Tràm Cà Mau
Monday, 07 February 2011
Người xưa viết rằng, tha hương mà gặp người quen biết cũ là một
trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ, cần chi phải là quen
biết cũ, tha hương mà gặp một đồng hương, cũng mừng đến lịm người đi
chứ. Đó là trường hợp của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái
thành phố Morris nhỏ bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm 1981.
Tôi v́ cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp anh Hy. Việt Nam trong thành
phố nhỏ hiền ḥa nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quư và
thân thiết nhau c̣n hơn cả anh em ruột thịt. Gia đ́nh anh Hy có năm
người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên
gặp chúng tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt rưng rưng v́
mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay vợ tôi măi. Vợ tôi thân thiết ngồi
ép sát vào bà.
Bà cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa con gái của bà thất lạc
nhiều năm mới t́m lại được. Gặp người đồng hương là sung sướng thế
đó. Chị vợ anh Hy th́ không dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và
nh́n hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện cảm. Anh Hy hiền lành,
ít nói, nhưng nụ cười trên môi nở măi không tàn. Hai đứa con chưa
biết ǵ, chạy nhảy, reo ḥ. Gia đ́nh anh Hy sung sướng, chúng tôi
cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về, được điện thoại của anh Hy, anh hớn hở
báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia đ́nh Việt Nam tị nạn đến thành
phố nầy. Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo trợ mới
thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp đặt th́ giờ, để cùng mấy
người trong họ đạo đi đón người mới đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi
vội vă báo tin mừng cho vợ, và trong ḷng nghe lâng lâng vui. Có
thêm càng đông đồng hương, càng đở buồn, và thỉnh thoảng qua lại
chuyện tṛ cũng bớt cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu thuận
tiện, th́ chúng tôi cùng đi đón gia đ́nh Việt Nam tị nạn nầy cho
vui, và tỏ cái t́nh thân thiết lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly
tách, muỗng đủa, chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà
tặng cho gia đ́nh mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo trợ tiết lộ một tin tức
ǵ về người sắp đến, chị vợ anh Hy vội vă điện thoại báo cho chúng
tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đ́nh người tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm
thứ tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị cảm mạo, lên cơn sốt,
thân nhiệt nóng hơn một trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ kêu
điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi tôi mới đi làm việc về. Họ
yêu cầu tôi thay anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị nạn mới tới. Bỏ
tắm rửa, tôi ăn vội vă, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, pḥng khi
đường sá có ǵ bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ tên là Gary có vợ là bà Eva,
cả hai ghé nhà tôi để hướng dẫn và chỉ đường trên bản đồ. Tôi cũng
run lắm, v́ chưa bao giờ đi đến phi trường nầy, và thấy cái bản đồ
ghi chằng chịt đường sá đan nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi
chạy bám sát xe ông, nhưng chưa được mười phút th́ đă lạc nhau. Khi
cách phi trường ba mươi dặm, th́ xa lộ bị tắc nghẽn, v́ chiếc xe vận
tải hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị đóng hoàn toàn.
Khi vào đến phi trường, tôi bị lạc đường hai lần, chạy quanh măi mới
vào được nhà đậu
xe. Ông bà Gary cũng đi lạc, và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên
máy bay cũng đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề tên người chủ
gia đ́nh là Phan Ly, đưa lên cao trước cỗng đi ra của hành khách.
Gặp dáng người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm ḍm kỹ. Cho đến khi
hành khách
không c̣n ai cả, th́ ông bà Gary bối rối. Ông chạy đi hỏi hăng máy
bay, họ bay xác nhận là có gia đ́nh anh Phàn trên chuyến máy bay vừa
rồi. Hai vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề tên anh Phàn đi
quanh các ghế chờ trên phi trường, thấy gia đ́nh Á Đông nào, cũng
ch́a cái bảng tên ra trước mặt họ, để ḍ hỏi. Đi quanh ba ṿng, mà
không t́m được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi gia đ́nh anh Phàn ở đâu,
cho biết để người bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi t́m gia đ́nh anh
Phàn cả
tiếng đồng hồ mà không kết quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế
nghỉ một chốc với ḷng vô cùng chán năn. Tôi bảo hai ông bà Gary
ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi t́m một lần nữa. Tôi đi ḍ t́m tên
từng gia đ́nh trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ quan
ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến gần một anh mang cà
vạt đỏ, áo vét ba mảnh bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng
dạ. Tôi nh́n tận cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh
bạo hỏi:
"Anh là Phàn phải không"
"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?"
"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ người Mỹ đến đón gia đ́nh anh. Sao
năy giờ chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng tên anh ra, mà
anh lại ngồi im?" - Tôi nói với giọng hơi mất kiên nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông Mỹ ch́a ra trước mặt tôi ba lần, nhưng
đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là Phàn."
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi tên trước, họ sau."
"Ngược ngạo thế th́ 'bố giời' mới biết được".
"Thế th́ loa kêu tên anh nhiều lần, sao anh cũng chẵng trả lời?"
"Nghe được cái quái ǵ đâu?"
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc
tôi đă nghe kịp, huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay lại
báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không t́m ra. Ông
bà Gary mừng, và tôi đọc được sự kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông
bà, khi đêm khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm đặm, đi đón
một gia đ́nh ngoại quốc, khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà
con, không hề quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao nhiêu giấy
tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu th́ giờ, tốn kém đủ thứ. Chỉ v́ trái tim
biết thương người mà thôi.
Gia đ́nh anh Phàn có hai vợ chồng, năm đứa con, đứa đầu mười bốn
tuổi, đứa út c̣n ẵm trên tay. Anh Phàn người da sậm, gầy ốm, cái má
thóp, răng cỏ đen điu v́ khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có bề
ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài khoác áo bành tô cứng
ngắt. Gia đ́nh anh c̣n có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn khăn
mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có che miếng vải đen, gợi tôi nhớ
rơ h́nh vẽ trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày c̣n bé tôi
hay đọc. Bà cụ y hệt cái h́nh vẽ bà già mù trong sách. Trang phục
của vợ chồng anh Phàn có vẽ sang trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều,
nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.
Hành lư được chất lên cao trên bốn chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ
anh Phàn, và cháu bé gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy một chiếc xe.
Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc lá châm mồi và hút trong
hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc. ( Dạo nầy, chưa có luật
gắt gao cấm hút thuốc nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh
Phàn, và ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy. Thấy đi măi
trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi tôi:
"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần đây, mà phải đi xa quá vậy?"
Tôi cười và trả lời:
"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi
gần nhất rồi, không có nơi nào gần hơn nữa".
Anh Phàn hỏi tôi:
"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy? Lương trả có khá không?"
"Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn. Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi
đón, phụ đưa gia đ́nh anh về. Đường xa, anh có mệt lắm không?"
"Cũng mệt, nhưng chẵng can ǵ cả."
"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu bé th́ hơn"- Tôi nói.
"Kệ nó, để nó làm việc cho quen"
Hành lư quá nhiều, hai chiếc xe hơi không đủ chở. May mắn ông Gary
gặp người quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi
tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng và đăi đồng hương. Anh Hy và
tôi, mỗi gia đ́nh đóng bảy mươi lăm đồng làm chi phí. Chị Hy và vợ
tôi trổ tài nấu ăn, rộn ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương. Anh
Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của các gia đ́nh bên
cạnh. Chai rượu nho hồng đậm đặt trên bàn bên cạnh b́nh hoa giả. Anh
Hy và tôi lái xe đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi người, cả cháu
bé c̣n bế trên tay.
Ba gia đ́nh vui vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng d́. Tôi
cảm phục cái t́nh gia đ́nh của anh Phàn, khi đem bà d́ mù ḷa di
vượt biển. Anh Phàn uống rượu rượu nho như uống nước ngọt, tu một
hơi hết nữa li lớn. Anh nói:
"Rượu nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu Tây mới đă miệng.
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ, lôi ra nữa chai Vodka, rót
vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một hớp nói:
"Cái nầy mới thật là rượu."
Khi đă ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về cuộc chiến anh hùng chống Mỹ
cứu nước của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy bay
của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến th́ bắn hạ rụng như sung
chín. Anh kể công ơn bác, đảng, văn minh tiên tiến. Những chuyện
nầy, tôi đă nghe nhiều lần khi c̣n ở bên nhà. Chị vợ anh Hy giận,
nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với bác đảng anh hùng của anh, mà
lại đi qua Mỹ làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó không được,
sống không nỗi, đời sống thua con chó, khoai sắn c̣n không có mà ăn,
chứ đừng nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng, chị nói:
"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích
ăn cơm."
Chị vợ anh Hy nói:
"Sống với bác đảng, đói cho ră họng ra, ở đó mà thích quà không
thích cơm. Nói làm sao mà tôi không hiểu chi cả."
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai
lần. Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn và thông dịch. Mỗi lần đi
chợ về, th́ chị vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi để than
văn:
"Chị biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn thổ quách. Chị ấy lựa
những tảng thịt ḅ đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng. Lựa các
thức ăn ngon nhất, đắt nhất trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em
đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ chưa bao giờ dàm đụng đến các
thứ thịt đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ vào thịt gà, thịt heo, mà
chị ấy lờ đi. Em thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị rách. Khi
trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt v́ số tiền phải trả."
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng, nên chọn các thức ăn có
giá trung b́nh hoặc rẽ mà mua, v́ chính ngay các bà bảo trợ, cũng
rất ít khi dám ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc đầu mà nói
rằng, ḿnh không trả tiền, tội ǵ không lựa món ngon mà ăn. Từ đó,
vợ anh Hy sinh ra có thành kiến với gia đ́nh anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất chu đáo. Mua cho các cháu bé áo
quần, giày vớ, áo lót chống lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết
ch́, viết màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các cháu
đến trường. Khi họ đến thông báo cho gia đ́nh anh Phàn, để hẹn ngày
đem các cháu đến trường, th́ anh Phàn phản đối, nhất quyết không cho
cháu gái đầu mười bốn tuổi đi học. Anh lấy lư do là nhà đông con
dại, cháu nầy đă lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt, giúp mẹ nấu
nướng. Ba bà bảo trợ cố gắng giải thích, qua sự thông dịch lỏm bỏm
của vợ anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ con dưới mười tám
tuổi phải đi học. Nếu không được đi học, th́ cha mẹ phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Chị vợ anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà,
và thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất quyết không
chấp nhận lời khẩn cầu của các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ
thuyết phục măi làm anh Phàn nỗi giận nói gằn với chị vợ anh Hy :
"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó đi học hay không là quyền của
tôi. Sao các bà ấy cứ muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi măi
thế."
"Pháp luật bắt buộc cho trẻ con đi học. Không phải các bà muốn đâu"
"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn cảnh gia đ́nh mỗi người, mà cho
con đi học. Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự do mà."
"Đúng, xứ tự do, nhưng không phải cha mẹ muốn làm ǵ th́ làm. Pháp
luật bảo vệ con trẻ dưới tuổi trưởng thành."
"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi đă nhất quyết rồi. Tôi đă có phương án
riêng cho gia đ́nh tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền tôi nửa."
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc v́ không phá vỡ được cái vỏ cứng
rắn của anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối hôm đó, bà
Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải thích cho anh Phàn hiểu luật pháp
Mỹ .
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải thích, th́ điện thoại reo. Anh
Phàn ở đầu dây bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ
ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi học. Anh nói là họ làm áp
lực anh, họ vô lư. C̣n bày đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa anh.
Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại, v́ biết rất khó
thuyết phục anh trong lúc nầy. Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ
theo phe anh, mà nói :
"Anh nói đúng, mỗi gia đ́nh có hoàn cảnh riêng, giải quyết theo cách
riêng. Không ai có quyền ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, th́ tôi cũng
không được rơ lắm. Hay là anh thử kêu điện thoại qua Oklahoma hỏi
những người anh quen biết từ ngoài Bắc, mà họ đă đến xứ nầy từ lâu
rồi, để biết thêm cho rơ. Biết chắc luật lệ, mà thi hành. Không ai
có quyền ép ḿnh theo ư họ, nhưng ḿnh cũng không nên làm trái luật.
Có ǵ th́ anh cho tôi biết với."
Không biết anh có kêu điện thoại cho người quen ở Oklahoma hay
không, nhưng sau cùng, anh Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà
thờ, để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học. Anh nói rằng : "Thôi, th́
tôi cũng tạm thời lui một bước, ḿnh mới đến đây mà căng quá cũng
không nên. "
Các ông bà bảo trợ để anh chị Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai
tháng. Trời tuyết đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, ḷ sưởi
mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi trên ghế bành . Cái máy
truyền h́nh nhấp nhem, nói tiếng Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không
đi tù, mà cũng giống như bị giam lỏng, bị quản chế. Ra ngoài th́
trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng không biết đi đâu, đi xa th́
không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc cho anh chị làm, th́ anh gạt ngang.
Anh nói với ông bà bảo trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
"Chưa biết nghe, biết nói chi cả chưa thể đi làm được."
Bà bảo trợ thuyết phục:
"Công việc cần làm, không cần nói, cũng không cần nghe."
"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như các bà, chúng tôi sẽ đi làm
việc. Gấp làm chi. Tôi cần đi học tiếng Anh cho giỏi."
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm năm ba chục năm nữa, cũng không thể
nói và nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ cần cố gắng làm. C̣n nghe
và nói, th́ ai cũng lơ mơ, nghe một phần, đoán một phần. Ḿnh không
lớn lên tại Mỹ, th́ hiếm hoi lắm mới nghe và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải
vừa làm, vừa học. Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe, chưa
nói giỏi th́ chưa chịu đi làm. Nghe vậy, mấy bà trong họ đạo, ngày
nào cũng thay phiên nhau đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy
bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng, trong ṿng ít
tháng, th́ cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ, không giỏi bằng họ, th́ cũng một
tám một mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ, anh Phàn và vợ thấy
buồn ngủ khủng khiếp, cứ rán chống mắt lên, mà cái đầu cứ gục lia
lịa. Anh chị uống trà đậm chống cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả.
Anh chị thấy những buổi học nầy, như cực h́nh, như tra tấn, và nản
ḷng vô cùng.
Học được phút trước, th́ phút sau quên béng đi. Không nhớ ǵ cả. Anh
chị kết luận, là cái óc của anh chị đă hư rồi, không thể học được ǵ
nữa. Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản ḷng, bỏ lớp dần
dần, và không đến dạy nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn th́ chỉ ấp úng
nói được hai chữ "yes" và "no", vợ anh giỏi hơn, nói được rất ngọng
thêm chữ "thank you". Vợ tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương
pháp sư phạm, nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận là không thể học nói học nghe cho giỏi
bằng các ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng để cho nhà thờ thu xếp
việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều
chở về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở, xe anh Hy là một
đống tuyết khổng lồ, anh phải vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi
anh Hy quần thảo với đống tuyết, với nước măng nước đá đông cứng
trên kiếng xe, th́ anh Phàn đứng hút thuốc lạnh lùng nh́n. Anh Hy
bất b́nh, nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín được,
quay qua hỏi anh Phàn:
"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết cho mau mà ra về?"
"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!"
"Nhưng... anh có đi trên xe nầy không?"
"Anh lái xe mà, đâu phải việc của tôi"
Anh Hy giận lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều ngày
liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, v́ đă lỡ nhận lời gởi gắm của bà
Mỹ bảo trợ, nếu không, th́ anh chẵng chở anh Phàn đi làm nữa. Tôi an
ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, v́ đồng hương c̣n có ai
đâu, giận nhau nữa th́ c̣n ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy v́ đă
đến đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy, anh Phàn rề rà cho anh
Hy phải ngồi chờ thật lâu trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn
ngần ngừ hỏi:
"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao
nhiêu, để anh đưa đón tôi đi làm ?"
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
"Anh hỏi làm chi vậy?"
"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số tiền đó khá, th́ tôi xin lảnh tiền,
và kiếm chiếc xe đạp đi làm cũng được."
"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn phí, v́ anh là đồng hương, và
v́ tôi cũng đă từng qua thời kỳ mới đến định cư như anh. Đáng ra anh
phải chia tiền xăng, tiền hao ṃn xe với tôi mới phải lẽ."
"Tôi không tin."
"Không tin th́ anh thử hỏi mấy ông bà bảo trợ xem."
Anh Phàn cười mũi:
"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, th́ vợ anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn
nói chi mà không được. Thà đừng hỏi."
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
"Năm ba năm nữa, nếu nhớ lại chuyện nầy, anh sẽ biết rơ sự thực."
Mỗi ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba cháu bé đi học. Cháu
lớn học ở trường xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học gần nhà.
Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt với nhà thờ về vụ cho đứa
con lớn đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng cách đem xe đón tận
nhà, đưa luôn ba đứa đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ con
ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy, không riêng ǵ các cháu con
anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ
ngập đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt động liên miên. Muối
được rải ra những con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ con
anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng dậy ôm sách vở ra về. Cô
giáo
cản lại. Hai bên trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai. Cô giáo chỉ ra
sân đầy tuyết trắng chất thành đống cao, như muốn nói cho em hiểu
rằng không thể đi được, và dắt em về lại chỗ ngồi. Em rươm rướm nước
mắt, và đứng dậy, nhất định ra về. Cản măi không được, cô giáo kêu
bà hiệu trưởng. Bà xuống lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu
nhau. Bà không thể để em bé bảy tuổi ra về một ḿnh trong gió hú,
trong tuyết cao chất đầy như thế. Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc
lớn. Hai bà giáo nh́n nhau thất vọng, không biết phải làm ǵ. Bỗng
bà hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên nó hai lớp. Bà cho
người đi kêu chị nó xuống. Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu.
Xong, con chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội cản
lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa đều khóc ṛng. Bà hiệu
trưởng dẫn hai chị em đứa bé về pḥng, và kêu điện thoại cho bà Mỹ
trong gia đ́nh bảo trợ, nhờ giúp đở. Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà
dắt hai chị em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất định kéo nhau
ra sân, để đi bộ về nhà. Ba bốn cô giáo họp lại bàn căi. Một hồi
sau, bà bảo trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến công ty
anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ, đến trường giải quyết
việc học của hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai
cháu không chịu học, mà đ̣i đi bộ giữa mưa tuyết, để về nhà. Anh
Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy : "Con cái mất dạy. Đề tôi đến
cho chúng vài bạt tai, cho bớt biếng nhác."
Anh Hy vội vă níu anh Phàn lại, đặn ḍ: "Không được, đánh trẻ con
th́ cảnh sát c̣ng tay đó . Đừng dại dột." Anh Phàn hất tay anh Hy
ra, và chưa dứt cơn giận: "Vợ chồng anh được cái giỏi là hay hù họa
tôi mà thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, th́ thành hư đốn. Dạy con
từ thuỡ nên ba." Anh Hy biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng
theo: "Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp. Có chi th́ từ tốn,
dạy bảo." Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát c̣ng tay. Khi xe đến
trường, anh Phàn hùng hổ, xăm xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa con.
Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt c̣n ướt sũng lệ. Anh lớn giọng gằn
hai đứa bé. Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu
xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt chúng ra về. Tuyết ngập trời,
tuyết cao nghệu, các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không
ai cho anh dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo nầy. Anh kéo con
đi, nhưng một ông giáo to lớn như hộ pháp đang giữ tay hai em bé
lại. Các bà giáo đang vây quanh th́ líu lường xôn xao. Anh Phàn nh́n
đám thầy cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với nét mặt anh nhăn
nhúm đầy đau khổ, anh vội cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và ̣a
khóc lớn. Cả ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc
lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người
Mỹ cùng ồ lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu, em bé đă phóng
uế ra cả quần. Em đă không biết nói sao để xin cô giáo đi ra pḥng
vệ sinh, và cũng không biết pḥng vệ sinh ở đâu, rán sức cầm cự, và
khi hết chịu nỗi, th́ phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn đi làm về chừng một tiếng, th́ có
bà Mỹ đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ xin cho chị được chân rửa
bát tại một khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười giờ rưỡi
đêm, th́ mấy bà Mỹ trong họ đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết
lạnh, đến chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ ngủ sớm, mười
giờ đêm là đă say giấc, họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ tôi thường
biểu lộ sự cảm phục ḷng tốt của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai
mà không muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội tuyết ra đi là một cực
h́nh. Có nhiều đêm, v́ lư do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến
đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy lúc năm giờ, để kịp năm
giờ rưỡi khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời ngay, để cám
ơn cái ḷng tốt của các bà Mỹ, đă giúp cho người đồng hương của tôi.
Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không dám từ chối, sợ các bà
cho là tôi không có ḷng. Mỗi lần đi đón, th́ tôi phải cào tuyết
trên xe hơn mười lăm
phút, chờ máy nóng mới đi được. Bỡi thế, nên thường đến trể. Chi vợ
anh Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời nào . Cả
không một lời cám ơn, một lời chào khi được đón và khi về thấu nhà.
Có lần chị nói :
"Nếu đón tôi, th́ đừng đến trể. Ngồi chờ rất nản."
"Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ đi đón chị, th́ tôi đi ngay. Phải mang
áo, phải cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trể, chị đừng buồn.
Các bà người Mỹ tử tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh lẽo,
mưa, tuyết."
"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử
tế!"
Tôi không buồn mà thương cho chị. Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất
nhiều về ḷng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà,
để nhờ chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện ǵ, anh nói sẽ
cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng, sao cái lối nói nầy
giống hệt cách thức của công an nhà nước cọng sản hồi trước. Buổi
chiều đi làm việc về, có "giấy mời" tối nay ra trụ sở công an, lư do
"Cho biết sau". Cứ thế mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện ǵ,
không biết có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn ḍ vợ
con phải làm
ǵ để sinh sống, nếu bị nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh
Phàn mà không phải hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà
cụ đă ngồi sẵn trong pḥng khách. Họ rót nước trà mời chúng tôi, xem
bộ trịnh trọng, không lạt lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi
xả giao, anh Phàn tằng hắng nói:
"Tôi mời các anh chị đến đây, v́ không c̣n ai có thể giúp cho chúng
tôi được trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đă ăn chận của gia
đ́nh
tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van xin các anh chị, nói với các
ông, các bà trong nhà thờ, cho chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm
vốn, ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho hăng sửa
tàu, cho khách sạn, th́ biết bao giờ mới ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi
van lạy các anh chị, xin giúp chúng tôi, và v́ thương các cháu nhỏ
..."
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng, không tin vào lổ tai ḿnh. Chị vợ
anh Hy ấp úng hỏi lại:
"Nhà thờ ăn chận tiền của anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh
nói rơ hơn được không?"
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rơ ràng:
"Đừng vờ vĩnh. Gia đ́nh tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít
nhất cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ, tiền nhà mà
mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng mấy trăm là cùng, th́
cũng c̣n hơn hai ngàn đồng mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn
chận, th́ tiền đó để đâu, vào túi ai?"
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
"Ai nói với anh điều đó? "
"Chúng tôi biết rơ lắm, không cần ai nói cả."
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng đă đến đây trước. Anh rơ thủ
tục. Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ, mua cho đủ các
thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ kiếm việc cho ḿnh làm. Khi đă có
lương tiền, th́ ḿnh phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà thờ."
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua
ngoét:
"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rơ hai ông bà Hy nầy là những con c̣
mồi của nhà thờ. Biết rơ đến mười mươi."
Anh Hy run lên v́ giận, chị Hy th́ mặt đỏ bừng, thét lên the thé:
"Làm c̣ mồi để được cái ǵ? Ăn nói như những kẻ vô ân bạc nghĩa. Nói
như vậy mà không biết tự xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người nầy
thêm xấu hổ, thêm nhục nhă cho cái giống ṇi ḿnh mà thôi."
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy, giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói
với anh Phàn:
"Tuần tới, ông tự kiếm lấy phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm
mọi cho ông nữa."
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu,
bảo ngồi yên. Anh Phàn phân trần tiếp:
"Chuyện trợ cấp cho người mới định cư là luật của nhà nước Mỹ. Rơ
ràng, không ai chối được. Chúng tôi đă biết rơ từ hồi c̣n ở trại tị
nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận tiền, rơ ràng thế, mà c̣n chối
loanh quanh."
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng anh Phàn, v́ hiểu lầm, nên có nhiều
suy nghĩ và hành động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng là anh
đă hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà giải thích cho gia đ́nh anh Phàn
hiểu, không chừng càng giải thích, th́ càng gây thêm nhiều ngộ nhận
khác. Tôi ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :
"Bây giờ chỉ c̣n hai anh chị. Tôi nhờ anh chị 'báo cáo' lại cho nhà
thờ những đ̣i hỏi chính đáng của gia đ́nh chúng tôi. Chúng tôi kiên
quyết đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng."
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống hệt những anh cán bộ trong các buổi
học tập chính trị bên nhà, th́ ph́ cười, hết giận. Vợ tôi nói:
"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ.
Ḿnh ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân nghĩa,
không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lảnh ḿnh vào đây, cho nhà ở, cho
cơm ăn, cho áo mặc, lo cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật đáng đời.
Của nợ giữa đường mà mang cơng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ
bảo lảnh cho ḿnh, th́ được lợi lộc ǵ nhĩ ? "
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một lúc, với giọng chắc nịch:
"Để lập thành tích chứ để làm ǵ. Ai mà không biết."
Vợ tôi bật cười ha hả và nói tiếp:
"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng !"
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai
anh chị Phàn và gia đ́nh. Chữ hứa của tôi, trong thâm tâm, là hứa cố
gắng giúp anh chị giải tỏa những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh
chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ đ̣i tiền "ăn quỵt" giúp cho anh
chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy. Anh chị Hy chưa nguôi giận.
Chị vợ anh Hy nói:
"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa, không biết đạo lư làm người. Khi
nào cũng ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là đấu
tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà ngứa lỗ tai, chịu không
nỗi."
Vợ tôi nói:
"Họ c̣n cho rằng, nhà thờ muốn lập thành tích nên bảo lảnh họ đến
đây."
Anh Hy ph́ cười, nói:
"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết
hết không c̣n một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia đ́nh anh
Phàn, để tránh bực ḿnh và rắc rối về sau. Những hạng người nầy,
không chơi được."
Tôi nói:
"Thôi, anh chị bớt giận. Tất cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không
cùng màu da, không cùng ḍng giống, mà họ c̣n tận t́nh giúp đở. Ḿnh
không giúp nhau, th́ làm sao cho ḷng yên ổn được."
"Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của 'bọn dân tộc anh hùng', ngứa
tai chịu không nỗi."
Tôi dịu giọng:
"Họ cũng là nạn nhân dài hạn của chế độ. Họ c̣n đáng thương hơn
chúng ta nữa, v́ chịu đă chịu đựng chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy
năm. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được giáo dục theo lối
đó, th́ không chừng chúng ta tệ hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh
chị đừng buồn nữa.
Thứ hai nầy, anh cứ đến chở anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta
không thương nhau, th́ ai thương chúng ta được?"
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết nghĩ sao, vào tối chủ
nhật, anh Hy nhờ tôi điện thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ
hai, sẽ đến đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà mừng.
Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn c̣n buồn nhau. Cùng đi cùng về mà giữ
im lặng, không nói một lời. Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: "Bố
bảo, thằng Hy cũng không dám thôi đưa rước tôi đi làm. Nó c̣n phải
ŕnh ṃ, ḍ xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ."
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ đến chở toàn gia đ́nh anh Phàn đi
nhà thờ xem lễ. Với ư nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt linh hồn của
một gia đ́nh ngoại đạo tội nghiệp, chưa biết đến danh Chúa Trời, đem
ơn phước đến cho họ. Nhưng gia đ́nh anh Phàn cắn răng chịu đi nhà
thờ, là để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui ḷng, may ra họ nghĩ
lại mà trả lui số tiền họ đă ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh Phàn
nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói ǵ, buồn ngủ lắm, ngồi
lâu mỏi
lưng, tê chân. Anh Phàn nói với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng,
giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi lễ xong, có người
cầm cái vợt đi thu tiền, tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một
đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục nhă, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt
mười đồng." Tôi chỉ cười, không dám có ư kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi vào buổi tối, đem tặng một
gói trà Tàu bèo nhèo mà anh đă mua từ Hồng Kông. Sau một vài câu
chuyện vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có mười bốn tờ,
đưa cho tôi xem, và hỏi những món hàng ghi trong điện tín có thể mua
ở đâu, làm sao t́m ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện tín
từ Hăi Pḥng, Hà Nội. Móng Cáy điện qua, do nhiều người khác nhau
đánh đi, yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như máy nghe nhạc, máy
chụp h́nh, xe đạp đua, vải vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những
món linh tinh khác nữa. Anh nói :
"Bên nhà tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của thiên hạ anh ạ. Tiền
đâu mà đ̣i hỏi đủ thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu về mấy cái điện
tín và thơ từ liệt kê dài ḷng tḥng các món hàng họ đ̣i hỏi. Điên
lên được đấy chứ ."
Tôi an ủi anh:
"Bên nhà họ khổ quá, ḿnh giúp đở được ít nhiều chi, th́ giúp trong
khả năng của ḿnh. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích."
"Người ta tưởng qua đến Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ
nó ngu cả hay sao? "
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe đưa anh lên Chicago, t́m các tiệm
bán hàng cần thiết để anh ḍ hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm trăm
đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ hoàn trả lại khi lảnh được tiền
trợ cấp. Tôi cười bảo anh:
"Để tôi bàn lại với vợ tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. V́ hầu bao
trong gia đ́nh do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi ngày tôi phải
ngữa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và nếu có cho anh vay, th́ cũng
không dám lấy lời. Ở Mỹ mà cho vay cắt cổ, th́ cũng dễ vác chiếu ra
ṭa lắm."
"Tiền lời là do tôi đề xuất, và bằng ḷng, chứ anh có ép tôi đâu?
Anh tự quyết định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu đuối quá,
anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn lướt, qua mặt. "
Tôi cười, nói đùa:
"Đàn ông miền Nam chúng tôi không được dũng cảm như các anh. Mà khi
ở trên đất Mỹ nữa , th́ chúng tôi càng x́u như sợi bún thiu."
Làm việc được bốn tháng, anh Phàn bỏ việc mà không thông báo cho
công ty, nên anh bị sa thải. Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến nhà
anh t́m hiểu sự việc để giúp đở. Họ kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông
dịch, nhưng anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ tôi. Nhóm nhà thờ gồm
năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi lư do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng
đáp:
"Không muốn làm việc nữa, th́ nghỉ."
"Thế anh đă kiếm ra việc làm khác chưa ?"
"Chưa"
"Không có việc làm, lấy tiền đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?"
"Tôi không biết!"
"Tại sao anh không muốn làm việc đó nữa? Có vấn đề ǵ không? "
"Không có vấn đề chi cả. "
"Anh có muốn nhà thờ t́m việc khác cho anh không?"
"Chưa muốn. Khoan đă."
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu, nh́n nhau, rồi nh́n anh Phàn với
ánh mắt thương hại. Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn ǵ không? Anh
nhờ vợ tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền hơn hai mươi
ngàn mà họ đang giữ giúp, để anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt,
không biết phải nói làm sao, để hội nhà thờ không bất b́nh. Ngập
ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết muốn biết những
chi phí của nhà thờ đă chi tiêu cho anh, và ai đă đóng góp bao
nhiêu, quỷ nhà thờ bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri
ân họ. Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng nghĩ đến,
đừng thắc mắc. Vợ tôi năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết những
điều đó, thí anh Phàn cứ thắc mắc măi, không yên tâm để làm ăn. Các
ông bà cười sung sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của anh Phàn gần thành công mà anh không
biết. Khi nhà thờ thấy anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa,
họ cũng quưnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo cũng nghèo, tín hữu cũng
không giàu có chi, không thể đài thọ dài ngày cho cái gia đ́nh đông
đảo nầy được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định ngày đem gia đ́nh
anh Phàn lên sở xă hội xin trợ cấp của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan
báo rằng, anh sẽ dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở phào. Anh
Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị nạn cũ, họ đă định cư ở
Oklahoma, và biết rành mạch cách xin trợ cấp xă hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia đ́nh về Oklahoma City,
đồng thời dàn xếp xe cộ để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà
Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để chở hành lư cồng kềnh
của gia đ́nh anh. Tôi và anh Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đ́nh.
Anh Phàn nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ đốt căn nhà để
trừ vào số tiền nhà thờ đă ăn quịt của anh. Ăn của ai th́ được, ăn
của anh th́ nuốt không trôi đâu. Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI
của Mỹ giỏi
lắm, thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi đi tù cho khổ thân, con
cái không ai nuôi. Ḿnh đến đây, đời sống c̣n dài, c̣n sức th́ c̣n
làm ra tiền. Vă lại, có đốt căn nhà, ḿnh cũng không được đồng xu
nào, chưa chắc đă hả được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào thân.
Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, th́ thêm tội nghiệp những người láng
giềng tốt của anh. Anh nói rằng, nếu không đốt được nhà, th́ trước
giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống
nước, phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo rằng, anh cứ lo đi trước,
sau khi anh đến Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng
làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được, mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin nghỉ việc, thay phiên
nhau đến nhà anh, lấy cớ là phụ soạn hành lư, nhưng thật tâm là để
ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết, anh Hy chạy
vào một ṿng bên trong nhà, xem có ǵ hư hại không. Anh Hy ra xe và
đưa
hai ngón tay lên làm một ṿng tṛn, cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp.
Tôi thở phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với ông Gary và bà Eva
rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gời tiền, mua vé máy bay, mời cả họ đạo
của ông bà qua chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch khác
đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao giờ quên cái ơn
bảo bọc lúc ban đầu nầy. Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy
anh chị mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn th́ tưởng hai ông bà mừng v́
được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đ́nh anh ra máy bay, chúng tôi ôm nhau thân thiết, và
mắt anh Phàn cũng rươm rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng,
thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đ́nh anh Phàn đi rồi, anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi
cũng thấy buồn, trống trải, như mất mát một cái ǵ đó. Bây giờ chỉ
cỏn hai gia đ́nh ḿnh trong thành phố nầy thôi.". Trong ḷng tôi
cũng thấy buồn.
****
Mười sáu năm sau, kể từ khi đưa gia đ́nh anh Phàn về Oklahoma, tôi
t́nh cờ gặp lại anh trong một tiệc cưới tại Houston, Texas. Anh nhận
ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. V́ bây giờ anh mập mạp, trắng
hồng, ăn mặc chững chạc, không c̣n dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh
th́ sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô ca sĩ. Anh ôm
chầm lấy tôi, hỏi có c̣n nhớ ra anh là ai không. Anh nói: "Phàn đây,
Phàn ở Morris, Illinois đây mà." Tôi cũng mừng vui gặp lại người
quen biết
xưa. Anh xin chuyển bàn, để vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn
huyên. Anh cho biết ở Oklahoma được hai năm, th́ dọn về Houston, bây
giờ cả hai vợ chồng đều làm việc cho một hăng sản xuất đồ nhựa. Suốt
hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời gian, mỗi đêm chỉ ngủ
năm
sáu giờ thôi. Ngày nghỉ th́ đi sửa chửa nhà cửa, ống nước. Hai cháu
gái lớn đă có gia đ́nh. Cháu trai kế th́ vừa tốt nghiệp đại học. Bây
giờ anh chị Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng thành thật:
"Hồi mới qua, chắc anh chị buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi c̣n
ân hận, và xấu hổ v́ chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc, tôi hiểu lầm,
làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược.
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy, chịu đựng được chúng tôi,
mà không đấm cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm thía
cái câu ' Bầu bí một giàn' của anh Hy nói ngày xưa."
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ, nói tiếp:
"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng không bỏ được cái phét
lác đă ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời."
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói đùa:
"Nếu phét lác mà không hại đến ai, th́ cứ để anh phét lác cho sướng
cái miệng. "
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc, cười vui vẻ.
Tác giả: Tràm Cà Mau
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại