ tôi mới về. Lửa trong ḷ vẫn
đỏ chập chờn. Cháo c̣n, ḷng c̣n. Mẹ tôi bảo: con với mấy đứa ăn hết
cháo đi. C̣n ḷng với thịt th́ cái ni xắc ăn hết, c̣n cái ni luộc
lại cho mạ, không thôi siu. Mạ tôi đi nằm. Tôi kêu thằng Bé, thằng
Vinh, anh Tân, những người bạn nghèo khổ hàng xóm tới ăn cháo. Cháo
lúc đó bao giờ cũng ngon. Bốn năm giờ sáng mẹ tôi dậy đi lấy ḷng.
Tôi múc nước đổ vào khương đặt lên bếp, nhen thêm một bếp bắc ấm
nước sôi, chế trà. Có mùa mẹ tôi đi bán sớm, có mùa đi bán chiều, mà
cũng c̣n tùy cháo ḷng cháo gà hay cháo vịt nữa. Những buổi trưa
ngồi lặt rau sống, những buổi chiều buổi tối ngồi một ḿnh, mẹ tôi
hay hát, khi th́ ḥ mái nh́ mái đẩy, khi th́ ru em, những câu hát
buồn đau đớn. Mẹ tôi hát và khóc một ḿnh. Những câu hát đó cứ luẩn
quẩn măi trong trí tưởng tôi suốt cả đời.
Đêm khuya dựa gốc cây ḅng
Nước chua gió xuống động ḷng em đau
Như lúc này đây tôi đang nằm ở dưới hàng tre ở cái xứ sở xa lạ này,
những câu hát đó ṿ xé ruột gan tôi. Những câu hát đó lại chập chờn
trong ánh lửa thấp thoáng, và mẹ tôi như một bóng ma, trên vai một
gánh cháo mệt mỏi thất thểu giữa đêm khuya mưa gió, rồi thắp một nạm
hương ra sân khấn vài trời đất, khấn vái ba tôi phù hộ cho tôi c̣n
sống. Sau này tôi mới biết, v́ không chịu nổi cái cảnh trống vắng,
cô quạnh của cảnh nhà mà nh́n đâu cũng thấy như tôi có ở đó, mẹ tôi
đi bán thỉnh thoảng ngủ luôn ngoài chợ Vỹ Dạ.
Lần khảo tra tôi ở Hà Nội, thằng cha Lai hỏi vặn tôi: “Anh khai man
lư lịch, anh nói mẹ anh bán cháo ở chợ Vỹ Dạ là nói láo. Chúng tôi
biết là mẹ anh mở một tiệm ăn rất lớn ở Huế”. Tôi nói: “Lúc tôi đi,
mẹ tôi bán cháo ngoài chợ. Lâu nay tôi không liên lạc được với gia
đ́nh, tôi không biết ǵ hết”. Những cái ông này bao giờ cũng muốn
cho người ta nghèo khổ măi để cho lư lịch được trong sạch. Có nghèo
khổ mới căm thù đế quốc, tư bản, mới trung thành măi măi với họ, với
cách mạng.
Tôi cứ sống âm thầm một ḿnh thế này, hết đọc sách, đọc báo lại
quanh quẩn qua các nhà hàng xóm uống nước nói chuyện, ngồi xem mấy
đứa trẻ chơi đùa. Tôi kiếm giấy báo cũ xếp tàu bay, tàu thủy cho
chúng chơi. Nhiều khi muốn lên chùa Tây Phương xem cho biết, nhưng
phải báo cáo, xin xỏ mấy ông lănh đạo, tôi cũng chán nên thôi. Cô
Xiêm thỉnh thoảng lén cho tôi Ka-vet, Bismuth.
Một buổi chiều tôi sang nhà anh Cận chơi. Cụ thân sinh anh Cận và
anh đang ngồi uống nước trên bức phản kê sát thềm nhà, thấy tôi ông
cụ gọi:
“Chú Đính vào uống chè”.
Tôi dạ. Chuyện qua lại một lát. Ông cụ hỏi:
“Chắc mấy bác, mấy chú sắp trở về thị xă rồi chớ ǵ?”
Anh Cận nói:
“Mỹ hết đánh bom rồi, các anh cũng không c̣n ở đây lâu nữa đâu”.
Ông cụ nói:
“Chú Đính ạ, tôi cũng như bà con quanh đây, chú Sinh, chú Đại, cô
Thuận đều biết t́nh cảm của chú. Chú sống ở đây dễ gần một năm rồi.
Có một lần, nói thật với chú, tôi mượn chén rượu làm như t́nh cờ
ngồi nói chuyện với bác Lai. Tôi nói thế này: bác Lai ạ, việc của
mấy bác chúng tôi không dám xen vào, nhưng tôi thấy giữa chú Đính và
mấy bác ở đây có một sự khác biệt về cách đối xử. Các bác, các chú
cũng là người ở chiến trường ra cả, đối xử với nhau như thế cũng
không phải cho lắm, củi đậu mà lại nấu đậu, tôi thấy đau ḷng lắm.
Chú Đính có những chuyện ǵ đó chúng tôi không rơ, tôi chỉ xin nói
với bác Lai điều này. Thời gian ở đây chú Đính là một người rất tốt,
bà con ai cũng thương. Bác Lai với bác Nhă sống gần với chú Đính,
sau này xin bác báo cáo lại với tổ chức như thế. Nghe tôi nói thế,
ông Lai làm thinh, chỉ ậm ừ những ǵ đó rồi nói lăng qua chuyện
khác”.
Anh Cận nói:
“Nhiều lần nói chuyện với anh tôi cũng hiểu được một phần nào hoàn
cảnh của anh. Bác Nhă cũng đă nói cho tôi biết một ít về anh. Bà con
chung quanh họ thấy chứ. Anh không được đi họp, không được khám
bệnh, không được phát thuốc, đi đâu ra khỏi đây cũng có người đi
theo. Bọn trẻ con bảo, chúng cháu thấy chỉ có bác Lai là được khám
bệnh và phát thuốc không thôi. Mà bác Lai lại hay nói tiếng to và
nặng lời với chú Đính. C̣n chú Đính th́ làm thinh. Nói thật với anh,
tôi thấy ông Lai thế nào a. Ở đây chẳng có ai có cảm t́nh với ông
ấy”.
“Cũng may cho tôi, về ở đây có bớt căng thẳng hơn ở thị xă. Tôi cảm
ơn hết sức tấm ḷng của ông cụ, của anh, chị Thuận và bà con... với
mấy cháu Xuân, Thu, Lan, đĩ B́nh, đĩ Sinh...”
Viết đến ngang đây, tôi như đang sống những ngày đó ở Cam Đà với
những con người mà tôi vừa kể tên, tôi thấy rơ từng nét mặt, h́nh
dáng, cửa chỉ, giọng nói của mỗi người...
Buổi chiều trước khi sáng mai về lại K65 ở thị xă Sơn Tây, tôi nói
với ông Lai lấy cơm về ăn chung một bữa với gia đ́nh chị Thuận cho
vui. Tối đó, nhà nào cũng mời tôi uống nước nói chuyện. Anh Cận cho
tôi một lạng chè và một gói thuốc rê. Chị Thuận cho tôi một bó thuốc
lá ngon. Chị nói:
“Khi nào có ai về Sơn Tây tôi gửi thuốc cho chú. Mà chú hút thuốc
nhiều quá”.
Tôi nói với chị, chị thông cảm cho tôi, về thị xă rồi tôi khó có dịp
trở lại thăm chị với các cháu.
“Thôi, khi nào về thị xă, chúng tôi sẽ ghé thăm chú”.
Nói thế, nhưng tôi biết những người ở thôn Cam Đà này có người năm
sáu năm chưa khi nào đặt chân đến thị xă.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm cùng bác Nhă đi từ giă hàng xóm. Anh Cận
bắt tay tôi:
“Chúc anh mạnh khỏe. Tôi mong mọi sự đều tốt đẹp cho anh. Tôi hy
vọng sau này có dịp vào Huế”.
Tôi để lại phần bánh ḿ buổi sáng và buổi trưa cho mấy đứa nhỏ. Tôi
xoa đầu đĩ Xuân và đĩ Thu, rồi bế đĩ Lan lên:
“Chú Đính về thị xă nghe. Khi nào có dịp chú lên thăm mấy cháu. Chúc
các cháu học thật giỏi”.
Chị Thuận rơm rớm nước mắt:
“Bác Lai và chú Đính uống một bát chè xanh rồi đi”.
Chị quay vào buồng, rồi trở ra:
“Tôi phải ra đồng đây. Bác Lai và chú Đính lên đường mạnh khỏe”.
Anh Sinh, anh Đại, anh Cận mang đồ đạc giúp tôi và ông Lai ra xe.
Chị Thuận vác cuốc đi theo, đến ngă rẽ ra đồng, chị nói:
“Chú đi mạnh khỏe, chú Đính nghe. Không lên đây chơi được, chú nhớ
viết thư. Mấy đứa nhớ chú lắm đấy”.
H́nh như trước ngày chuyển lên K100 một hai hôm tôi có đuồng theo xe
đạp một người nào đó lên Cam Đà thăm bà con.
Chú thích:
[1] Số Đảng viên ở K65 có trên 80 phần trăm.
[2] Bài này in trong tờ Cờ Giải Phóng - Cơ quan của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng thành phố Huế, tháng 5-1969, sau đó một tờ báo nào đó ở
Hà Nội in lại.
[3] Mấy câu này tôi viết về mẹ tôi, sau tôi làm đề từ cho bài này.
[4] Khi đăng lại tờ báo ở Hà Nội sửa lại câu “c̣n tôi tên lính nhỏ”
thành “c̣n tôi người lính nhỏ”.
[5] Tôi thường hay viết những bức thư trong các tập vở hoặc giấy rời
cho những người mà tôi tự đặt ra những cái tên A, B.... nào đó,
tŕnh bày những suy nghĩ của tôi về miền Bắc, cảnh vật, sinh hoạt
của dân chúng ở những nơi tôi đến, sinh hoạt hàng ngày của tôi, có
khi nhắc lại những kỷ niệm của tôi với bạn bè, ở trong rừng, ở Huế,
lúc c̣n đi học... Tất nhiên những bức thư này không bao giờ tôi gửi.
Viết thư như một cách ghi chép, viết nhật kư của tôi, nhưng dưới
h́nh thức đối thoại, nói chuyện. Cách này lâu nay tôi vẫn hay làm.
Ông Lai đă dẫn ra một số đoạn trong những bức thư này và cho đó là
thư tôi gửi cho bạn bè ở trong Nam.
[6] Quê hương đây là Thừa Thiên. Người phát biểu là một người quê ở
Thừa Thiên.
[7] Người phát biểu này tôi nhớ không rơ tên, là Hoàng Hương Việt
hay Hoàng Việt Hương. Anh ta người Quảng Nam, sau này có đi học một
lớp báo chí ở trường Tuyên huấn Hà Nội th́ phải. Khi anh ta nói có
tiếng x́ xào “anh ǵ mà anh, tên Đính thôi”.
[8] Chắc anh ta nhầm tôi với một người nào đó.
[9] Anh ta có kể một số tên mà anh ta liệt vào bọn bồi bút ở Sài
G̣n. Tôi không ghi lại nên không nhớ.
[10] Đây là phát biểu của một người tên Hoàng Hương Việt hay Việt
Hương ǵ đó
[11] Ông này tên Điềm, bác sĩ trưởng K, người ở Nghệ An hay Thanh
Hóa tôi không rơ.
[12] Có thể chỉ Đài Phát thanh Cờ đỏ, công cụ chiến tranh tâm lư
loại “xám” của Mỹ hoặc Việt Nam Cộng ḥa trước năm 1975. BT
[13] Phát biểu của cái anh tên Việt.
[14] tức cán bộ ở chiến trường miền Nam.
[15] Tôi viết lại dưới đây bản kiểm điểm ghi tóm tắt những ư chính,
thường gọi là gạch đầu ḍng của tôi đă được hai ba ông trong đoàn
khảo tra tôi hướng dẫn từng điểm, từng chữ, sửa lui sửa tới mấy lần.
[16] Tôi được hướng dẫn phải thêm vào: v́ tự cao tự đại.
[17] Có lẽ ông ta căn cứ vào bài thơ “Những con đường đă đi qua và
những con đường sẽ đi tới” của tôi làm năm 1968.
[18] tức Hồ Tính T́nh
[19] Hiên nhà (BT)
[20] Họ là công an, Ban Bảo vệ Đảng, Cục 78... tôi cũng chỉ được và
phải viết, như họ đă tự xưng, Cục đón tiếp cán bộ B
[21] Ông Thanh gạch dưới hai chữ suy nghĩ và ghi ngoài lề: hành động
[22] Ngoài lề đoạn này có ghi chú của ông Thanh: “từ đó mà đă chống
đối thế nào, nay nhận thấy sai lầm, v́ sao, phân tích”.
[23] Ghi chú bên lề của ông Thanh: “từ đó đă xuyên tạc, chống đối ra
sao, nay thấy sai lầm chỗ nào, phân tích”.
[24] Ông Thanh đánh dấu x ở đây và bảo tôi: “anh viết thế này chưa
đủ và thiếu thành khẩn”.
[25] Hai chữ bất măn là do ông Thanh bảo tôi thêm vào
[26] Ông Thanh ghi: ai? Nêu rơ; và ở ngoài lề: c̣n kết tội và đả
đảo, treo cổ và bắn, xem là kẻ thù như thế nào? Tôi có nói với ông
Thanh thế này: hôm ở K65 tôi đă có nói cho các anh biết ư của tôi là
thế này: hễ mỗi lần những nhà nghiên cứu, phê b́nh văn học lúng
túng, t́m không ra lối thoát khi b́nh giải th́ lại trích dẫn ra
những tên Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... làm bằng cứ và bùa
phép... Tên ở đây có nghĩa là tên tuổi. Ông ta không chịu. Ông ta
chỉ nói một cách đơn giản: Anh phải viết theo sự góp ư của tôi
[27] Milovan Djilas (1911-1995) Lănh tụ chính trị và nhà văn Nam Tư.
Cuốn Giai cấp mới đă đăng trong Tủ sách talawas (BT).
[28] Ông Thanh ghi thêm: cụ thể?
[29] Ông Thanh ghi: học sao?
[30] Chỗ hắn ở cách chỗ tôi một bức tường ngay góc khay của ṭa nhà.
[31] Sau này rất lâu, tôi mới biết là cái ông Bí thư Đảng ủy này lúc
về Từ Hồ học bổ túc văn hóa bị phát hiện là mang khai lư lịch và bị
tước Đảng tịch.
[32] Chắc là anh ta phải ra ngoài thị xă nhờ người quen là áo quần.
Thời buổi này mà mặc quần áo là cũng là một kỳ công.
[33] Ba bốn tháng sau tôi được phân công đi mua hàng tiêu chuẩn hàng
tháng thuốc lá, sữa, đường... của tổ. Chỉ có lúc đó tôi mới tiếp xúc
và nói qua nói lại tự nhiên với mọi người. “Anh c̣n thiếu tôi năm
hào”, “bác c̣n thừa một đồng”, “căng tin bảo tháng này không có chè
loại một”, “thuốc hút chưa có đủ, nên căng tin tạm ứng mỗi người năm
bao”...
[34] Cho đến sau này năm 1988, có người trên báo Công An B́nh Trị
Thiên, khi phê b́nh bài thơ “Người đàn ông 43 tuổi nói về ḿnh” của
tôi vẫn c̣n gọi tôi là một con chó, con tô, con mực ǵ đó.
[35] Khoảng tháng 5 tháng 6 năm 1972.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại