Đó Đây Trên Quê Hương

Darren Thăng

LTG: Kính dâng thân phụ đă phù hộ để hoàn thành sáng tác nầy.

Như bao thanh niên thời ly loạn, bố tôi đi quân dịch theo lệnh ṭng quân nhập ngũ 3 năm của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm khi vừa mới di cư vào Nam không được bao lâu. Năm 1954, ông chừng 19-20 tuổi và mới lập gia đ́nh với mẹ tôi từ ngày c̣n ở miền Bắc. Dĩ nhiên lúc đó, ông bà chỉ là cặp vợ chồng son nên đi đâu cũng có nhau. Mẹ tôi với bản tính nhút nhát, hay dựa vào quyết định của chồng nên hễ ông đóng quân ở đâu th́ bà lại tháp tùng đi theo đến đó. Bố tôi hay bị thuyên chuyển đi nhiều nơi, thậm chí có thể nói là khắp vùng I và II chiến thuật. Ông là người thẳng thắn, không luồn cúi cấp trên nên thường bị xếp đ́ đi chốn xa xôi. May mắn th́ được đóng ở gần thành đô độ vài tháng, rủi ro th́ nơi rừng sâu nước độc mút chỉ cà tha. Những địa danh hẻo lánh nhiều sơn lam chướng khí, ít dân th́ chỉ ḿnh ông đơn độc đi mà thôi. Dần dần mấy năm sau đó, vài mống con sinh ra đời trong doanh trại nên khi chúng tôi lớn lên đành phải coi trại gia binh là nhà của ḿnh vậy...

Những nơi bố tôi từng đi qua như Huế, Đà Nẵng và cao nguyên Trung phần, không có nơi nào tôi có ấn tượng sâu sắc bằng Huấn Khu Dục Mỹ(đặc biệt là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân) và thành phố Tuy Ḥa, tỉnh Phú Yên. Khoảng năm 1965 hay 1966 lúc đó tôi lên 5 tuổi, đă hiểu biết và có trí khôn một phần nào nên chỉ nhớ được các địa danh nầy mà thôi. Vài h́nh ảnh ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ, cứ gợi đi rồi gợi lại xao xuyến trong tiềm thức của tôi từ nhỏ cho đến nay đă gần về già, như chính ḿnh từng sống qua cuộc đời lính chiến gian khổ vậy. Nếu nhớ không lầm như là tôi cùng với mấy nhóc t́, con cái của sĩ quan huấn luyện đă chứng kiến khoá sinh tập huấn các bộ môn căn bản Biệt Động Quân như đi dây kinh dị, tử thần, cầu dây, leo núi và tuột núi. Bài học đi dây tử thần (tựa zip line) mà hầu hết các khóa sinh, từng tốt nghiệp khóa Rừng Núi Śnh Lầy đều biết. Lũ nhóc gọi đùa môn đi dây nầy là: “tuột ga phăng thắng”, bằng cách dùng dây cáp để băng qua suối. Điểm A đầu dây cáp cao hơn điểm B, cuối dây. Trước hết, khoá sinh leo lên vị trí bục cao với tư thế chuẩn bị. Hai bàn tay khóa sinh nắm chặt đoản cây móc vào trục ṛng rọc (pulley), nối với sợi dây cáp. Khóa sinh đu nhẹ co hai chân lên, hơi bật ngửa ra phía sau để lấy trớn và trục ṛng rọc bắt đầu lăn dốc nhanh về hướng bên kia bờ suối. Trục ṛng rọc tŕ vào sợi dây cáp do vận chuyển sức nặng thân người, tạo ra lực ma sát kêu xành xạch. Khi khóa sinh ra giữa ḍng suối dây cáp nặng chùng xuống, người huấn luyện viên đứng bên kia bờ phất cờ màu đỏ, khóa sinh sẵn sàng buông tay khỏi đoản cây móc vào trục để rơi xuống mặt nước một cái bơm. Nước bắn lên tung tóe và khóa sinh tự lội vào bờ hay được vớt bằng canoe. Điều lạ kỳ là các khóa sinh phải mặc quân phục và đi giầy sault trong lúc luyện tập nên khó bơi. Ở băi tập khác, khóa sinh đi trên cầu dây có hai dây quai vịn tay để băng ngang một con suối với một thời gian ấn định. Đơn giản tôi chỉ nhớ được như thế! Không biết có chính xác hay không? Đại khái binh sĩ tập luyện bộ môn của binh sĩ. C̣n con nít sống trong trại cũng có tṛ chơi riêng. Nhớ mang máng ai đó, đă cột một sợi dây thừng lớn vào một thân cây để bắc qua con suối cạn, từ bên nầy sang bên kia với chiều cao hai bên bằng nhau. Đám nhỏ từng đứa một, bám tay vào sợi dây thừng. Đu lần ra giữa con suối rồi nhẩy dù xuống nước. Tại một tụ điểm ghềnh thác khác, con nít hay đứng trên các mơm đá nhẩy ùm xuống dưới suối tắm và nô đùa với nhau vào mỗi buổi trưa chiều. Thời đó, nước đổ từ ghềnh cao xối xả và trong lắm. Tắm mát đă luôn. Nay mường tượng lại nhiều tṛ chơi trong Huấn Khu Dục Mỹ, thấy dzui ơi là dzui…

Nhắc đến Dục Mỹ là nói về thác và suối. Nhiều nơi trong Huấn Khu Dục Mỹ, nh́n đâu cũng thấy thác nước, hồ và suối? Đa số vợ con binh sĩ đồn trú ở Huấn Khu Dục Mỹ đều uống nước suối và tắm giặt bằng nước hồ th́ phải? Một thắc mắc lớn mà tôi đặt câu hỏi măi cho tới nay, là nhiệm vụ của bố tôi làm ǵ ở Huấn Khu Dục Mỹ (Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân nói riêng) vào năm 1965? Ông chức vụ ǵ, mà có thể mang theo vợ con vào đó sống chung? Cũng không biết gia đ́nh chúng tôi sống ở trung tâm huấn luyện nầy được bao lâu? Bố tôi không phải là sĩ quan khoa trưởng hay huấn luyện viên. Chưa một lần trong đời tôi thấy ông mặc quân phục nhà binh hay bộ tác chiến hoa dù. Không đeo lon lá ǵ cả. Cho đến khi măn phần, ông không một lần kể khoe khoang hay tiết lộ bất cứ điều ǵ về kỷ niệm đời quân ngũ của ḿnh. Tôi cũng không bao giờ hỏi tới v́ có ngờ đâu, nay tôi viết được văn chương nên cần chi tiết dữ kiện để kiểm chứng cho đúng(các bạn trẻ nên để ư kinh nghiệm nầy). Đôi khi thấy ông yêu đời, hay ngân nga bản nhạc tiền chiến Bức Tâm Thư: “Vài hàng gởi anh tŕu mến. Vừa rồi làng có truyền tin. Nói rằng nước non đang mong. Đi quân dịch là thương ṇi giống…” Thật ra tôi chỉ thấy ông qua h́nh ảnh của một người y tá nhiệt t́nh. Có thể ông thuộc ngành quân y ngày xưa và sau này là dân sự? Tướng mạo của ông cao trung b́nh và dáng vóc oai vệ thuộc típ điển trai hao giống h́nh ảnh của cố Chuẩn Tướng Trần Văn Hai vậy. Nh́n bề ngoài th́ nhiều người lầm tưởng ông phải là một vị sĩ quan cao cấp, nếu như vô t́nh gặp mặt ở Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Nhưng trên thực tế, ông chỉ là một dân chính b́nh thường như bao nhân viên công chức khác mà thôi.

Gia đ́nh chúng tôi về lại phố biển Tuy Ḥa, tỉnh Phú Yên năm 1966? Theo lời cha mẹ kể lại trước khi dọn đến Huấn Khu Dục Mỹ, chúng tôi đă từng sống ở thành phố nầy? V́ c̣n bé bỏng làm sao nhớ được? Lần trở lại đây, không c̣n ở trong trại gia binh nữa(hiện nay là doanh trại quân đội nhân dân Việt Nam qua online). Bố tôi đă giải ngũ, chuyển qua dân sự và làm việc cho Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên. Bố mẹ tôi thuê một căn nhà gạch tồi tàn, tường vôi bạc mầu ở một khu lẹp xẹp tại phường 2, thị xă Tuy Ḥa. Chỉ trong nhà mới lót gạch bông cũ kỹ và nhà bếp th́ nền bằng đất. Đun củi chụm bằng dầu hôi. Cửa ra vào xiêu vẹo, không có khóa vặn tay. Chỉ gài then chốt sơ bên trong vào ban đêm, c̣n buộc giây xích có ổ khóa bên ngoài khi đi chợ. Chung quanh hàng xóm láng giềng một số thuộc lực lượng dân sự chiến đấu và đa số là lính Biệt Động Quân. Nh́n khu xóm tưởng đây cũng là trại gia binh, nhưng khác một tí là không có hàng rào kẽm gai. Chẳng có ai thuộc diện sĩ quan Biệt Động Quân sống trong khu vực nầy cả. Ngày xưa sĩ quan của ta sống biệt lập với lính trơn, nên đâu có ai muốn ở chung chạ với lính để làm mất giá trị của ḿnh? Những người hàng xóm lính trơn Biệt Động Quân và vợ con của họ rất dễ thương. Nước da của họ đen thui đen thủi nên anh em chúng tôi không biết, gọi đại họ là người Campuchia. Ngôn ngữ của họ phát âm tựa tiếng Khmer và nói lơ lớ tiếng Việt Nam. Sau nầy qua Mỹ, ngẫm nghĩ lại mới biết họ là người dân tộc thiểu số gốc Ê Đê (Rhađê trước 75) ǵ đó. Họ sống ḥa ḿnh với tất cả mọi người. Gia đ́nh tôi không c̣n diện lính nữa, nhưng họ vẫn cư xử như thành phần binh sĩ với nhau. Họ thuộc tầng lớp nghèo, chỉ dựa vào đồng lương lính của chồng. Họ quư bố tôi lắm v́ ông hay tiêm thuốc cho gia đ́nh họ, đôi khi không tính tiền nong. V́ vậy mà có cái ǵ ngon là họ đem biếu hay gọi bố tôi qua nhậu cho vui. Mà có cái ǵ ngon đâu. Dăm quả cóc, miếng xoài, trái ổi và vài xị đế hay rượu cần dzô dzô, chén anh chén tôi. Lâu lâu họ bẫy được con heo mọi hay săn được nai và nhím trong rừng, mang về xẻ thịt. Nghe tiếng các bà nội trợ lính trong xóm gọi nhau ơi ới cùng nhau bầy vẽ làm các món ăn như giả cầy, heo quay và thui v.v. Họ hay nướng thịt mùi hơi khét khét, tiếng cháy của mỡ xèo xèo khi lửa bốc lên ngoài sân chung với nhau, rất vui nhộn. Có miếng thịt nai th́ quư hóa lắm, nhưng họa hoằn hiếm khi săn được. Thịt nai đỏ tươi được cắt thớ mỏng đem phơi khô ngoài nắng trên lưới đan, có rắc chút vừng lên trên đó. Nói chung là họ luôn chia ngọt xẻ bùi. Có miếng cùng hưởng, có họa cùng chia.

Đối diện nhà tôi có một ông người kinh làm nghề kẹo kéo mang đi bán dạo mỗi ban trưa. Ông dùng cây cột trụ nhà là nơi đập kẹo kéo có trộn đậu phộng ở giữa. Bủa vài khối kẹo vào thân cây cột nhà với nhau, kéo dài cây kẹo mỏng tơ ra cho nó dẻo dẻo. Lúc đầu kẹo kéo mầu vàng đục, h́nh như làm bằng đường cát, nh́n thấy chẳng hấp dẫn chút nào? Quất mạnh rầm rầm tới lui nhiều lần, mầu kẹo vàng đục trở lên trắng dần. Theo dơi cách làm mà muốn chảy nước miếng. Lũ nhóc chúng tôi xin tiền mẹ mua ăn khen ngon đáo để. Lâu lâu mua thêm phần kẹo cho vài đứa bạn chơi thân, mút cho dzui dzẻ. Ngày đó c̣n con nít, chẳng để ư cột nhà người ta dơ như hạch, ruồi nhặng bu đầy và thật mất vệ sinh. Cứ thấy kẹo ngon là mua ăn, mà c̣n phải trực chờ đứng xem cho đến khi ông ta ra kẹo nữa chớ. Con nít ở Việt Nam ngày xưa thấy cái ǵ ngon ngọt cũng cảm thấy thèm và thiếu…

Lực lượng Biệt Động Quân vào năm 1965-67 đánh nhau rất ch́. Họ được coi là đơn vị tổng trừ bị ưu tú với huy hiệu “Cọp Ba Đầu Rằn”, oai hùng ngang hàng gần với Sư Đoàn Nhẩy Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến vậy. Những năm đó, lực lượng nầy chưa cải tuyển thành Biệt Động Quân Biên Pḥng v́ lính Biệt Động Quân người dân tộc đâu có đóng ở các tiền đồn xa xôi hẻo lánh? Họ sống tại thành phố Tuy Ḥa, là hàng xóm với chúng tôi cho tới khi lính Mỹ bàn giao các căn cứ gần biên giới cho QLVNCH vào cuối năm 1970. Nhiều lần đi hành quân, lực lượng Biệt Động Quân đều chiến thắng vẻ vang trở về. Mỗi lần như vậy, họ đều mở tiệc ăn mừng linh đ́nh và nhảy nhót vũ điệu dân tộc. Ngỡ lính nào ở đâu chết th́ chịu, nhưng ít thấy lính Biệt Động Quân xóm tôi hy sinh. Đa số lính Biệt Động Quân nầy hay chơi bùa ngải để giữ mạng. Cổ người nào cũng đeo mấy miếng bùa vải, nanh heo rừng hay vật ǵ giống như tai người phơi khô quéo. Hỏi họ là cái ǵ thế, th́ họ nói đùa vui chơi là tai của Việt Cộng chết, cắt về phơi khô để làm bùa hộ mạng. Nhưng rồi họ cũng đâu tránh được đạn thù măi măi. Chiến tranh leo thang và người lính đánh giặc cũng ra đi. Một số hy sinh vào các cuộc hành quân sau. Vợ con họ khóc lóc đau khổ lắm, làm gia đ́nh chúng tôi mủi ḷng thương xót. Người sống góp tiền góp công giúp đỡ an ủi để lo hậu sự. Một điều thắc mắc lúc c̣n nhỏ, là vài người lính Biệt Động Quân người dân tộc đoán biết vận số của họ trong những lần hành quân sắp đến? Có người linh tính nói rằng trận tới họ sẽ hy sinh? H́nh như, một số người dân tộc thiểu số gốc Ê Đê (Rhađê trước 75) không thích chôn dưới ḷng đất như người kinh? Xác họ được hỏa thiêu theo tục lệ Chămpa xưa, hay mang về những vùng rừng núi quê nhà ở cao nguyên Darlac? Xóm tôi hơn chục căn nhà gốc gác đều là lính Biệt Động Quân người dân tộc thiểu số, ngày càng thưa dần theo tháng năm…


Thánh đường Tuy Hoà

Sống ở đâu cũng có nhiều kỷ niệm vui buồn. Tuy nhiên, sinh ra và lớn lên trong một đất nước chiến tranh th́ nỗi buồn nhiều hơn vui. Bên trái xóm Biệt Động Quân của chúng tôi xa xa là Thánh Đường Tuy Ḥa. Nhà thờ được xây dựng vào đầu thập niên 1960, theo lối kiến trúc tây phương rất đẹp. Đặc biệt có tháp chuông cao chót vót và mái ngói đỏ kiểu h́nh chữ A tọa lạc trên một mô đất cao. Nh́n dưới xóm ngó qua triền đồi, cảm tưởng thánh đường như một bức tranh sơn dầu vẽ trên vải bố (canvas) trong các làng mạc bên Âu Châu. Sau những cơn mưa rào vào mùa hè, vừng thái dương xuất hiện ngoài biển Đông, thường thấy cầu vồng bảy sắc óng ánh hiện trên nền trời bên phía thánh đường trông rất đẹp mắt. Chung quanh nhà thờ ngày đó c̣n trống trải, không có dân cư ngụ nên hiển nhiên trở thành một mục tiêu tốt để cộng sản bắn phá cho bơ ghét. Một sáng sớm tinh sương nào đó, bọn cộng sản pháo kích vào nhà thờ làm lủng một lỗ to tướng trên mái ngói đỏ. Khoảng độ 4-5 giờ rạng sáng, khi chưa có ai đi nhà thờ nên không người nào thiệt mạng cả. Sáng hôm sau, cha sở và giáo dân xem xét hiện trường. Nhiều người rủa bọn cộng sản tưng bừng v́ lấy chi phí đâu để sửa chữa thiệt hại. Cả tuần lễ sau trên mái ngói đỏ đó, được lợp mấy miếng tôn mầu xám tro, vít lỗ hổng lại để che nắng che mưa. Sân cỏ nhà thờ nầy thường là nơi trẻ con đá bánh và chạy nhẩy tung tăng vui đùa với nhau.


Chùa Bảo Tịnh

C̣n bên phải xóm Biệt Động Quân là chùa Bảo Tịnh. Chùa tọa lạc trên một thửa đất mầu nâu nâu bằng phẳng rất rộng. Chùa Bảo Tịnh có cổng tam quan kiến trúc rộng răi. Xe hơi có thể chạy ra vào dễ dàng. Chùa được xây dựng vào năm 1962, nằm trên đường Phan Đ́nh Phùng(kiểm chứng trên online), rất gần xóm chúng tôi. Hai bên đường lộ trồng dọc hàng cây dương liễu và thông, gió biển thổi vào làm cây lá dập d́u với nhau tạo lên âm thanh ŕ rào vi vút suốt ngày lẫn đêm. Trong ṿng bán kính chu vi rộng lớn bao chung quanh ngôi chùa, rất ít bóng người qua lại. Bên trái ngôi chùa ngày đó có chừng 3 hồ sen rộng lắm. Có hồ th́ nhiều sen và nước đục ngầu xanh rờn, nên không tắm được. C̣n các hồ kia nước trong hơn, thường là nơi tụ họp tắm lậu của đám con trai vắt mũi chưa sạch. Tất cả các hồ đều cắm bảng cấm tắm, nhưng không ngăn được đám con nít sống trong vùng thích bơi. Tôi cùng vài nhóc t́ hay tà tà theo mấy anh lớn đi nghịch nước. Cha th́ đi làm đầu tắt mặt tối kiếm tiền. Mẹ th́ ở nhà trông nom em bé và lo việc nội trợ gia đ́nh. Chẳng hay biết c̣n ḿnh cúp cua, hùa với nhau đi chơi nghịch phá. Buổi trưa thường cởi áo nhẩy xuống hồ, mà đa số có biết bơi ǵ đâu. Hồ sen sâu hơn chiều cao của đứa trẻ Á Đông 6-7 tuổi. Nhiều thằng con nít liều mạng nhẩy xuống bơi theo các anh lớn tưởng dễ ẹt, bị uống nước sặc gần chết. Đến khi có đứa ch́m lỉm, mấy trai lớn mới hô hoán ầm ỹ lên v́ không cứu được, th́ sư săi mới chạy ra cứu vớt. Nhưng đôi khi cũng quá trễ, chỉ mong vớt được xác lên để người nhà đem về chôn cất. Thấy tai hại như vậy mà đám trẻ cũng không chừa. Chứng nào tật nấy! Cũng v́ hay di chuyển chỗ ở nhiều nơi và lêu lổng học hành mà chính tôi phải ở lại lớp. Học trễ hơn chúng bạn đồng tuổi một cấp lớp. Âu cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời với câu nói mỉa mai: “Nhỏ không học lớn làm Đại Úy!” Không biết chùa Bảo Tịnh bây giờ có c̣n mấy cái hồ đó nữa không nhỉ?

Mỗi tuần lễ, bố tôi thường trực đêm ở Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên, ít ra hai hay ba lần. Địa điểm bệnh viện tọa lạc ở hướng bắc, bên trái trên con đường Trần Hưng Đạo(kiểm chứng trên online), hơi xa trung tâm thành phố một chút. Đường đi gần bờ biển có trồng rất nhiều rặng dương liễu và thông reo. Ban đêm vào 8 giờ tối, bố tôi thỉnh thoảng đèo 1-2 người con theo ông tuốt một lèo chỉ một con đường cái đi ra bệnh viện. Nghe gió vi vu xào xạc của liễu thông là thấy rợn cả người. Đèn đường th́ chỗ tỏ chỗ mờ. Đa số phải dựa vào đèn xe gắn máy. Cảm tưởng trên đường lúc nào cũng có những vệt sáng chiếu ngược từ hướng bệnh viện về trung tâm thành phố như bóng ma trơi. Có lẽ do ảo giác v́ ánh đèn xe gắn máy rọi phản chiếu mầu cát trắng? Chúng tôi sợ phát khiếp v́ đường quá vắng vẻ rất ít xe cộ qua lại, hay lúc đó c̣n nhỏ nên ai mà không sợ. Người lớn thấy c̣n run nữa, huống chi là con nít. Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên sơn mầu trắng có nhiều tầng lầu cao ốc. Mặt tiền bệnh viện hướng ra biển. Bên trong khuôn viên bệnh viện trồng nhiều cây liễu thông cao vút và nh́n đâu cũng thấy cát trắng. Năm 1966-67, bệnh viện chỉ có 1 building trơ chọi. Chung quanh không có dân cư ngụ. Theo nhận xét của tuổi thơ có trí nhớ tốt th́ bệnh viện thuộc dân sự, nhưng cũng phục vụ cho lính khi cần. Thị xă Tuy Ḥa vào ban đêm ít người ra đường lắm. Băi biển Tuy Ḥa tương đối dài bằng phẳng nhiều cát trắng nhưng bị lu mờ v́ địa thế nằm cạnh băi biển Nha Trang thơ mộng và nổi tiếng hơn, nên chẳng có mấy du khách đến viếng thăm? Vả lại nước ta đang trong thời kỳ chiến tranh, thiên hạ sợ ngay ngáy có ai ham thích để đi du lịch? Có một lần tác giả mục kích vài tàu há mồm với số lớn binh sĩ mặc quân phục mầu xanh tác chiến, mang súng ống đầy ḿnh đổ bộ lên trên băi biển lúc xế chiều, không xa Bệnh Viện Tỉnh Phú Yên là bao. Nh́n chung quanh loáng thoáng chỉ số ít thường dân ngắm biển đứng xem.

Nói về ăn uống, Phố biển Tuy Ḥa có nhiều món đặc sản tuyệt vời như ṣ huyết nướng bằng than vào xẩm tối ăn quên chết luôn! Nh́n mấy tay nhậu nhâm nhi, vừa uống bia 33 một hớp, húp chút chất ngọt ṣ huyết chấm muối tiêu vắt tí chanh, là quên đi cảnh chiến tranh chết chóc. Ai là lính từng đóng ở Tuy Ḥa, chắc không quên món quê hương nầy hỉ? Ngoài ra dọc duyên hải miền Trung c̣n có nhiều cồn cát rộng mênh mông. Đi lún cả chân và nắng cháy da người, như đi trong sa mạc vậy. Những kỷ niệm trên tuy tầm thường, nhưng nay có dịp để viết lên cho biết đó biết đây!

Sống ở thị xă Tuy Ḥa lần thứ 2 không được bao lâu, th́ bố tôi lại thuyên chuyển về Bệnh Viện Biên Ḥa. Nơi đây bố tôi từng làm việc với các bác sĩ Úc và Mỹ để học hỏi kiến thức Tây Phương. Bác Sĩ Úc thương tặng boomerang(móc gỗ ném đi th́ nó quay ngược trở lại). Bác Sĩ Mỹ tặng Whisky vào dịp lễ Giáng Sinh hay dự tiệc liên hoan uống beer Budweiser lon tiễn họ về nước. Nhưng mơ ước của ông là được về gần gũi với gia đ́nh bên nội, đang sinh sống ở Sàig̣n. Thú thật ngoại trừ Sàig̣n ra, chẳng có nơi nào làm tác giả nhung nhớ bằng Huấn Khu Dục Mỹ và thị xă Tuy Ḥa nói riêng, nơi có nhiều kỷ niệm của thời ấu thơ. Tuy thời gian ở đó ngắn ngủi và sự hiểu biết non nớt, nhưng h́nh ảnh của các anh lính trơn Biệt Động Quân người dân tộc thiểu số và thân nhân của họ thật đáng mến. Họ sống vô tư lự, không nghĩ đến ngày mai. Có đồng nào xào đồng nấy. Tiền lính tính liền! Một điều cảm phục nhất, là họ đă dấn thân phụng sự đất nước một cách dũng cảm vô biên, không sợ chết! Biệt Động Quân người dân tộc thiểu số hy sinh không ít trong cuộc chiến Việt Nam. Họ xứng đáng được Tổ Quốc Ghi Ơn!

Bố tôi phục vụ ở Bệnh Viện Biên Ḥa khoảng 3 năm, th́ lại thuyên chuyển về Viện Quốc Gia Phục Hồi tọa lạc ở số 70 đường Bà Huyện Thanh Quan, Quận 3, Thành Phố Sàig̣n với chức vụ Y Tá Trưởng khu điều dưỡng và trợ lư chức năng tay chân giả cho thương binh tật nguyền. Nơi nào ông cũng phục vụ thương binh và trẻ em khuyết tật bẩm sinh tận t́nh. Ông được giữ lại phục vụ một thời gian sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, rồi bị thôi việc. Gia đ́nh được tôi bảo lănh qua Mỹ vào mùa hè năm 1991 và ông bà chọn định cư ở Nam Cali, nơi có nhiều thân nhân họ hàng của ông cư ngụ. Hơn 10 năm sau, bố tôi mắc phải chứng bịnh bệnh nan y v́ ăn uống nước ao tù đầy muỗi ṃng sốt rét từ ngày c̣n trong quân đội? Hay có lẽ do hệ lụy phục vụ thương bệnh binh trong pḥng mổ thiếu vệ sinh khử trùng? Ông qua đời vào tháng 10 năm 2003 ở miền Nam Cali. Nay tôi có dịp viết lên trân trọng cảm ơn người đă mang chúng tôi theo, qua những vùng đất quê hương miền Trung khó nghèo và sống gần gũi thực tiễn với đời sống binh sĩ Việt Nam Cộng Ḥa. Để cảm thông nỗi khổ đau, đồng chứng kiến sức chịu đựng bền bỉ và sự mất mát to lớn của họ trong chiến tranh Việt Nam.

Darren Thăng







 


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại