Tác giả Phan Xuân Sinh nguyên là một cựu trung
đội trưởng trinh sát của trung đoàn 51 BB. Ông đă để lại trên chiến
trường một bàn chân. Đọc hồi kư chiến trường này, chúng ta sẽ thấy
rơ hơn về vai tṛ trinh sát, viễn thám, thám kích, biệt kích, mà
phía Bắc quân đồng cho một tên: thám báo.
***
Tôi rời Đà Nẵng gần cuối năm 1974 để vào sống tại Sài G̣n. Trong dự
trù, sau khi giải ngũ tôi được lănh số tiền trợ cấp hàng tháng để
yên tâm đi học trở lại. Số tiền nầy dư giả cho tôi trang trải mọi
chi phí về chuyện ăn ở tại Sài G̣n mà không cần sự trợ cấp của gia
đ́nh. Tất cả hồ sơ giải ngũ của tôi từ Trung Tâm I Quản Trị được gửi
vào Trung Tâm III Quản Trị. Nếu không có biến chuyển ǵ th́ tháng 4
năm 75 tôi sẽ ra Hội Đồng để duyệt xét mức độ tàn phế. .. nhưng
chiến cuộc leo thang, mọi dự định liên quan đến cuộc đời tôi đều
trật. Tháng 3 Đà Nẵng mất, suốt ngày tôi lang thang ngoà́ phố, ngồi
các quán café Thu Hương, Thanh Bạch v.v…ở đường Lê Lợi t́m người
quen mới chạy thoát vào Sài G̣n, để hỏi thăm tin tức liên quan tới
Đà Nẵng, liên quan đến gia đ́nh đang kẹt lại. Mọi tin tức tôi thu
lượm được đều xấu. Tối về mở radio để nghe BBC hay VOA về t́nh h́nh
chiến sự ngoài đó, tôi đều thất vọng. Làn sóng di dân vào phía Nam
bằng mọi phương tiện nhiều vô kể, trong đó những thảm cảnh xẩy ra
cho người dân không ít. Chỉ có người dân gánh chịu mọi hậu quả tang
thương nhất trên con đường chạy loạn.
Một hôm, ngồi một ḿnh trên chiếc ghế kê sát vỉa hè của quán Thanh
Bạch, tôi gặp Cường đang đi trên hè phố, mặc bộ đồ lính của Trinh
Sát Trung đoàn 51, lon trung úy màu đen trên cổ áo. Bộ đồ lính thân
quen với tôi, đến khi tôi bị bỏ cuộc tại chiến trường, mới rời nó.
Tôi đứng dậy gọi Cường. Cường đứng lại nh́n tôi rồi chạy lại ôm tôi.
Hai đứa ràn rụa nước mắt, không ngờ rốt cuộc hai đứa lại gặp nhau
tại Sài G̣n. Cường không ngờ rằng tôi vào được Sài G̣n giữa lúc t́nh
thế hổn loạn như thế nầy, với tấm thân tật nguyền của tôi, chứ Cường
không biết tôi đă vào trước. C̣n tôi không nghĩ gặp lại Cường v́ đơn
vị của Cường lúc đó đang trấn thủ tại địa đầu giới tuyến, không cách
nào thoát được. Cường cùng một khóa với tôi ở quân trường Thủ Đức,
hai đứa ra cùng một đơn vị đại đội Trinh Sát của Trung Đoàn 51/ Biệt
lập, đóng quân tại Quảng Nam. Sau khi tôi bị thương trong
Mùa-Hè-Đỏ-Lửa 1972 th́ đơn vị ra Huế sáp nhập vào Sư Đoàn 1. Sư Đoàn
3 vào Quảng Nam thay chổ của Trung Đoàn 51 cũ.
Tôi nhớ lại lúc mới ra trường, Cường với tôi làm trưởng toán viễn
thám. Lúc nào nhảy viễn thám th́ đi riêng theo toán của ḿnh, c̣n
lúc nào hành quân diện địa th́ đi chung với nhau. Cường bao giờ cũng
mang đầy đủ đồ đạc trong ba lô nặng trĩu khi đi hành quân, c̣n tôi
sợ mang nặng nên đồ đạc mang theo đại khái. Trời lạnh tôi hay rúc
vào chăn của Cường, hay khi dừng quân ăn cơm Cường bao giờ cũng chia
cho tôi những đồ ăn mang theo. Tội nghiệp con bồ của nó ở Sài G̣n
lấy chồng khác, làm cho nó mất ăn mất ngủ mấy tháng. Nó nói với tôi
là tụi nó yêu nhau khi c̣n đi học hơn 2 năm rồi, ăn nằm với nhau như
vợ chồng thế mà vẫn chia tay dễ dàng. Tôi nói đùa với nó là bởi v́
mầy ăn nằm với con nhỏ thường xuyên, bây giờ mầy ở xa làm sao nó
chịu nổi. Chẳng lẽ đêm nào cũng nằm chàng hảng chờ mầy sao? Đâu
được, phải kiếm ngay một thằng khác để làm chuyện đó chứ. Con gái
như vậy mới thực dụng, yêu mấy thằng tác chiến làm ǵ cho khổ, trước
sau ǵ cũng chết, rồi chít khăn tang, rồi cô nhi quả phụ, đủ thứ
lỉnh kỉnh, rắc rối cuộc đời. Lấy một thằng lính kiểng ở Sài G̣n khỏe
re, đêm nào cũng bắt nó làm t́nh cho bỏ ghét. Cái lư luận cùn của
tôi coi vậy mà thằng Cường tin phong phóc. Sau khi ăn cơm chiều, 5
thằng sĩ quan viễn thám ra ngồi trước hiên hút thuốc. Cường nói với
tôi là tau nghĩ đi nghĩ lại mấy ngày nay, mầy phân tích đúng, thôi
th́ để cho nó lấy chồng cho rồi chứ chờ ḿnh biết khi nào mới xong.
Mấy thằng ngồi quanh cười hể hả bắt tay Cường như chia sẻ một chút
đắng cay.
Chúng tôi ngồi trước quán Thanh Bạch mấy tiếng đồng hồ, kể cho nhau
nghe về chuyện của đơn vị, chuyện riêng tư, chuyện thiên hạ. Nghĩa
là nhớ đâu kể đó, nhớ đâu hỏi đó. Tôi hỏi Cường về Sài G̣n có gặp
lại con bồ cũ của nó không? Nó cười cười khoái chí: “Em nghe tau về
có qua thăm, em khóc dữ lắm. Em bảo là gia đ́nh của em bắt em phải
lấy thằng đó cho an toàn. C̣n tau ở tận ngoài Vùng I, chổ khỉ ho c̣
gáy, chết sống mong manh. Chờ làm chi cho uổng đời con gái. Có một
điều lạ, là khi gặp lại em, trong ḷng tau dửng dưng hết sức. Em bảo
là muốn có với tau một đứa con, nên tau ch́u ư em. Sau khi thằng
chồng đi làm là em qua nhà tau ở tới chiều, ngày nào cũng vậy. Thôi
th́ ḿnh cũng làm ơn, làm phước một lần”. Nghe cái giọng đểu cáng
của nó, làm cho tôi khựng lại. Một thằng khi mới ra đơn vị hiền
lành, ngô nghê, bị mấy thằng lính chọc quê. Thế mà trong ṿng mấy
năm chiến trường trui rèn cho nó trở thành một con người cứng cỏi,
lọc lừa như vậy. Cường kể cho tôi nghe về chuyện bỏ Huế ra đi, nó
không ngờ tan hàng nhanh quá trong lúc các đơn vị vẫn c̣n đóng quân
tại chổ. Đài phát thanh Huế kêu gọi các đơn vị tử thủ để giữ Huế.
Trên máy truyền tin cấp chỉ huy ra lệnh không được di chuyển đơn vị,
nằm yên tại chổ chờ lệnh. Chờ dài cổ không có lệnh lạc ǵ cả, gọi
lại Pḥng 3 trung đoàn, sư đoàn, th́ không liên lạc được v́ nơi đó
tắt máy yên lặng. 7 giờ tối nghe BBC mới biết Huế sắp mất. “Quần
Thần lơ láo” mạnh ai nấy chạy. Cường hỏi tôi: “Mầy c̣n nhớ thằng
Thẻo không?”, tôi gật đầu. Thẻo là hạ sĩ mang trung liên của Trung
đội Viễn Thám, nhà ở Cầu Hai, gia đ́nh làm nghề đánh cá. Thẻo dẫn
Cường chạy theo nó về nhà ở Cầu Hai rồi lấy ghe đưa Cường vào Lăng
Cô, để nhập vào đoàn người chạy loạn vượt đèo Hải Vân vô Đà Nẵng. Từ
đó Cường may mắn leo được lên tàu hải quân vào Vũng Tàu.
Trong những ngày gần cuối tháng 4 năm 75 tụi tôi sáng nào cũng đi
uống café, chiều th́ làm vài xị đế, nói chuyện đủ thứ trên đời, vui
buồn, cười đùa, hằn học v.v… phần nhiều nói về đơn vị cũ. Sau nầy có
một thằng bạn của Cường phục vụ tại tiểu khu Quảng Nam cấp bậc thiếu
úy, chạy thục mạng, qua bao nhiêu gian truân mới vào được tới Sài
G̣n. Nhập bọn với tụi tôi. Nó biết tôi là dân Đà Nẵng, nên cay đắng
kể cho tôi nghe về những giờ phút hấp hối của Đà Nẵng trong những
ngày cuối tháng 3. Nó khinh tởm kể về những cấp chỉ huy hèn mạt của
nó. Ngồi trên tàu cùng với vợ con chuẩn bị chạy vào Sài G̣n, mà vẫn
ra lệnh trên máy truyền tin cho các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Đến
giờ phút cuối mà c̣n lường gạt thuộc cấp của ḿnh một cách hèn hạ
như vậy, th́ thử hỏi làm sao đất nước không rơi vào tay cộng sản
nhanh chóng được. Tụi tôi những thằng sĩ quan cấp bậc tép riu, chỉ
huy những đơn vị nhỏ, trấn giữ các tiền đồn heo hút làm sao chạy
kịp. Khi đă biết ḿnh bị bỏ rơi, th́ liều mạng mở đường máu. C̣n nếu
không c̣n cách nào khác th́ cùng với anh em, bắn tới viên đạn cuối
cùng rồi tự tử. Tôi ngồi nghe mà thấm đau. Những nhọc nhằn, nghiệt
ngă đối với anh em chúng tôi trong giờ phút cuối cùng của cuộc
chiến, nó giống như những vở kịch mà người ta mang những mặt nạ cho
thích nghi với cuộc sống, thay lên đổi xuống không ngượng ngập. Đầu
óc của anh em chúng tôi trong veo, cả tin và chấp hành nghiêm chỉnh
mệnh lệnh của thượng cấp. Ngồi kể cho nhau nghe mà ḷng của tụi tôi
đầy ngán ngẫm, mọi thần tượng trong quân đội trước đây tụi tôi rất
kính trọng, bây giờ đều sụp đổ.
*
Một lần ngồi uống rượu ngà ngà, Cường hỏi tôi có c̣n nhớ lần nhảy
viễn thám ở quận Đức Dục không? Nghe nhắc lại tôi tỉnh người ngay.
Làm sao tôi quên được một kỷ niệm khó quên. Lúc đó tôi và Cường mới
về đơn vị. Trung đội tôi được chia thành 3 toán để đi nhảy viễn
thám. Tôi, Cường và Sơn (Sơn ra đơn vị trước tụi tôi 3 tháng) là
toán trưởng của ba toán đó. Toán của tôi nhảy đầu, tôi vừa từ trực
thăng nhảy xuống th́ nghe tiếng hô “xung phong” vang dội núi rừng.
Thằng lính truyền tin chỉ kịp bấm vào ống liên hợp của máy PRC25,
báo cho đại đội biết là toán đă bị phát hiện, rồi tháo máy vất lại
đó bỏ chạy. Sau nầy tôi được Cường cho biết là toán của tôi bị phát
hiện nên hai toán c̣n lại rút về ngay, chứ không nhảy viễn thám bữa
đó. Trong 5 thằng tụi tôi trên người chỉ c̣n lại bộ đồ đang mặc c̣n
tất cả vất hết. V́ phải lo thoát thân ra khỏi vùng bị phát hiện nên
không biết địa h́nh và phương hướng. Từ sáng chạy tới chiều, mọi
người mệt lả mới t́m chổ nghỉ chân. Khi tỉnh người lại tôi mới thất
kinh, bây giờ tôi làm sao định h́nh để t́m điểm đứng của ḿnh hiện
tại, núi rừng trùng trùng điệp điệp trên tay không có máy tuyền tin,
súng ống, bản đồ, la bàn v.v…
Chuẩn úy mới ra ḷ, kinh nghiệm chiến trường không có, mà lại cầm
mạng sống của năm thằng lính ngu ngơ như ḿnh. Tôi không biết phải
tính sao với cái vốn liếng chiến trường là con số không nầy, chỉ
biết ngữa mặt lên trời phó thác cho số mạng. Lúc nầy tôi mới thấy
sợ, đang ở trong vùng địch đóng mà trên tay không có một tấc sắt hộ
thân, chỉ biết trông cậy vào đôi chân”chạy” của ḿnh. Những bài học
về “Mưu Sinh Thoát Hiểm” ở quân trường Thủ Đức sợ quá bay đi đâu
mất. Trong đầu cũng chẳng c̣n một chút xíu nào trang bị cho một
người lính khi gặp hiểm nguy. Tôi tự trách ḿnh, khi học ở quân
trường xem thường các bài học về chiến thuật, cứ ngủ gà ngủ gật, đêm
ngày cứ lo viết thư t́nh cho mấy con bồ, không để tâm trí cho cái
chuyện “làm quan” của ḿnh, cái chuyện chết sống của đời ḿnh. Tôi
nghĩ trong đầu, nếu có dịp trở về Thủ Đức để học lại, hay tu nghiệp
tôi sẽ không bao giờ bỏ sót một tiết học nào. Thế nhưng bây giờ th́
quá muộn.
Ngồi nghỉ chừng một tiếng đồng hồ, tôi hỏi chung chung: ”Bây giờ
ḿnh đi, hay ngồi nghỉ ở đây?”, Hợi (trung sĩ, toán phó) trả lời:
“Chạy từ sáng tới giờ, chân tay bủn rủn đứng không nổi th́ làm sao
mà đi được. Để anh em nghỉ đêm ở đây rồi mai tính sau, Thiếu úy ạ” –
Thường thường trong các đơn vị quân đội, các thuộc hạ hay gọi chỉ
huy của ḿnh lên một cấp bậc.- Nghe nó gọi ḿnh là “Thiếu úy”, trước
đây th́ không sao, nhưng bây giờ tôi thấy nó mỉa mai quá. Một thằng
sĩ quan ngu ngơ, mặt mày búng ra sữa mà chỉ huy bốn thằng kinh
nghiệm đầy ḿnh trên trận mạc. Tự nhiên sao tôi cảm thấy thẹn quá.
Để đỡ bớt chút thẹn thùng nầy, tôi nói: “Thôi được, ḿnh di chuyển
vào phía trong, tránh đường ṃn xa xa để họ khỏi phát hiện. T́m một
lùm cây, anh em ḿnh nằm chung với nhau, sống th́ sống hết, c̣n chết
th́ cũng vậy cho có bạn”. Thằng Hải Con (sau nầy nó làm tài lọt cho
tôi) xoay qua tôi: “Đi hành quân, đừng nói chuyện “chết”, xui lắm
Thiếu úy ơi”. Tôi làm thinh, cùng với anh em đi t́m chổ nghỉ. Tôi
không tài nào ngủ được, một tiếng động nhỏ cũng làm cho tôi hết hồn.
Nh́n qua bên cạnh, tôi thấy mọi người đều ngủ say, h́nh như họ quen
với chuyện hiểm nguy, nên cứ tỉnh bơ. C̣n tôi lần đầu tiên gặp hoàn
cảnh nguy kịch nầy, sợ hăi và lo lắng không làm cho tôi chợp mắt
được. Tôi ngồi dậy ḅ ra bên ngoài dựa lưng vào gốc cây, lấy nón
lưỡi trai che kín để hút thuốc vừa canh chừng cho anh em ngủ. Hít
một hơi thuốc thật dài, tôi thấy nó “đă” làm sao đâu, một hơi thuốc
mà cả ngày không đụng tới, không thấy thèm, không nghĩ tới nó v́ vừa
sợ, vừa chạy. C̣n bây giờ được ngồi yên một chỗ, định thần trở lại,
bụng đói meo nhưng điếu thuốc cần hơn. Lật đồng hồ trên tay, bây giờ
mới 5 giờ chiều mà núi rừng đă tối ṃ, c̣n một đêm dài dằng dặc phải
nghĩ ra cách thoát khỏi nơi đây. Nhớ lại cái thời Đông Châu, nghĩ
cái chuyện thoát thân thôi mà Ngũ Tử Tư sau một đêm đầu bạc trắng.
C̣n tôi bây giờ không biết có được may mắn như ông không? Sau một
đêm phờ phạc, chẳng nghĩ ra được cách thoát thân, hay sớ rớ bị họ
tóm cổ. Tôi thông cảm tâm trạng của người trong tư thế cùng đường,
v́ chính tụi tôi đang ở trong t́nh huống nầy. Sau nầy qua Mỹ, tôi có
làm một bài thơ về nhân vật nầy:
*“…Ngài vượt qua cửa ải thoát thân
Ta cũng trốn chạy năm lần bảy lượt
Cái nguy của ta Ngài đâu sánh được
Rừng thẳm bể sâu tan xác như chơi
Ta mạc kiếp kẻ bất phùng thời
Sống chết trong đường tơ kẻ tóc
Thân rời ră, hồn xiêu phách lạc
Mê man mù tịt cơi đi về…”
Nửa đêm, tất cả đều thức dậy thầm th́ bàn chuyện thoát thân. Tôi đề
nghị, phải t́m cho ra một con suối rồi men theo bờ suối đi xuống đất
liền. Để giải quyết t́nh trạng”khát nước” của tất cả anh em, c̣n
“đói” có thể chịu đựng được vài ngày. “C̣n tới được đất liền, th́ đi
đâu?”, một thằng toán viên làm khó tôi? Hỏi một câu mà tôi chưa nghĩ
ra được cách trả lời. Tôi buộc miệng: “Nhắm hướng mặt trời mọc mà
đi”. Trời ơi, sao tôi thông minh quá vậy. Bài học ngày xưa thời tiểu
học mà không biết đấng vô h́nh nào nhắc cho tôi nhớ lại. Miền Trung
của tôi phía tây giáp núi, phía đông giáp biển. Cứ theo hướng đông
mà đi thế nào cũng gặp Quốc Lộ I, con đường xuyên Việt nầy là cái
xương sống của đất nước, bao giờ cũng được lính Quốc Gia bảo vệ. Từ
toán Phó cho tới toán viên mới bắt đầu tin tưởng vào tôi, thằng
chuẩn úy non sữa nầy cũng c̣n có chút thông minh, đáng tin cậy được.
Tôi nói với trung sĩ Hợi áp tai xuống đất nghe xem có tiếng nước
chảy gần đây không? Hợi làm theo lời tôi và nói có nghe nhưng chắc
c̣n xa lắm, v́ tiếng kêu quá nhỏ. Tôi bảo cứ 15 phút th́ áp tai một
lần, nếu không nghe tức là ḿnh đi trật hướng, c̣n nếu nghe tiếng
nước rỏ hơn, tức là ḿnh đi đúng hướng. Thế mà t́m ra được con suối
chúng tôi phải mất gần 5 tiếng đồng hồ. Tới nơi, việc đầu tiên là
uống một bụng nước, tắm rửa nghỉ ngơi, sáng hôm sau đi tiếp. Đường
trên núi th́ chúng tôi ngày đi đêm nghỉ, c̣n dưới đồng bằng th́
ngược lại ngày nghỉ đêm đi. Thật t́nh th́ chúng tôi di chuyển rất
chậm, đường trên rừng núi phải luồn lách để vượt qua và giữ cự ly
với con suối để giải quyết t́nh trạng khát nước của anh em.
Một lần chúng tôi đi gần vào chổ đóng quân của quân giải phóng (tôi
đoán như vậy). V́ chúng tôi thấy họ tắm giặt dưới suối. T́m một bụi
cây rậm rạp, cách con suối 50 mét chúng tôi nằm yên bất động, để chờ
không c̣n người nào th́ chúng tôi mới di chuyển tiếp. Đây là lần đầu
tiên tôi mới chạm mặt với những con người của giải phóng quân. Buồn
cười nhất, có một người vắt cái khăn trên vai, vừa đi vừa nghêu ngao
hát “Em ơi, nếu mộng không thành th́ sao. Non cao đất rộng biết đâu
mà t́m…”. Bản nhạc Duyên Kiếp của Lam Phương, bản nhạc mà tụi tôi
sau nầy hay đùa là nó cũng đă vượt lằn ranh của thù hận, tụi tôi
nh́n nhau mĩm cười. Người anh em bên kia chiến tuyến cũng t́nh tứ
quá đi chứ. Sau lớp đàn ông tắm xong, th́ tới lớp đàn bà tắm. Con
mắt mấy thằng tụi tôi muốn nổ tung, v́ cái cảnh thay áo quần của họ.
Gần ba ngày sau, chúng tôi mới xuống được đất liền. Sức khỏe của anh
em rất bệ rạc. Tôi bảo với trung sĩ Hợi là leo lên cây thật cao để
quan sát t́nh h́nh chung quanh, đến chạng vạng tối là tụi tôi di
chuyển thật nhanh. Đêm hôm sau vào lúc 1 giờ sáng chúng tôi tới được
một khu nhà tranh cách một cái đồi chừng 500 mét. Đói quá không c̣n
chịu nổi, chúng tôi ṃ vào nhà bếp của một trong những căn nhà đó để
t́m cơm nguội. Không ngờ một ông cụ trong nhà phát hiện. Ông nằm
trên nhà nói vọng xuống bếp: “Mấy ông là Quốc Gia hay Giải Phóng?”.
Thằng Hải ḅ lên gần cửa nhà trên, trả lời nho nhỏ: “Quốc Gia”. Ông
thắp đèn dầu đi xuống bếp, rồi cũng nói nho nhỏ cho chúng tôi đủ
nghe: “Đi khỏi đây nhanh lên, căn cứ West đóng trên ngọn đồi đă mất
cách đây mấy ngày”. Thằng Hải nói: “Đói quá bác ơi, năm ngày ni
không có hạt cơm bỏ bụng, làm sao đi nổi. Bác làm ơn cho tụi con một
chén cơm được không?”. Ông già gật đầu, bảo tụi tôi lên nhà trên
ngồi ở đó rồi ông nấu cho một nồi cơm, rang một lon đậu phụng, xong
mang chén đủa lên nhà trên cho tụi tôi ăn trong bóng tối. Ông chỉ
cho tụi tôi chạy theo đường ṃn trước nhà, chừng 5 cây số sẽ thấy
một cái đồn nghĩa quân. Chúng tôi không ngờ gặp được một người tốt
như vậy. Quốc gia hay cộng sản đối với người dân vùng nầy lúc đó
chẳng có ǵ quan trọng. Miễn sao để cho họ yên thân, c̣n bên nào
cũng được. Tôi hứa trong ḷng có dịp trở lại vùng nầy, tôi sẽ t́m
gặp ông, cám ơn ông thật nhiều mà trong lúc nguy biến gấp quá, chúng
tôi không nói ǵ được. Làm sao phải trả lại ông một món nợ vô cùng
to lớn mà ông đă giúp cho chúng tôi trên con đường sinh tử của chiến
tranh. Nghĩ vậy nhưng không bao giờ có một dịp gặp lại ông lăo ấy.
Một điều lạ, sau khi ăn uống xong trong người thấy phục hồi ngay, có
lẽ v́ quá sợ sẽ bị bắt nếu chần chờ trể năi, v́ vậy đứa nào cũng cảm
thấy đủ sức chạy đường dài. Chạy đến 5 giờ sáng chúng tôi mới nh́n
thấy đồn nghĩa quân hiện ra giữa cánh đồng mờ mờ, bao bọc chung
quanh nhiều lớp concertina.
Dừng lại giữa đường, tôi nói với tất cả anh em là ḿnh ra nằm ngoài
bờ ruộng, v́ đứng lại trên đường rất nguy hiểm. Một phần sợ nghĩa
quân trong đồn bắn ra, một phần sợ du kích phát hiện, chúng tôi cùng
nhau ḅ ra bờ ruộng để chờ trời sáng, nằm trong tư thế yên lặng. Khi
mặt trời bắt đầu lên, mọi vật đều trông thấy rơ ràng, tôi giơ cao áo
thun trắng cho lính gác trong đồn trông thấy, chúng tôi đứng trên bờ
ruộng chờ đợi. Tôi thấy anh em nghĩa quân chạy ra giao thông hào
trong tư thế sẳn sàng tác chiến, mọi họng súng chỉa đến chúng tôi.
Một người lính trên vọng gác ra lịnh cho tụi tôi chỉ 1 người đến gần
hàng rào nói chuyện, c̣n mấy người kia đứng yên tại chổ. Tôi bước
đến trước nói chuyện với một người chỉ huy trong đồn (tụi tôi sau
nầy mới biết đó là trung đội trưởng nghĩa quân). Tôi cho anh biết
tên đơn vị của chúng tôi, nhảy viễn thám bị VC phát hiện nên phải
chạy thoát. Bây giờ nhờ anh liên lạc giùm để cho trực thăng đến đón
chúng tôi. Anh vào trong trại gọi máy chừng nửa giờ rồi bước ra báo
cho tôi biết 1 giờ sau trực thăng sẽ tới. Anh ra lệnh cho anh em
trong đồn ra mở cổng cho tụi tôi vào bên trong. Khi vào trong đồn
lúc ấy tụi tôi mới chắc chắn ḿnh c̣n giữ được mạng sống. Anh nấu
nước mời chúng tôi uống và hỏi chuyện đủ thứ. Trong lời nói chuyện
anh rất nể nang chúng tôi, v́ anh nghĩ hai chữ “Trinh Sát” của tụi
tôi đang mang là thuộc loại lính thứ dữ, chứ anh đâu biết bây giờ
tụi tôi chỉ là những con “thỏ đế” run sợ trước mọi thứ. Tôi thầm
khâm phục tinh thần của anh em nghĩa quân, sự chiến đấu dũng cảm của
họ giữa cái đồn heo hút, súng ống không đầy đủ, lương bổng chẳng bao
nhiêu và mọi thứ đều thiếu thốn, thế mà họ là mối khiếp sợ của du
kích trong vùng đó. Sức chiến đấu gan ĺ của họ không thua ǵ các
đơn vị chủ lực.
Anh lính nghĩa quân gác ngoài cổng gọi vào cho biết, có 3 chiếc trực
thăng trên bầu trời. Tụi tôi mừng quá chạy ra bên ngoài nh́n lên,
tất cả đưa tay vẫy. Tôi nói với anh Trung đội trưởng nghĩa quân cho
tôi xin một trái lựu đạn khói, rồi bảo một người lính của tụi tôi
chạy ra t́m một băi trống ném trái khói ra đó để trực thăng đáp.
Chúng tôi lần lượt bắt tay từng người lính nghĩa quân và nói lời cám
ơn, rồi ra băi chờ trực thăng bốc. Một chiếc sà xuống băi để bốc
chúng tôi, c̣n hai chiếc gunship bay phía trên làm nhiệm vụ yểm trợ.
Leo lên được máy bay chúng tôi đưa tay vẩy chào các anh nghĩa quân
trong đồn. Khi máy bay lên cao độ nh́n xuống tôi mới biết cái đồn
nghĩa quân nầy heo hút thật. Tội nghiệp những con người chiếu đấu âm
thầm không một lời than thở. Bay chừng nửa giờ, chúng tôi nh́n xuống
thấy phi trường trực thăng của trung đoàn phía dưới, phi trường thân
quen mà chúng tôi từng đi hành quân viễn thám hay diều hâu bằng trực
thăng. Trông thấy lính đứng lố nhố dưới sân bay, tôi biết anh em
trong đại đội trinh sát ra đón chúng tôi, tâm trạng buồn bă của mọi
người trong 5 ngày mất tích của tụi tôi, như “một con ngựa đau, cả
tàu không ăn cỏ”. Họ mừng biết mấy thấy chúng tôi trở về, tâm trạng
của những người cùng cảnh ngộ thương nhau lắm.
Chúng tôi bước xuống máy bay, cả đại đội ào ra ôm lấy tụi tôi. Mừng
mừng, tủi tủi như người chết đi sống lại. Đại úy Điệp, đại đội
trưởng của tụi tôi đến bắt tay rồi ôm tôi, ông nói những lời khen
tôi sẽ là một sĩ quan giỏi sau nầy. Tôi không có dịp thể hiện bài
học Lănh Đạo Chỉ Huy mà trong quân trường đă dạy, không ra một mệnh
lệnh nào để cả toán chúng tôi tránh được sự truy lùng của VC. Chỉ
biết chạy và trong cái may mắn đó là trên con đường di chuyển chúng
tôi không đối mặt với họ. Thế th́ tôi không biết làm thế nào tôi trở
thành một sĩ quan tác chiến giỏi được. Tôi cúi mặt cảm thấy thẹn
thùng với lời khen tặng đó. Trong trung đội viễn thám của tụi tôi
các sĩ quan ở chung một pḥng. Trung đội trưởng là Thiếu úy Âu (khoá
24 sĩ quan Đà Lạt, Âu cũng học một lớp với tôi thời trung học),
trung đội phó là Thiếu úy Nguyên. Sơn, Cường và tôi chuẩn úy làm
trưởng toán. 8 giờ tối ngày hôm đó, mệt quá tôi lo đi ngủ trước, c̣n
những người khác ngồi đánh domino. Đang thiu thiu th́ Sơn dựng tôi
dậy bảo là Đại úy bồi dưỡng cho mầy, ngồi dậy ăn. Tôi nh́n trên bàn
có một dĩa thịt gà lớn và một soong cháo. Thằng lính làm ở Câu Lạc
Bộ mang đồ ăn cho tụi tôi. Sơn nói với nó là xuống lấy 1 lít đế lên,
ghi sổ cho Thiếu úy Âu thiếu chịu. Âu hỏi Sơn tại sao lại ghi chịu
cho tau. Sơn giải thích là Đại đội trưởng bồi dưỡng thức ăn th́
Trung đội trưởng phải bồi dưỡng rượu chứ. Âu gật gù bảo với thằng
lính c̣n đứng đó, mang cho tau 3 lít, để tau cho tụi nầy chết đêm
nay. Thế là anh em tụi tôi ngồi uống tới sáng.
*
Tuổi trẻ của tụi tôi thế đó, được trui rèn và trưởng thành trong
chiến tranh. Ngụp lặn giữa một biển lửa ngùn ngụt thiêu hủy tất cả.
Sống sót được đó là một phép lạ. Tôi nh́n Cường ngồi gật gù trên
ghế, mới có 6 năm trong chiến trường, mới có 27 tuổi đầu trông như
một ông cụ non. Cái hồn nhiên không có trong tuổi trẻ của chúng tôi,
mà hạt mầm nầy nó đă chai cằn và lụi tàn trong bệnh hoạn. Những ǵ
nhớ lại đă trải qua trong thời chinh chiến, nó giống như một cơn lốc
cuốn phăng tất cả chỉ c̣n để lại hoang tàn đổ nát cho một đất nước
điêu linh, ḷng người tan vỡ.
Dallas, 30 tháng 7 năm 2007
Phan xuân Sinh
*(Bài thơ nầy trong tập “Đứng Dưới Trời Đổ Nát”, so sánh cái hiểm
nguy của Ngũ-Tử-Tư và cái nguy hiểm của tôi khi t́m đường thoát thân
ra khỏi đất nước. Ông th́ ra khỏi đất nước nuôi chí lớn rất thành
công. C̣n tôi th́ nuôi chí nhỏ lụn bại suốt cả cuộc đời. Khi viết
bút kư nầy tôi thấy cái t́nh huống tương đối giống nhau nên tôi để
mấy câu thơ vào.)
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại