LTS: Tác giả bài này không ghi rơ danh hiệu,
chỉ kư tên tắt mà chúng tôi đoán là K. Vĩnh. Bản thảo viết tay nét
chữ không dễ đọc, từ trong nước đă được gửi sang cho Thế Kỷ 21 vào
đầu năm 1997, với tựa đề "Cuộc Tuyệt Thực". Ṭa soạn đă mạn phép
thêm "Ở Trại Cổng Trời." Chúng ta đă đọc nhiều cuốn hồi kư về chế độ
lao tù ở miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Nhưng hầu như chưa
có ai viết về Trại Cổng Trời. Đọc kư ức của K. Vĩnh chúng ta biết
Nguyễn Hữu Đang đă bị giam ở Cổng Trời, nhưng trong bài viết nổi
tiếng của cố Thi sĩ Phùng Quán về Nguyễn Hữu Đang không hề nhắc đến
chi tiết đó. Trong cuốn hồi kư của Vũ Thư Hiên, ông nhắc đến Nguyễn
Hữu Đang, nhưng cũng không kể chuyện cụ Đang đă bị giam ở Cổng Trời.
Trong cuốn Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên mới xuất bản, ông viết
về Trại Cổng Trời như sau: Cổng Trời là một trại giam ở xa tít mù
tắp măi tận Hà Giang, bên kia Mù Cang Chải, giáp giới Trung Quốc.
Cổng Trời đi vào huyền thoại, là nỗi kinh hoàng của tù. Những người
đă từng sống ở Cổng Trời thậm chí không muốn kể về nó, không phải v́
sợ bị công an trừng phạt (nghiêm cấm nói đến bí mật của các trại),
mà c̣n v́ sợ người nghe nghĩ ḿnh bịa đặt. H́nh như Tôn Thất Tần đă
ở cái trại kinh khủng đó, nhưng ông ngậm tăm. Những người tù nói
rằng ai đă lên Cổng Trời mà c̣n về được coi như sống lần thứ
hai....Chế độ giam giữ ở đây rất khe khắt. Hơi một tí là bị khóa
cánh tiên, bị hạ huyệt, c̣n nếu bị cùm hộp th́ coi như đời đi tong.
Vũ Thư Hiên đă mô tả ba lối hành hạ Khóa cánh tiên, Hạ huyệt và Cùm
hộp trong cuốn hồi kư của ông, mà thú nhận chỉ mới được thấy cảnh
người bị "khóa cánh tiên" (có người chỉ chịu được vài phút là ngất
xỉu, có người chịu được hàng giờ trong đó có thi sĩ Nguyễn Chí
Thiện,) c̣n hai lối giết người kinh khủng kia ông chưa được thấy chỉ
nghe kể lại.
Sau đây là những kỷ niệm ở Cổng Trời của K. Vĩnh
(TK21 #98, Tháng 6 1997)
Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể
đă làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. V́ những người Cộng
Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của
nền chuyên chính đều chĩa vào họ. Thứ nhất là các đấng bậc trong
Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đă gặp hai bà sơ bị
bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội
trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.
Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rơ họ mắc tội ǵ mà
bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jêsus .Thế
thôi.
C̣n tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đă cứu
tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù
đều chết hết đâu. C̣n chứ. c̣n anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những
người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, c̣n Nguyễn
Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, c̣n Nguyễn Hữu Bổn người thôn
Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...
Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra
khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.
Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người
Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.
Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người c̣n sót
lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai,
ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.
Khi ở khu A c̣n thưa thớt người th́ tù ở các trại dưới được dồn lên
để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.
Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật
người Nam Hà
Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao
động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép
nhận thư .
Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà th́ đă nhận
được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:
Công trường 75A Hà Nội C65 HE.
Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.
Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà
Nội
Tính từ khi lên Cổng Trời , đă được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được
viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ
này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà
Giang không?
Măi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi,
tôi mới rơ. Th́ ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời -1960- thế
là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ
tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là
thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rơ!
Quay về Hà Nội mẹ tôi đến bộ Công An ở Phố Trần B́nh Trọng hỏi. Họ
không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang
chưa đến 1Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là
mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông
thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.
Mẹ tôi cứ đi. Kiên tŕ dắt cháu đi hỏi. Hỏi măi. Riết rồi họ đành
phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quăng thời gian là hơn 3 năm họ mới
cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: Công Trường 75A Hà Nội. '
Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất
Hà Nội này. Họ bảo họ cũng không biết. Mẹ tôi đời nào chịu. Và cuối
cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.
Thế là mẹ tôi đi Hà Giang.
Đi với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.
Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà
địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi v́ thành phần gia
đ́nh tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố th́ bị bắn chết
trong cải cách ruộng đất, c̣n tôi th́ đi tù nên gia đ́nh tôi là đối
tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới
thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.
Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến th́ bị
Công An theo dơi và bắt quay về Hà Nội.
Mẹ tôi đành viết thơ cho tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được
thư.
Thế ra mẹ tôi vẫn c̣n sống và tôi, tôi vẫn c̣n sống.
Cũng có 1 phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền
họ, quấy rầy họ, mà trên bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban giám
thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.
Đă có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là
tôi đă chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới,
sấn tới, và điều đó phần nào đă cứu sống tôi.
Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế,
tu sĩ Đỗ Bá Lang, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét
so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào
tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi
là một phần tử tiến bộ trong số này.
Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay
trước lễ phục sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp
hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị rồi c̣n ǵ nữa.
C̣n với các đấng bậc kia.
Cấm cầu kinh, cứ cầu
Cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ
không chịu đi làm.
Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi
có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.
Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau:
"...Đây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm
mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng
hạt".
Tịch thu th́ được. C̣n cấm th́ hơi khó hơn, nếu không nói là không
cấm được.
Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, v́ làm thế nào mà biết các vị đang
cầu kinh?
Ăn xong, rồi ngồi chơi nh́n nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi
lại, thế là cầu kinh đấy.
Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ
lại cấm ngồi bắt nằm măi sao?
Ban Giam Thị uất lắm!
Sau chuyện tu sĩ Đỗ Bá Lang, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra
quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.
Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này th́
Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.
"Ai cho các anh ăn?" chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không
có Chúa nào cho các anh ăn cả."
"Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi
ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh
ăn. Đúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết.
Không có con mẹ Maria, thằng Jêsus nào cả. Biết chưa?"
(Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám
xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ ǵ).
Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần th́ cửa mở, chúng tôi bê
cơm vào trong pḥng. Đóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một
và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.
Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và
nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.
Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng măi
chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.
Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh
đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như
ở xà lim.
Buổi chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống, mọi việc lại diễn ra
đúng như buổi sáng. Mặt tái v́ giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ
ăn cho được?
Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn
La, Côn Đảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ
ngồi im.
Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.
Họ không ăn, thế thôi. Không ḥ reo, không gơ bát, gơ đĩa, không ai
diễn thuyết, kích động, yêu sách điều ǵ.
Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm
nh́n vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.
Giám thị Sáng đành phải ra về.
Đêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Đă một ngày trôi qua, và
hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa
cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.
Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi
lặng lẽ khai ốm và báo cháo, v́ tôi nghĩ: Đói ngày giỗ cha, no ba
ngày Tết.
Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà
đối với người khác b́nh thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.
Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng
ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được khoai sọ tôi
ăn cả vỏ, rong diềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng
đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết.
Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.
Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.
Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt
của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn c̣n sống đến
hôm nay.
Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám
nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách...
Ở Cổng Trời không phải khai ốm, v́ có c̣n khai với ai được. Ốm mặc,
không có thuốc men ǵ hết.
Quản Giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi
thôi. Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều
coi chuyện đó là chuyện thường t́nh.
Măi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi.
Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi
tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho.
Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ
Kim rất ngạc nhiên.
Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế,
theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi. (NLB không biết acide này, không
rơ tác giả có nhầm không, NLB chỉ biết trong măng tươi và sắn (nhất
là vỏ sắn ) có loại acide cyanhydrique HCN rât độc, sắn càng đắng
càng có nhiều HCN, Quư NT, AC và bạn nào biết xin giúp )
Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao
quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, th́ đem đến
một cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua
sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say, và chết đâu mất
năm người.
Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết v́ say sắn bèn ra lệnh tịch
thu số sắn c̣n lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả
thùng cơm.
Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng
sắn luộc rồi dấu vào bụng đem về buồng ăn.
Các vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia ḱa, lấy về làm ǵ?
Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ ḿnh cứ củ một ăn, chết thế
nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá th́ thôi.
Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đă làm tôi
khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên
quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói:
tôi chọn cái ít khổ hơn.
Điều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to
bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quư vị
như thế, để quư vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!
12kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba
mươi tuổi th́ các vị chắc cũng hiểu cho được.
Lại quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và
hai bữa không ăn.
Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào
ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm.
Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến Đấu Của Tôi) Hitler viết: "Cái đói nó
theo tôi như một cái bóng..." tôi xin thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở
nữa.
Tối hôm đó, đă hơn chín giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ dở
ḿnh trằn trọc.
Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung đồng Thái B́nh, nằm cạnh tôi khỏi
khẽ:
"Đói không ngủ được à."
"Vâng, đói lắm không ngủ được."
"Vậy, có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn
nhé."
"Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi
lúc đó th́ rất nhẹ. Tôi cân nặng 49kg.
Tôi gầy đến "lơ đít" ra. Tôi xin phép được dùng từ này, v́ đúng là
tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nh́n
xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.
Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nh́n thấy
tôi ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái
miệng lại ra cái điều là gầy quá má hóp, vêu miệng.
Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay
xoa vào nhau như sự cọ sát của hai thanh củi khô, không có cái mềm
mại của da thịt. Ở Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi
h́nh hài của ḿnh nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một
cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi không có gương lược, dao
kéo ǵ. Có lần muốn nh́n cái bản mặt ḿnh, tôi đă bắt chước Nguyễn
Tuân đái một băi xuống đất rồi soi mặt ḿnh vào đó. Nào có thấy rơ
chó ǵ đâu mà cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui
dại anh em thôi.
V́ gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó tḥ dài ra,
khi đi ngoài, chùi nó chạm đâm vào tay ḿnh.
Chính lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lơ đít.
Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm
sao mà được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao
nhiêu th́ đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cho mặn. Cả
muối tôi cũng thèm nhạt. Chỉ có một ước muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt
trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại dưới tôi cũng không
đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.
Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đă đi qua và sống ở
đó đều đói và có thể chết đói được.
Khi c̣n ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải
xay lúa giă gạo ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim
"Samson và Đalila" anh chàng Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng
vậy. Rào kín và hẹp chả nh́n thấy ǵ ở ngoài cả. Chế độ ở kiên giam
Bất Bạt cũng học đ̣i cách quản lư và đối xử với tù của Cổng Trời,
nhưng mà là học tṛ hạng bét.
"Cũng tù h́nh sự đem cơm đến để đấy rồi chạy."
"Cũng không được ra khỏi khu cấm!"
Nhưng vẫn c̣n được viết thư về nhà và c̣n được gặp và nhận đồ tiếp
tế của người nhà đi thăm nuôi.
Chứ ở trại Cổng Trời Cắn Tỷ không một ai được thăm nuôi.
Không một ai trong suốt thời gian bảy năm tôi ở đó.
Khi đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên
là Kích người liên khu năm B́nh Định đi tua nghe thấy, gọi tôi ra
ngoài lục vấn, lên lớp và đe dọa tôi:
"Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không. Cẩn thận. Không
có lại đi suốt đấy."
"Thưa ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái ǵ uất ức, đau khổ quá cũng
phát ra thành tiếng. Có thế thôi.
Thứ tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu,
vơ biền. Ông xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ
ở cùng với tôi trong buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó
ông làm ơn súc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước
mặt ông cho ông xem (Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà
bếp mà)."
Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa
cho tôi trở về buồng.
Trên đường về đi qua dàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi
vốn cao, nên với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống.
Trần Liệu bảo tôi:
"Được ra khỏi buồng, bất cứ cái ǵ động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ
trừ khi vồ nó mà nó kêu "Ối giời ôi" th́ chịu không ăn mà thôi".
Hắn ăn dun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa...
Chúng tôi cười với nhau.
Trần Liệu cũng đói lắm? Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể
Quỳnh Lưu Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh "me" (bê non)
Nhưng tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được hai ngày
liền theo các đấng bậc tu sĩ đấy.
Hắn là con chiên cực kỳ ngoan đạo. Ông Chính bảo tôi:
"Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có ǵ
tôi sẽ nói với anh em trong pḥng để họ cảm thông trường hợp của
Vĩnh."
Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ c̣n lại đó.
Tôi im lặng. Đối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà
không bao giờ có thể trả được.
Tôi vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái B́nh và ông, ông là người
sinh ra ở đó và tu ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng.
Ông hay nói chuyện với tôi lắm.
Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A
Cổng Trời, ở cho đến lúc ông bị gọi đi chết.
Những năm 50, ở Thái B́nh tôi có may mắn gặp Đức Giám mục nguời Tây
Ban Nha coi sóc địa phận, cha Chính, cha Trụ ở thị xă, rồi các cha ở
Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngă ba Đọ) Cao Mái. Tôi
hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hăm.
Tóm lại tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở đó lắm.
Tôi nói chuyện vói tu sĩ Chính về các kỷ niệm xưa đó, hai ngươi rất
tâm đầu ư hợp.
Thấy tôi kêu la nhiều. Có một hôm, tu sĩ Chính ốm, ốm ở đây ít ai bỏ
ăn. Ở Cổng Trời, ôm phải không? Tốt. Tốt lăm! Nếu ốm chết th́ hay
quá: Khỏi phải giết! Đỡ mệt hơn.
Hôm ấy tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông
không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng
gian khổ, đầy đọa của ông th́ tôi phải ngă mũ kính cẩn vái chào.
Lúc nào cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có
điều ǵ xảy ra.
Tôi c̣n mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng ông bảo không sao đâu. Chỉ
có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua
đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều.
Cám mọi h́nh thức nấu nước đun lại. Với chúng tôi chín giờ đêm là
khuya rôi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy và bảo:
"Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai thiu, bỏ đi. Phí của lắm."
Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ.
Tôi từ chối:
Tu sĩ cố ăn đi chứ?
"Thật t́nh tôi đắng miệng lắm, và bụng tôi nó nóng như lửa, quặn đau
lắm, không thể ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi."
Không để đến mai th́ phải đổ đi mất! Họ có cho đun đâu mà bảo nấu
lại được.
"Ăn đi. Ăn hộ tôi, khỏi phí. Vĩnh ạ."
Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp nó lên nó lấy đồ cho lợn th́
uổng lắm Vĩnh ạ.
Tôi nghĩ thấy đúng như ông nói. Ở các trại duới, cơm có thể phơi khô
để dành. Chứ c̣n ở đây, th́ chỉ c̣n có đổ xuống nhà bếp cho lợn ăn
mà thôi.
Thế th́ tại sao lại cho lợn ăn nhỉ? Trong khi ấy tôi đói, tôi đói
lắm, tôi thèm lắm. Tôi thấy thế và nghĩ đúng như thế.
Lúc đó đă là 10 giờ đêm rồi:
Thế là tôi ăn hai xuất cơm đó, các vị đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi
rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho.
Tôi ăn, ăn cả hai xuất cơm canh trong nháy mắt và nằm ngủ.
Ngủ yên và say cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được "sínđề" và được
một bữa tương đối.
Cám ơn tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn nhiều.
Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người và cả tu sĩ Chính dậy sớm cầu
kinh và ông bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi đă
hiểu ra là tu sĩ đă nhịn cho tôi ăn
Cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua tôi vẫn c̣n món
nợ đối với ông mà không thể nào trả được.
Chỉ c̣n biết cầu Chúa, để Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông,
đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa
theo Chúa đến chết.
Cầu sao cho linh hồn ông được tới thiên đàng.
Sáng hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên.
Quản giáo lại đứng đấy để giám sát. Không ai nhúc nhích ǵ. Không ai
ăn cả, kể cả tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng dậy cầm bát chia cơm canh
của tôi ra cái thùng gỗ của nhóm năm người, tôi vẫn ăn cùng với tu
sĩ. Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi, cơm canh đầy đặn và lặng lẽ bê
đến trước mặt tôi.
"Đây phần của anh, anh ăn đi và về ngồi lại ở chỗ ḿnh."
Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.
Tôi không theo đạo Thiên Chúa và không làm dấu thánh bao giờ.
Tôi ăn. Hà tất ǵ tôi lại nhịn không ăn. Không có điều ǵ thúc đẩy
buộc tôi bắt tôi không ăn cả.
Tôi nghĩ đúng như vậy.
Nhân cơ hội ấy. Quản Giáo bèn lên tiếng:
"Đấy các anh thấy không? Anh Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu
thánh. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn được một cách ngon lành, thế
th́ tại sao các anh lại không ăn?
Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và
Chính phủ.
Rồi các anh sẽ biết.
Không một tu sĩ nào trả lời đáp lại.
Có tôi lên tiếng:
"Xin lỗi ông, chắc ông đọc lư lịch của tôi th́ ông đă rơ, tôi không
theo đạo nào cả? Phật không, chúa cũng không, mà lệnh của các ông
th́ chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn mà thôi. Tôi, tôi từ thuở
cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. V́ vậy tôi ăn có thế
thôi."
Đứng cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót
khóa cửa ra về.
Đến buổi chiều không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả
lính coi tù.
Tu sĩ Chính đứng dậy chia cơm cho một ḿnh tôi. Tôi ăn.
Các đấng bậc và kể cả T.H Liệu cũng không ăn.
Hai ngày trôi qua....
Sáng hôm thứ ba tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh c̣n nguyên
xuống nhà bếp và rồi lại khênh lên với cơm canh mới hăy c̣n nóng.
Không có ai đi kèm.
Ban Giám thị không.
Quản giáo không.
Khênh cơm canh vào buồng. Khóa cửa lại. Chia đều.
Và các đấng bậc tu sĩ lại làm dấu thánh trước khi ăn.
Chẳng ai cười cợt, nói năng, hát ḥ, reo vui ǵ trước cuộc đấu tranh
đă dành được thắng lợi lẫy lừng và vang dội đó (như các bài báo của
Cộng Sản mà tôi đă đọc riết về các cuộc tuyệt thực của họ cả)
Và cuộc sống của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi
được về và "các vị c̣n lại chết hết ".
1/8 Âm lịch năm 1994
K. Vĩnh
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại