Phạm Tín An Ninh
Tôi phải ngồi lại trên các bậc đá nghỉ chân đến ba lần trước khi
bước vào cổng chùa. Ngôi chùa nhỏ nằm trên một triền núi, được phủ
mát bởi những tàng cây. Ngôi nhà khách bằng gỗ, khá xinh xắn, nằm
trong một khu vườn toàn hoa vạn thọ. Phía trước là một tượng Phật
ngồi dưới gốc cây bồ đề, cành lá được cắt tỉa công phu. Chung quanh
là cả một vùng núi trời tĩnh mịch.Tôi không phải là phật tử, nhưng
ngồi nghe tiếng mơ và lời cầu kinh trong chùa vọng ra, cũng thấy
ḷng nhẹ hẳn đi trước bao nhiêu điều phiền năo.
Hôm nay là mồng một tết, nhưng cảnh chùa khá im vắng, bởi chùa nằm khá xa khu dân chúng. Ngày hôm qua tôi có đến đây, nhưng thầy trụ tŕ đi vắng. Tôi đă để lại tấm danh thiếp của chồng tôi, viết vài ḍng phía sau xin hẹn thầy hôm nay trở lại.
Chú tiểu c̣n rất trẻ, mang trà ra mời và xin tôi chờ thêm mươi phút
nữa v́ thầy trụ tŕ đang khai kinh cho buổi lễ tân niên. Tôi nôn nao
muốn sớm được nh́n mặt vị ân nhân của ḿnh, nhưng cũng dặn ḷng phải
kiên nhẫn và cẩn trọng ư tứ trước một nhà sư.
* * *
Hơn ba mươi năm trước. Lúc ấy tôi c̣n là cô bé học tṛ trường trung
học An Túc, nằm giữa thị trấn An Khê, bên quốc lộ 19 nối liền Qui
Nhơn với Pleiku. Chiến tranh đang thời kỳ ác liệt. Tuổi c̣n nhỏ,
nhưng ngày nào tôi cũng nghe cha mẹ và các thầy cô bàn chuyện chiến
trường: đánh lớn ở Pleime, Dakto, Tân Cảnh. Mấy năm nay, An Khê
tương đối b́nh yên, nhờ Sư đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ có căn cứ ở đây,
và dọc theo đèo An Khê có đồn bót của các đơn vị thuộc Sư đoàn Mănh
Hổ Đại Hàn. Giữa lúc chiến tranh ngày khốc liệt, bất ngờ lực lượng
đồng minh rút quân về nước, làm dân chúng ở đây hoang mang, lo lắng.
Xứ họ đạo của tôi cũng được cha chánh xứ tổ chức những toán tự vệ,
phối hợp với quận, lo canh gác khu vực của ḿnh.
Chiều ba mươi Tết, được thông báo của tỉnh, các cơ quan trên quận phối hợp với các thầy cô giáo và cả Hội Đồng giáo xứ đi mọi nhà kêu gọi đóng góp những gói quà tượng trưng dành tặng cho anh em chiến sĩ của một đơn vị từ xa tới đồn trú ở đây để thay thế lực lượng đồng minh.
- Tội nghiệp, nghe nói anh em đă phải rời căn cứ từ sáng sớm 30 để chiều mồng một Tết có mặt ở đây. Họ có biết tết nhất ǵ đâu! Ông cha xứ nói với chúng tôi như thế.
Cả quận vui mừng, nô nức trước tin vui. Riêng tôi c̣n vui hơn khi
tưởng tượng sẽ có nhiều anh lính đến cái thị trấn nhỏ xíu buồn tênh
này, nên rất sốt sắng trong việc gói quà. Tôi tự tay thực hiện được
hai gói quà, gồm một số bánh mức, chiếc khăn tay do tôi thêu lấy,
kèm theo lá thơ chúc mừng năm mới tới hai anh chiến sĩ vô danh nào
đó. Tôi nắn nót viết thật đẹp rồi đề tên, lớp và trường học phía
dưới. V́ “sao y bản chánh” từ một bài luận văn tháng trước, nên hai
lá thư giống nhau như đúc. Nh́n hai gói quà tôi mỉm cười, khi nghĩ
sẽ có hai “người t́nh không chân dung” nào đó nhận được lá thư nồng
nàn của một cô “em gái hậu phương”. Ban đầu, các thầy cô cho biết,
đám học tṛ chúng tôi sẽ được hướng dẫn vào căn cứ để tận tay tặng
quà cho các anh chiến sĩ. Bọn tôi đứa nào cũng hớn hở, lăng xăng
giặt ủi lại chiếc áo dài trắng ưng ư nhất. Nhưng sau đó dưới tỉnh
cho biết là trước khi vào An Khê, các đơn vị này c̣n phải hành quân
mở đường, giải tỏa một số đồn bót của lực lượng Đại Hàn nằm dọc theo
đèo An Khê bị địch quân bao vây đă ba hôm nay. Cuối cùng tất cả quà
đều được nộp cho trường, và thầy hiệu trưởng cùng các thầy cô giáo
sẽ mang vào cho đơn vị để trao lại cho anh em chiến sĩ khi t́nh h́nh
an ninh cho phép. Bọn học tṛ chúng tôi tiếc hùi hụi v́ mất một dịp
được vào xem căn cứ và ủy lạo các anh chiến sĩ.
* * *
- Nam mô A Di Đà Phật. Xin chào bà. Xin lỗi, chắc là bà đă chờ tôi
lâu lắm phải không?
Câu hỏi của thầy trụ tŕ cắt đứt ḍng hồi tưởng của tôi. Tôi đứng lên, vụng về chấp hai tay trước ngực chào lại thầy. Tôi muốn nh́n thật kỹ khuôn mặt của thầy, nhưng thấy ái ngại, nên chỉ cúi đầu im lặng.
- Cái cổng tam quan, ngôi nhà khách này, và những bậc đá trên con đường mà bà vừa đi lên là do tiền cúng dường của ông bà. Chúng tôi xin tán thán công đức và cầu xin chư Phật gia hộ cho ông bà cùng gia đ́nh. Bà có muốn đi một ṿng xem cảnh chùa không? Xin mời bà.
Thầy vừa nói vừa chỉ tay về phía cổng tam quan.
- Dạ, công ơn của thầy đối với gia đ́nh tôi lớn lao quá. Biết làm sao đền đáp. Xin thầy đừng nhắc tới công đức, làm tôi thêm xấu hổ. Tôi vừa bước theo phía sau thầy, vừa nói.
- Mô Phật! Giúp người, đó là nhiệm vụ của kẻ tu hành, dù là tôn giáo nào. Sao bà lại gọi là công ơn. Thầy nở một nụ cười độ lượng.
Đi phía sau, nh́n dáng đi khoan thai của thầy, tôi băn khoăn suy nghĩ: Khuôn mặt th́ có nhiều nét giống, nhưng với cái dáng đi th́ lại khác hẳn. Có thể ngày xưa là lính nên cần phải nhanh nhẹn. Tôi nghĩ thầm như thế.
Khi đến cửa tam quan, thầy dừng lại và chỉ tay về hướng bờ biển, nơi có mấy tảng đá ở triền núi, phía dưới là một khu rừng rậm:
- Chính ở nơi đó, tôi đă t́m gặp chồng của bà.
Năm ấy, khi chồng tôi vừa mới trốn về từ trại tù cải tạo Gia Trung
(anh chỉ là thầy giáo, dạy một trường trong khu người Thượng, bị bắt
năm 1979 v́ bị kết tội hợp tác với lực lượng Fulro chống lại nhà cầm
quyền Cộng sản), được một người bạn thân cho đi theo một chuyến vượt
biển do gia đ́nh anh ta tổ chức. Lúc ấy ai cũng nghĩ ra đi là không
bao giờ gặp lại vợ con, mà có ở lại cũng sống không yên, chỉ làm khổ
cho gia đ́nh. Hơn nữa lúc ấy tôi vừa mới sanh đứa con đầu ḷng, nên
không thể đi cùng. Chúng tôi đành gạt lệ chia tay mà không dám nghĩ
sẽ có ngày tái ngộ.
Tàu vừa ra khơi hơn một ngày th́ bị hỏng máy, trong lúc gió mưa tầm
tă. Tất cả mọi người phải đem sinh mạng chống chọi với phong ba.
Cuối cùng, sau gần ba ngày bềnh bồng trên biển, nhờ những cơn gió
nhiệm màu đă đẩy chiếc tàu với hơn một nửa số người sống sót, giạt
vào một ghềnh đá lúc trời nhá nhem tối. Tưởng đă thoát chết, nào ngờ
khi vừa leo lên bờ th́ bị một toán công an biên pḥng vây bắt. Một
số người yếu sức th́ đành đưa tay cho họ trói. Chồng tôi cùng một
vài thanh niên khác dùng hết tàn lực chạy trốn trong các hốc đá bên
triền núi. Mấy lần thoát chết dưới những tràng đạn. Nhờ trời tối anh
chạy thoát vào khu rừng trước khi kiệt sức. Khi tỉnh lại, anh thấy
ḿnh nằm trong ngôi chùa nhỏ nằm bên triền núi. Anh được vị trụ tŕ
săn sóc và che dấu chu đáo, mặc dù biết anh là người công giáo, bởi
trên cổ có đeo thánh giá. Sau hơn một tuần, nhờ thầy giúp cạo đầu,
cho áo quần để cải dạng một thầy tu, và gởi theo một chiếc xe đ̣ của
một phật tử thân quen, chồng tôi mới trốn được vào nhà bà cô ruột ở
Cam Ranh. Sau đó nhờ chính bà cô này t́m đường để vượt biển tiếp. Và
lần này anh đă được tàu Pháp vớt, nên được sang định cư bên Pháp. Ba
năm sau, tôi và đứa con được anh bảo lănh với diện đoàn tụ gia đ́nh.
- Mô Phật! Tội nghiệp, ông ấy đă về t́m thăm tôi hai lần, và giúp
cho tôi khá nhiều tiền để lập lại ngôi chùa này và một nhà từ thiện
nuôi các em bé tật nguyền dưới xóm. Công đức của ông bà thật lớn
lắm.
Tôi nhớ lại tấm ảnh mà chồng tôi chụp chung với thầy trong lần thứ nh́ về thăm thầy. Bao nhiêu lần tôi đă nh́n kỷ tấm ảnh, lại nghe chồng tôi bảo, ngày xưa thầy cũng là lính, nên tôi đă ngồi hằng giờ h́nh dung, nhớ lại một người quen lúc trước.
- Thực ra anh ấy ngại không muốn về, nhưng v́ nhớ ơn thầy mà anh ấy mới về gặp thầy. Lần này chính tôi đề nghị được thay anh về thăm thầy, nhân dịp thăm mẹ của tôi đang ốm nặng.
- Mô Phật! Tôi hiểu nỗi khổ tâm của ông ấy.
Tôi nghe tiếng thở dài của vị trụ tŕ, và thấy thầy đưa mắt nh́n về một nơi xa xăm nào đó. Từ lúc mới gặp nhau trong ngôi nhà khách, tôi nghĩ là thầy đă nhận ra tôi. Tôi chờ thầy hỏi, nhưng có thể thầy đă quên hay bây giờ là kẻ tu hành, nên thầy không muốn nhắc lại chuyện thế tục ngày xưa. Không để lỡ mất cơ hội, tôi lên tiếng:
- Tôi về đây, gặp thầy cũng để muốn xin được hỏi thầy một điều, mà bấy lâu nay cứ băn khoăn măi trong ḷng, nhưng ngại thầy là bậc tu hành, nên tôi không dám.
Thầy nh́n tôi, im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Mô Phật! Kẻ tu hành lúc nào cũng muốn đem ánh sáng cho chúng sinh hầu giải tỏa những lo âu phiền năo. Xin bà cứ tự nhiên
- Xin thầy tha lỗi, nếu có điều ǵ không phải. Có phải thế danh của thầy là Quế, Lê Phương Quế?
Thầy ngạc nhiên nh́n tôi, rồi nh́n lên khoảng không, nhíu mày.
- Mô Phật! Làm sao mà bà biết được tên của tôi?
- Thầy c̣n nhớ anh Lân, trung sĩ Đỗ Lân, ở Sư đoàn 23 Bộ binh, có đóng quân ở An Khê vào những ngày tết năm 1972?
- Bà c̣n biết cả bạn tôi? Anh Lân đă tử trận ở Kontum từ mùa hè 72. Bà có biết không?
Tôi có một thoáng giận thầy, v́ nghĩ là đến bây giờ ông vẫn chưa nhận ra ḿnh. Chẳng lẽ thầy vô t́nh đến thế. Nhưng ngay sau đó tôi hối hận về ư nghĩ của ḿnh. Sao lại đem chuyện đời để mà trách một vị chân tu, một người đă xa lánh chuyện hồng trần, thế sự. Thầy đă cho ḿnh hỏi và sẵn sàng tâm sự đă là một điều hỉ xả rồi.
- Dạ, tôi có biết, và tôi cũng có đến Kontum thăm mộ anh mấy lần. Sau này tôi về t́m để xây lại ngôi mộ cho anh, th́ nghĩa trang không c̣n nữa, và không ai biết mộ anh đă chuyển đi đâu.
Đôi mắt của vị trụ tŕ sáng hẳn lên. Thầy mở đôi mắt thật to nh́n tôi, đưa tay lên định nắm vai tôi, nhưng rồi kịp khựng lại.
- Vậy là Xuân? Bà là cô Xuân ngày xưa? Mô Phật! Sao lại có chuyện kỳ
ngộ lạ lùng này!
Vâng, tôi chính là Xuân, cô bé học tṛ trường trung học An Túc ngày
xưa. Người đă gói hai gói quà Xuân ủy lạo cho những chiến sĩ đến giữ
an ninh cho quê tôi vào đúng chiều ngày mồng một tết. Hai gói quà
được nộp cho trường để chuyển tới cho các anh, v́ lúc ấy đơn vị đang
hành quân mở đường để đến nơi trú đóng.
Sau một cái tết an b́nh, cả thị trấn nhỏ của tôi nhộn nhịp hẳn lên bởi sự có mặt của một trung đoàn lính chiến, ngày mồng tám tết, đám học tṛ chúng tôi trở lại trường, nhưng các thầy cô biết là trong ḷng đám học tṛ ai cũng c̣n dư âm ngày tết, nên cho chúng tôi tập họp lại hát ḥ và kể chuyện vui. Trong lúc thầy hướng dẫn đệm đàn cho cả đám học tṛ ca hát, thầy giám thị đến t́m tôi, bảo tôi lên văn pḥng có người nhà muốn gặp. Bước theo thầy giám thị mà ḷng tôi lo lắng không biết ở nhà có chuyện ǵ, th́ ông đưa tay chỉ hai anh lính đang ngồi chờ trên chiếc ghế đá trong sân trường.
Hai anh lính thật trẻ đứng lên chào tôi, nhoẻn miệng cười:
- Hai đứa tôi đến để cám ơn Xuân và chúc mừng Xuân năm mới.
Tôi thoáng một chút ngạc nhiên và bẽn lẽn:
- Em có làm ǵ đâu mà hai anh cám ơn? Mà sao hai anh biết được tên em?
Hai anh cùng mở túi áo lấy ra bức thư. Vừa kịp nhận ra đó là hai bức thư mà tôi đă “sao y bản chánh” bỏ trong hai gói quà ủy lạo, th́ một anh lên tiếng:
- Tôi là Đỗ Lân, và người bạn thân của tôi đây là Lê Phương Quế. Trông anh hiền như con gái, nhưng Xuân đừng nhầm với nữ ca sĩ Phương Hồng Quế nghe, mặc dù anh Quế bạn tôi cũng có giọng hát rất hay, không thua ǵ Phương Hồng Quế. Hai đứa tôi nhận hai gói quà của Xuân. Quà cáp như nhau và lời lẽ trong cả hai bức thơ cũng giống nhau như đúc. Cô Xuân thật công b́nh. Cám ơn nghe!
Tôi hơi quê, nhưng cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Hai anh tới trường t́m Xuân, không sợ thầy giám thị la Xuân hà?
Anh lính thứ nh́, tên Quế, lên tiếng:
- Bọn tôi bảo là anh em bà con với Xuân, đi lính xa nhà bây giờ mới
gặp. Thầy giám thị coi bộ cũng thương lính lắm, nên chắc không nở la
rầy người yêu, à xin lỗi, người em của lính đâu!
Mặc dù thấy hai anh chàng có vẻ thư sinh, vui tính, nhưng nhớ lời bà
chị thường bảo mấy ông lính bạo dạn và tán gái hay lắm. Phải coi
chừng. Tôi nhủ thầm như thế. Và để xem hai anh chàng này có thực sự
bạo dạn hay không tôi khoanh tay:
- Nghe nói anh Quế hát hay không thua ǵ Phương Hồng Quế, em xin mời hai anh vào lớp em chơi. Bọn em cũng đang ca hát trong đó, chứ không có học hành ǵ đâu. Đám bạn em sẽ mừng lắm đó.
Hai anh nh́n nhau cười, rồi gật đầu, theo tôi vào lớp.
Cả đám bạn học tṛ im bặt, ṭ ṃ nh́n ra khi thấy tôi dắt theo hai anh lính trẻ. Tôi nói với vị giáo sư hướng dẫn:
- Thưa thầy, có hai anh lính nhận được quà tết của lớp ḿnh, đến cám ơn và xin hát cho cả lớp ḿnh nghe.
Thầy hướng dẫn lớp gật đầu, đến bắt tay hai anh, tươi cười:
- Hồi năy tới giờ mấy cô chỉ hát những bài t́nh yêu lính chiến, bây giờ đích thân lính chiến hát tặng mấy cô th́ c̣n ǵ hay bằng, phải không?
Cả lớp vỗ tay. Anh lính tên Lân bước lên bục giảng, hai tay mân mê chiếc nón bê-rê:
- Kính thưa thầy, thưa các bạn. Tôi không biết hát, nên xin dành phần nói trước. Chúng tôi xin cám ơn những gói quà Tết của nhà trường, của các bạn. Trong không khí Tết, v́ nhiệm vụ phải xa nhà, được những món quà của các bạn chúng tôi thấy ấm áp nhiều lắm. Đặc biệt hai đứa tôi đây đă nhận được quà của cô Xuân. Chỉ cần cái tên của cô là hai đứa chúng tôi cũng đă có cả một mùa xuân rồi. Xin cám ơn và kính chúc thầy, chúc các bạn một năm mới vạn điều như ư.
Cả lớp lại rộn lên tiếng cười và những tràng vỗ tay không dứt. Một con bạn có tiếng nghịch nhất lớp quay về hướng tôi ngồi:
- Xuân ơi, mày chỉ được chọn một trong hai thôi. C̣n để dành cho đứa khác nữa chứ!
Đúng là nhất quỉ nh́ ba, c̣n thứ ba là bọn này. Tôi đoán hai anh chàng lính sữa đang nghĩ như thế. Anh lính tên Lân bẽn lẽn, ngừng lại đôi phút rồi đưa tay về hướng người bạn, tiếp tục:
- Bây giờ, xin giới thiệu anh bạn thân nhất của tôi, Lê Phương Quế, mà chúng tôi thường gọi là Phương Hồng Quế, tiếng hát hàng đầu của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, sẽ lên hát một vài bài tặng thầy và các bạn.
Tôi cũng phục tài ăn nói khá “tâm lư chiến” của anh chàng Lân này. Cái giọng Huế nghe cũng êm ái, cứ như rót mật vào tai người ta. Bây giờ nh́n kỹ thấy anh ta cũng đẹp trai, nụ cười cũng có duyên ghê lắm. Lính cỡ này chắc sẽ làm khổ vài cô em gái hậu phương đây. Tôi mỉm cười với ư nghĩ vừa thoáng trong đầu.
Anh Quế bước lại chỗ thầy hướng dẫn để xin nhờ thầy đệm đàn. Anh hát bài Xuân Này Con Không Về của nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân. Trông anh có dáng dấp thư sinh và khuôn mặt hiền lành như một thầy tu.
Tiếng hát cất lên làm cả lớp im bặt. Đúng là giọng hát của anh rất hay, điêu luyện, lúc réo rắt lúc trầm buồn không thua một ca sĩ chuyên nghiệp. Dường như có cùng tâm trạng với nội dung bài hát, nên anh đă hát với tất cả cảm xúc, làm giao động trái tim mọi người. Bài hát chấm dứt, mà cả lớp dường như c̣n thẫn thờ, yên lặng. Sau đó bùng vỡ bởi những tràng vỗ tay và nhiều tiếng la: bis, bis...
Anh cúi xuống một lúc, h́nh như để dấu sự cảm xúc, rồi ngước lên nói nhỏ hai tiếng cám ơn và xin hát tiếp bài Chiều Trên Phá Tam Giang, thơ của Tô Thùy Yên phổ nhạc.
Lần này, chính tôi không cầm được nước mắt. Không chỉ v́ anh hát
hay, nhưng tôi thấy xúc động, thấm thía hơn cuộc đời của những người
lính chiến.
- Thưa thầy. Bây giờ đă đi tu rồi, thầy có c̣n hát những bản nhạc
t́nh lính ngày xưa? Tôi vẫn c̣n nhớ cái cảm xúc khi thầy hát cho cả
lớp tôi nghe, sau cái tết năm nào ở trường An Túc. Thầy hát thật hay
và truyền cảm. Hôm ấy là lần đầu tiên tôi được gặp thầy và anh Lân.
- Mô Phật! Bây giờ tôi chỉ c̣n biết tụng kinh gơ mơ, cầu cho thế giới ḥa b́nh, chúng sinh an lạc. Nhưng những ǵ bà vừa nhắc lại, cũng là con người, làm sao tôi có thể quên.
- Xin thầy thứ lỗi, nếu tôi đă nhắc thầy nhớ lại chuyện đời để làm bận ḷng một bậc chân tu.
- Mô Phật! Đạo ở trong Đời, cũng như hai kẻ đồng hành. Hành đạo là để giúp đời. Kẻ tu hành như chúng tôi cũng chỉ là “cư trần lạc đạo” mà thôi, thưa bà.
- Cư trần lạc đạo là sao, thưa thầy?
- Có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo. Chứ không phải xa lánh trần thế đầy khổ nhục để t́m sự thanh thản riêng cho bản thân ḿnh.
- Cám ơn thầy. Thầy giảng hay quá. Ngày đầu tiên gặp thầy, và nhất là lúc nh́n thầy đứng hát trên bục lớp, tôi đă thấy thầy giống một nhà tu. Có lẽ thầy đă có căn duyên từ trước, phải không thầy?
- Mô Phật! Ai cũng có thể tu hành, và bất cứ ai cũng có thể thành
Phật được, thưa bà.
Không ngờ lần gặp gỡ đầu tiên năm ấy lại mang đến cho tôi mối t́nh
đầu. Sau vài lần gặp nhau, tôi biết Lân và Quế là hai người bạn thân
thiết từ lúc c̣n học trong trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu. Ra
trường về cùng đơn vị, nên sống với nhau như anh em, mặc dù tôn giáo
khác nhau. Quế đạo Phật c̣n Lân là tín đồ Công giáo. Những ngày chủ
nhật không bận hành quân, Lân đều đi lễ nhà thờ, nên chúng tôi
thường gặp nhau hơn. Và lần nào tôi cũng mời Lân về nhà. Cha mẹ tôi
cũng rất thương quí Lân, nhất là sau khi biết cha mẹ Lân đă chết
trong biến cố tết Mậu Thân. Tính t́nh Lân lại hiền lành chân chất và
hiếu học. Dù bận hành quân liên miên, nhưng anh vẫn cố gắng tự học
để thi tú tài vào mùa hè năm đó. Cũng có đôi lần Quế theo Lân đến
nhà tôi chơi. Càng lúc chúng tôi càng thân nhau hơn.
Tôi biết là Lân cũng thích tôi. Trong túi áo của anh lúc nào cũng có chiếc khăn tay tôi đă tặng anh trong gói quà Xuân. Mỗi lần chia tay, anh bịn rịn lưu luyến không muốn rời tôi. C̣n tôi, cũng thấy nhớ anh da diết và mong chờ anh từng ngày trong các lần anh đi hành quân. Tối nào tôi cũng đọc kinh cầu nguyện cho anh được b́nh yên trở về.
Bây giờ tôi mới biết t́nh yêu là ǵ. Tôi bắt đầu biết tương tư, mơ mộng, nhớ nhung và man mác buồn khi thiếu vắng anh. Những bản nhạc t́nh lính, người yêu của lính, dường như càng lúc tôi càng thấy hay hơn, và tôi hát nhiều hơn. Sau mỗi lần hành quân, Lân đều mang về tặng tôi những cánh hoa lan rừng. Tôi nghe nói vùng núi rừng An Khê này có nhiều hoa lan. Có những loại hoa lạ, thật đẹp mà tôi chưa bao giờ nh́n thấy hoặc biết tên. Chỉ sau hai tháng, trong pḥng tôi treo đầy hoa lan rừng. Tôi thích nhất là những cánh hoa màu tím. Có lẽ tôi nhớ tới màu tím hoa sim trong một bản nhạc mà tôi thường hay hát…
Chiến tranh lại ngày càng ác liệt. Ngồi trong lớp học, bọn tôi vẫn
thường nghe tiếng súng, tiếng máy bay vần vũ trên bầu trời. Ban đêm,
nh́n qua cửa sổ, những trái hỏa châu lơ lững giữa trời, soi sáng cả
một vùng núi non nào đó. Rồi tôi nghe tin Dakto mất, Tân Cănh thất
thủ, thành phố Kontum bị pháo kích… Một số người đă phải bỏ nhà chạy
xuống Pleiku, sống trong các trường học được chính quyền dùng làm
trại tiếp cư.
Hơn một tuần, tôi chưa gặp Lân bởi đơn vị anh có lệnh cắm trại, ứng
chiến. Bất ngờ gặp lại anh trong lễ sáng chủ nhật ở nhà thờ. Khi tôi
đang quỳ gối cầu kinh, Lân đến sau, quỳ xuống bên cạnh. Tan lễ, vừa
bước ra khỏi nhà thờ th́ chúng tôi gặp anh Quế đứng đợi từ lúc nào.
Tôi mời hai anh về nhà. Trên đường đi, cả hai anh im lặng, không nói
một lời ǵ. Nh́n nét mặt thật buồn, tôi nghĩ là họ đang ưu tư điều
ǵ. Tôi hỏi, nhưng hai anh chỉ nh́n nhau rồi lắc đầu, không nói.
Suốt ngày hôm ấy hai anh ở lại nhà tôi. Mẹ tôi đăi hai anh một con gà tơ. Trong lúc Lân và Quế trong vườn, tôi t́m hái mấy trái cà, trái mướp và rau thơm. Cả ba chúng tôi cùng làm bếp, đùa giỡn, ca hát líu lo, không c̣n chút ưu tư nào trên khuôn mặt của mọi người. Ăn cơm xong, chúng tôi rủ nhau ra ngồi dưới những cây dừa rợp bóng, nghe Quế hát, rồi chúng tôi cùng hát theo những bài t́nh ca quen thuộc. Buổi chiều, Quế cáo từ tôi, chào ba mẹ tôi xin về trước. Trong pḥng tôi chỉ c̣n có tôi và Lân. Lần đầu tiên tôi nghe Lân rụt rè tỏ t́nh. Anh bảo, đời chiến binh rày đây mai đó, rồi có một ngày, anh sẽ phải đi xa, nhưng lúc nào cũng mang theo bóng h́nh của tôi vào những nơi gió cát. Những lời anh nói làm tôi nhớ tới những câu thơ Chinh Phụ Ngâm thật hay của bà Đoàn thị Điểm mà tôi đă học. Những câu thơ thật buồn bây giờ lại càng buồn hơn. Tôi khóc. Lần đầu tiên tôi khóc, không biết là v́ hạnh phúc đến bất chợt của mối t́nh đầu hay là v́ nghĩ tới nỗi cô đơn của người Chinh Phụ. Tôi giật ḿnh, khi Lân ôm tôi vào ḷng. Tôi đứng im, bất động, đón nhận nụ hôn t́nh yêu đầu đời trong hai hàng nước mắt. Tôi tiễn Lân ra đầu làng, hai đứa ôm lấy nhau khi bóng chiều vừa tắt.
Sáng hôm sau, ngồi trong lớp học, khi thấy từng đoàn xe nhà binh chở
đầy lính chạy về hướng Pleiku, ḷng tôi thẫn thờ khi nghĩ là Lân đă
đi xa... Tôi vội lên xin phép cô giáo ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa
chạy đến hàng thông phía trước, th́ đoàn xe cuối cùng đă chạy qua
bên kia cầu.
Xuân ơi,
Anh đang ở phi trường Pleiku để chuẩn bị được không vận lên Kontum. Chiến trường đang ác liệt. Căn cứ Tân Cảnh vừa thất thủ. Địch quân đang tràn xuống uy hiếp thành phố Kontum. Thành phố đang bị cô lập nởi những cái chốt của địch quân trên đỉnh núi ChuPao, cắt đứt quốc lộ 14 nối liền với Pleiku. Sợ lên Kontum rồi, anh không liên lạc được với em, nên viết vội ít ḍng tin em và cũng xin lỗi em v́ hôm qua, khi chia tay ở nhà em, anh không nói chuyện anh đi. Mong em thông cảm bởi đó là bí mật quân sự, anh không được phép tiết lộ, mặc dù anh rất yêu em và tin em…
Không biết đến bao giờ ḿnh mới gặp lại, nhưng dù bất cứ hoàn cảnh nào, anh vẫn luôn mang theo trong tim ḿnh h́nh bóng của em. Em nhớ cầu nguyện cho anh nghe.
Xin cho anh kính lời hỏi thăm hai bác cùng gia đ́nh. Cầu xin Chúa và Đức Mẹ Maria luôn che chở em cùng tất cả mọi người.
Hôn em.
Đỗ Lân.
Không ngờ lá thư này là lá thư cuối cùng tôi nhận được của Lân. Chỉ
ba tuần sau, Lân hy sinh. Người báo tin buồn này chính là Lê Phương
Quế, người bạn chí thân của Lân và sau này cũng là bạn của tôi. Lá
thư có kèm theo vài di vật, Quế đă nhờ một anh phi công gởi cho tôi
từ Pleiku, sau một chuyến đổ quân cho đơn vị của Quế ở Kontum. Lân
đă bị thương rất nặng khi cùng với vị tiểu đoàn trưởng chui qua hàng
rào pḥng thủ, mở đường vào giải cứu Bệnh Viện 2 Dă Chiến, đang bị
địch quân xua xe tăng đánh chiếm, với ư đồ lợi dụng những thương
binh nằm trong bệnh viện, làm bàn đạp tấn công vào khu phi trường
nằm sát thị xă Kontum. Lân chết lúc chờ máy bay tản thương. Chính
Quế là người đă vuốt mắt cho Lân và nghe những lời trăn trối cuối
cùng. Anh nhờ Quế giữ để trao lại cho tôi cái dây chuyền có mang
thánh giá cùng mấy tấm ảnh có h́nh của cha mẹ anh và của anh mặc lễ
phục trắng đội bê rê đỏ khi c̣n là thiếu sinh quân. Những tấm ảnh ấy
bây giờ vẫn c̣n trong nhà thờ An Túc, và sợi dây chuyền tôi vẫn c̣n
cất giữ đến hôm nay. Anh Quế c̣n cho biết thêm, trước khi trút hơi
thở cuối cùng, Lân c̣n th́ thào gọi tên tôi, và khi lục trong túi
áo, anh Quế c̣n thấy cái khăn tay và lá thư của tôi tặng Lân trong
gói quà tết hôm nào.
- Thưa thầy, cuối năm 1973 tôi có nhận được thư của thầy. Lúc ấy
thầy bị thương nặng, nằm ở quân y viện Pleiku. Tôi có t́m đến thăm,
nhưng người ta bảo là thầy đă được chuyển về quân y viện Nguyễn Huệ
ở Nha Trang, để được gần nhà. Lúc ấy đoạn đèo An Khê lại bị địch
chiếm, nên xe đ̣ không chạy được. Mấy tháng sau, khi đi được xuống
Nha Trang t́m thăm thầy, th́ thầy đă xuất viện. Tôi có hỏi nhưng
bệnh viện không biết thầy ở đâu.
- Mô Phật! Đúng như bà nói. Tôi được Hội Đồng Giám Định Y Khoa cho xuất ngũ, v́ thương tích. Tôi về sống với mẹ già. Lúc ấy bà cũng đang tu tại gia, ăn chay trường. Suốt một đời bà đă lo lắng cầu nguyện cho cha tôi, rồi đến tôi. Cha tôi cũng đă tử trận năm 1965, trong trận Đồng Xoài, khi ấy tôi chỉ vừa 11 tuổi.
- Nhờ vậy mà thầy đă đi tu.
- Lư do đó chỉ một phần. Cái chính là do tôi đă sống trong chiến tranh, chứng kiến bao nhiêu cái chết quá đau ḷng, như cái chết của những người c̣n quá trẻ như Lân. Họ đâu có tội t́nh ǵ. Tôi nghĩ tới cuộc chiến phi nghĩa, khi mà anh em cùng một nhà lại chém giết thù hận lẫn nhau. Nhất là những người lính miền bắc, chỉ v́ một số người cầm quyền nhân danh các thứ chủ nghĩa này nọ, để xua họ vào miền nam chém giết chính đồng bào ḿnh. Trước khi nhắm mắt, có lẽ họ chẳng biết họ chết trong núi rừng, trong đói khổ, để cho ai và được điều ǵ? Gia đ́nh, cha mẹ hay vợ con họ ra sao? Tôi nghĩ tới cái Vô Thường, Vô Minh mà Đức Phật đă dạy, nên tôi đă t́m tới cửa Thiền để mong trút bỏ mọi ám ảnh, oan khiên.
Như vừa nhớ ra một điều ǵ, thầy chỉ tay về hướng sau chùa:
- Mời bà đi theo tôi. Mong bà sẽ t́m thấy một điều kỳ diệu.
Tôi theo thầy đi dọc theo triền đồi, đến một nơi tương đối bằng
phẳng. Lại một khu vườn nhỏ toàn hoa sim. Tuyệt diệu hơn, bên trên
các khung cây được treo đầy những cánh lan rừng. Tôi nhớ tới những
cành lan mà Lân thường mang về tặng tôi sau các cuộc hành quân. Ngày
xuân, tất cả đang nở rộ một mùa hoa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn là
giữa khu vườn là một ngôi mộ, trên tấm bia lại có cây thánh giá. Tôi
thắc mắc hỏi thầy.
Thầy im lặng, không trả lời, ra dấu bảo tôi cùng thầy đến gần ngôi
mộ. Tôi bàng hoàng khi đọc mấy ḍng chữ trên mộ bia:
Giuse Đỗ Lân
Sinh ngày 10.7.1953 tại Huế
Tử ngày 11.5.1972 tại Kontum
Tôi quỳ trước ngôi mộ, đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá rồi khóc
sụt sùi. Một cơn gió xào xạc làm chao động cả rừng cây. Dường như
tôi đă ngồi ở đây lâu lắm. Khi lau nước mắt đứng lên tôi không c̣n
thấy thầy trụ tŕ. Có lẽ thầy muốn để tôi ngồi khóc một ḿnh mà thổn
thức với người xưa, hay là muốn tránh xa chuyện vui buồn của thế
tục.
Khi trở lại chùa, tôi có cảm giác như chân ḿnh đang bước vào khoảng
không, hụt hẫng. Chú tiểu chờ tôi trong căn nhà khách, chuyển lại
lời xin lỗi của thầy trụ tŕ và trao lại cho tôi một tờ giấy học tṛ
được xếp làm đôi. Thầy trụ tŕ đang cúng ngọ. Tôi mở tờ giấy ra đọc,
trong lúc tiếng chuông chùa ngân nga như muốn làm dịu đi phần nào
những cơn sóng đang bềnh bồng trong ḷng tôi. Trên tờ giấy chỉ có
mấy ḍng chữ: Xin chào bà và cám ơn bà. Chính tôi đă mang hài cốt
của anh Lân về cải táng trong vườn chùa, khi được tin nghĩa trang
trong thành phố Kontum bị giải tỏa. Anh Lân mồ côi, không c̣n ai
thân thích. Từ nay, xin bà hăy cầu nguyện cho anh Lân, theo nghi
thức tôn giáo của bà. Nam mô A Di Đà Phật.
Phạm Tín An Ninh
(Tác giả viết lại phỏng theo lời kể của một
nữ độc giả. Độc giả này sau khi đọc bài Trên Chiến Trường Xưa
(Kontum) của tác giả, được phổ biến trên nhiều số báo nhân ngày
30.4.2008, đă t́m cách liên lạc với tác giả để t́m hiểu vế cái chết
của người t́nh cũ. Anh đă tử thương trong trận tái chiếm Bệnh Viện 2
Dă Chiến, Kontum ngày 11.5.1972
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại