Thông thường mỗi màu có một vài ư nghĩa của nó, về một vài phương
diện nào đó. Màu tím là mầu buồn, ấy là nói theo cách thông thường,
nhưng chỉ riêng ở xứ ta, người ta phân biệt màu tím ở hai nơi: Chốn
vương triều và nơi dân dă.
Trong triều phục của các vua chúa Âu tây, thường có màu tím. Nhưng ở
Trung Hoa và nước ta, ngày xưa, màu của vua là mầu vàng. Áo vua màu
vàng nên gọi là hoàng bào, có khi vẽ rồng nên gọi là long bào. Theo
quan niệm xưa, màu vàng thuộc vua, hoàng gia. Tuy nhiên, có cái lạ,
tại sao nơi vua ở th́ gọi là “Tử Cấm Thành.”
Huế có 3 ṿng thành: Ṿng ngoài cùng th́ gọi là thành Huế. Phía
trong thành Huế th́ gọi là Nội thành hay Thành nội Huế, có 9 cửa.
Thành nhỏ phía trong, là chỗ sinh hoạt của hoàng gia, là các điện
nơi triều thiết th́ gọi là Đại Nội, có 4 cửa: Cửa chính gọi là Ngọ
Môn (ngó ra hướng Nam). đối diện với Ngọ Môn là cửa Ḥa B́nh. Bên
phải là cửa Hiển Nhơn, bên trái là cửa Chương Đức. Các cửa nầy khi
mở có lính khố vàng (lính của vua) canh gác.
Trong đại nội, c̣n có một thành nhỏ nữa, nơi dành riêng cho vua ở,
canh gác rất nghiêm nhặt gọi là “Tử Cấm Thành”.
Tử Cấm Thành có ư nghĩa như thế nào? Chữ tử nầy có hai nghĩa có thể
giải thích ở đây: Tử như tử tế là tinh mật, kỹ càng và hai là sắc
tím, sắc tía (Theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh). Tuy nhiên, có
lần tôi hỏi ông chú họ của tôi là người rành chữ Nho, th́ ông giải
thích tử có nghĩa là tím, thuộc về nhà vua. Trong quang học, “tia tử
ngoại” là tia sáng có mầu tím.
Dù có theo nghĩa Tử Cấm Thành hay không, Huế, nơi vua quan th́ nó
rất gần với màu tím. Màu tím đó được gọi là “Tím Huế”, như bài thơ
sau đây của Nguyễn Bính:
Màu tím Huế
Thôi thế là em cách biệt rồi!
Đường đi mỗi bước lại xa xôi
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Tim tím chiều hôm, tim tím mai
Ban chiều tim tím nhớ mong nhau
Đêm tối ḱa em tím rất nhiều
Anh cúi xuống hôn màu tím giấy
Thư về em, tím nét thương đau
Mai mốt rồi đây lầm cát bụi
Anh lại đường xa trải kiếp người
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Chiều hôm nhiều tím thế em ơi!
Màu tím ở đây không hẵn là do Nguyễn Bính tưởng tượng ra đâu! Huế
nằm bên cạnh dăy Trướng Sơn. Những buổi chiều hè, ngồi bên bờ sông
Hương, nh́n mặt trời lặn sau những ngọn núi chập chùng, người ta sẽ
thấy mặt trời to, đỏ như một khối lửa trong ḷ thợ rèn, từ từ hạ
xuống, chạm vào đỉnh núi rồi tóe ra muôn ngàn tia sáng đỏ rực, tưởng
như sự va chạm vào núi làm cho mặt trời vỡ ra. Ánh sáng màu đỏ của
mặt trời chiếu vào mây, làm cho mây cũng đỏ rực lên một màu lửa như
thế. Thế rồi, màu đỏ mất dần, chuyển sang màu tím nhạt, đậm dần lên
cho đến khi mặt trời khuất sau dăy Trường Sơn. Màu đen dâng lên ch́m
ngập cả khung cảnh núi rừng thôn xóm phía tây thành Huế.
Có lần tôi nói với học tṛ của tôi rằng không thể có sáng tím mà chỉ
có chiều tím. Tại sao? Màu tím là màu pha giữa màu đỏ và màu đen.
Màu đỏ là màu của mặt trời. Khi mặt trời sắp lặn th́ mầu đen dâng
lên, như Xuân Diệu từng nói vậy: “Chiều lên dần dần, chiều không
xuống.” “Chiều lên dần dần” có nghĩa là màu đen lên dần dần. Khi màu
đen dâng lên, ḥa với màu đỏ của trời chiều tạo thành màu tím. Buổi
sáng, màu đen không lên dần dần mà chỉ có thể mất đi dần dần nên nó
không ḥa với màu đỏ để tạo ra mầu tím được. Giải thích như thế,
không biết có bị các họa sĩ chê là múa ŕu qua mắt thợ không?
Tuy vậy, cũng có lần Xuân Diệu không nói là “Chiều lên”. Ông nói
ngược lại: “Chiều xuống.”
Chiều ơi hăy xuống thăm ta với!
Thiên hạ ĺa xa đời trống không!”
Chiều xuống là cách nói thông thường của mọi người.
Trong bài thơ trên, Nguyễn Bính nh́n màu tím qua cảnh thực: Rừng,
núi, chiều hôm, sớm mai đều tím. Tím không đậm mà “tim tím”, có
nghĩa là hơi tím. Núi, chiều và cả giấy hơi tím một chút. Và tím
cũng là nỗi nhớ, nỗi thương đau nên nó từ hơi tím chuyển qua tím
hẵn, tím đậm hay c̣n gọi là tím than.
Trong một bài thơ khác, Nguyễn Bính chỉ vẽ ra vài nét về Huế, chỉ
vài nét mà ông cũng không thể không nhắc tới màu tím:
Vài Nét Huế
1.
Cầu cong như chiếc lược ngà,
Sông dài, mái tóc cung nga buông hờ.
Đôi bờ, đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất t́nh.
2.
Ở đây áo tím riêng màu
Bài thơ nón mỏng che đầu mỹ nhân.
Loanh quanh xóm vắng, đường gần
Ấy ai làm dáng phi tần với ai!
Con sông không rộng mà dài
Con đ̣ không chở những người chính chuyên.
3.
Ở đây có nước sông Hương
Có cây núi Ngự, có đường Nam Giao
Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh
Thâm u một dăi hoàng thành
Đ́nh suông con én không đành bay đi.
Vài nét ở trong bài thơ trên lại nói nhiều về cung phi, cung Tần và
vua. Cầu Trường Tiền cong như cái lược ngà, nằm vắt lên hai bờ sông
như hai cánh tay của vua. Điều ấy không quan trọng bằng có một cung
nga đang làm “thơ thất t́nh”. Có cung nga đang làm dáng với ai, và
hoàng thành thâm u một dăy thành dài.
Bài thơ thất t́nh của cung nga, chính là bài thơ trong “Tần Cung Nữ
Oán”:
Cặp mày xanh chiếc lá cũng ghen,
Câu khiển hứng đánh ch́m ḍng nước chảy.
Có một cung phi đời Tần, ngồi bên ḍng suối trong cung điện, nhặt
một chiếc lá viết lên đó vài câu thơ cho người t́nh cũ, mong rằng
chiếc lá sẽ trôi xa, ra tới ngoài kia, ngoài hoàng thành để mong sao
người yêu cũ của cung nga nhận được, biết tới tấm ḷng của nàng
không quên người t́nh cũ. Vậy mà chiếc lá ghen với sắc đẹp của nàng,
đă không trôi đi mà ch́m xuống đáy nước.
Thử hỏi, trong hoàng thành Huế kia, có bao nhiêu cung phi làm thơ
thất t́nh như vậy?
Cái “áo tím riêng mầu” đây là cái áo của cung phi. Và khi xa xôi
cách trở như thế, kẻ trong nội (đại nội), kẻ ngoài nội ai c̣n làm
dáng với ai nữa?!
Đọc bài thơ nầy, người ta có thể liên tưởng đến bài “Màu Thời Gian”
của Đoàn Phú Tứ. Bài thơ tả tâm trạng của một cung nữ, khi sắp ĺa
đời, không c̣n muốn gặp vua nữa, không muốn để cho nhà vua thấy dung
nhan tàn tạ của ḿnh, để cho nhà vua cứ giữ trong trí nghĩ của ông
về một giai nhân sắc nước hương trời như khi mới được tuyển vào
cung:
Màu Thời Gian
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
D́u vương hương ấm thoảng xuân t́nh
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Ngh́n trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm t́nh cũ ĺa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
T́nh muôn thuở c̣n hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.
(Đoàn Phú Tứ)
Về h́nh thức, bài thơ nầy không có ǵ lạ như nhiều nhà phê b́nh tán
dóc. Những câu thơ dài ngắn không thường, có khi chen vào mấy câu
thể ngũ ngôn, thất ngôn, xem lại th́ nó cũng giống như thể thơ cũ,
gọi là “Trường đoản cú” (câu dài, ngắn) trong nguyên bản “Chinh Phụ
Ngâm” của Đặng Trần Côn vậy. Ví dụ các câu mở đầu trong “Chinh Phụ
Ngâm” của Đặng Trần Côn viết như sau:
Thiên địa phong trần.
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân
Cổ bề thanh động Tràng An nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh b́́nh tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề, tại yêu
Thê noa hề, biệt khuyết
Lạp lạp tinh kỳ xuất tái sầu
Huyên huyên tiểu cổ từ gia oán
Hữu oán hề, phân huề
Hữu sầu hề, khế khoát
……..
Nếu đem thể “truờng đoản cú” nói trên mà so với bài “Màu Thời Gian”
của Đoàn Phú Tứ th́ có khác ǵ nhau bao nhiêu. “Màu Thời gian” cũng
pha lẫn giữa ngũ ngôn, thất ngôn, thơ mới, v.v…
Tại sao Đoàn Phú Tứ không dùng những thể thơ cũ, như ngũ ngôn, tứ
tuyệt, thất ngôn hay thể thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ
thường làm…
Có ǵ đâu! Tại v́ ông ta là một nhà viết kịch thơ. Trong kịch thơ,
thường các câu nói của nhân vật phải viết bằng thơ. Những lời nói
như vậy, không thể cứ phải giữ một thể thơ mà thôi được. Bên Tây
phương cũng vậy. Nếu độc giả có đọc những vở kịch của Shakespeare,
thiên tài kịch nghệ của Anh, độc giả sẽ thấy trong lời thơ của các
nhân vật, cũng viết theo thể đại khái như “trường đoản cú” của ta
vậy. Ông Đoàn Phú Tứ quen dùng thể “trường đoản cú” để viết kịch,
th́ nay ông dùng nó thể viết bài thơ “Màu Thời Gian” cũng không có
ǵ là lạ để tán hươu tán vượn.
Điều rắc rối là bài thơ nầy khó hiểu. Khi th́ ông nói tới hiện tại
như “Sớm nay…”, khi th́ ông nói tới quá khứ như: “Ngàn xưa, không
lạnh nữa Tần phi” (tức cung phi đời nhà Tần (có thể là Tần Thủy
Hoàng, ông có tới ba ngàn cung phi), bên Tầu; khi th́ nói không
gian: “Trời mây phảng phất”, khi th́ nói thời gian: “Màu thời gian
không xanh.”, khi th́ nói “t́nh duyên trăm năm”, khi th́ nói t́nh
duyên ngắn ngủi, tới thề nguyền: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.”
Đọc lên th́ thấy hay, mà hiểu cho hết th́ khó hiểu.
Tướng Việt Cộng Nguyễn Sơn là một người rất yêu văn nghệ có nói
“không hiểu nổi” nhưng “cứ nhơ nhớ, nó thanh thoát, nó lâng lâng,
như khi nh́n áng mây trôi, khi ngắm ḍng nước chảy… nó lung linh như
một khúc nhạc thiều…, nó chập chờn như một bóng Liêu Trai!”
Thật ra, bài thơ có nguyên ủy của nó, một động lực kín đáo khiến
Đoàn Phú Tứ viết nên bài thơ nầy.
Đoàn Phú Tứ giải bày rằng là có một giai nhân bên Hồ Tây từng học
nhạc ở Hà Nội, từng quyến rũ Đoàn Phú Tứ bằng tiếng dương cầm rất
hay, nhưng khi ốm nặng, cô gái ấy đă khước từ, dấu mặt, không cho
ông vào thăm (như Tần phi “Thà nép mày hoa, thiếp phụ chàng)
Thiên tài của nhà thơ là đem câu chuyện t́nh của người ông yêu ngày
nay để ví với câu chuyện một cung Tần như đă nói ở trên. Người cung
phi trong câu chuyện và cá tính của người yêu ông có những nét giống
nhau, không chịu để người ḿnh yêu thấy cái nhan sắc tàn tạ của
ḿnh, muốn để lại trong ḷng người yêu những ấn tượng về vẽ đẹp, về
t́nh yêu, về nhớ nhung. Làm sao nó giữ được nguyên vẹn như thuở ban
đầu. Trong viễn tượng đó, nhà thơ c̣n bày tỏ được sự kín đáo, e lệ,
và dịu dàng của giai nhân, bằng những h́nh ảnh, âm thanh, màu sắc,
xưa nay, cũ mới, không gian, thời gian, yêu đương, nhớ nhung và
tuyệt vọng trong một t́nh tự đặc biệt, qua những h́nh ảnh của cung
nhân đẹp đẽ, trong cái lạnh lẽo của cung pḥng, v.v… với những danh
từ xưa nay lẫn lộn.
Ví dụ “phụng quân vương” là tiếng cổ, ngày nay nếu chúng ta có nghe
tới th́ cũng chỉ thấy trong những tuồng cổ (hát bội hay cải lương).
Bên cạnh đó “thiếp phụ chàng” là những tiếng của thời đại ông. Tản
Đà viết: “Vàng bay mấy lá năm hồ hết, Hờ hững ai xui thiếp phụ
chàng.” Lại cũng qua đó, ta thấy h́nh ảnh cô Kiều cắt tóc thề bồi
cùng Kim Trọng: “Tóc mây một món chiếc dao vàng.”
Một điều khác, rất đặc sắc và mới lạ của bài thơ của ông là màu sắc.
Khi nói tới màu sắc, thường người ta nói tới không gian: Màu trời,
màu chiều, màu núi sông, thành quách. Đoàn Phú Tứ có cái nh́n đặc
biệt: Ông thấy màu sắc trong thời gian. Đó là màu tím, màu buồn; mà
lại tím ngắt, là tím Huế, tím của thành quách cung đền miếu mạo,
cũng có thể là màu của cung A Pḥng nữa chăng, nên nó lại càng buồn
hơn.
Đọc bài thơ nầy của ông, người đọc cảm thấy buồn, nhưng cái cảm nhận
ấy, không phải ở món tóc cắt thề nguyền, không phải v́ “cung lạnh”,
không phải “t́nh trăm năm không vẹn”, mà chính ở màu thời gian buồn
bă do ông vẽ ra trước mắt người đọc, trong trí tưởng của người đọc.
Màu thời gian đó, cộng hưởng với hương thời gian, hai thứ quyện lẫn
vào nhau, đan chéo vào nhau và đem lại cho người đọc một nỗi buồn
nhẹ nhàng mà sâu lắng vô cùng.
Trong chiến tranh chống Pháp, phần đông những người theo kháng chiến
c̣n ít nhiều bản chất tiểu tư sản, ít người không biết tới bài thơ
“Màu Tín Hoa Sim” của Hữu Loan. Mặc dù lúc bấy giờ, chính quyền Việt
đă có lệnh cấm và lưu giữ bài thơ nầy, nhưng hầu hết trong ba lô
những người nói trên, trong sổ tay họ đều có bài thơ nầy:
Màu tím hoa sim
Hữu Loan
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đ́nh
Yêu nàng như t́nh yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đ̣i may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi ḿnh không về
th́ thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc b́nh hoa ngày cưới
thành b́nh hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một ḿnh đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nh́n ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô t́nh hay ác ư với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nh́n áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím t́nh trang lệ rớm
Tím t́nh ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi với vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
Nội dung bài thơ là một câu chuyện thật, diễn tả tâm trạng một người
đi bộ đội. Anh ta và người vợ yêu nhau tha thiết, đám cưới đơn sơ v́
chiến tranh, v́ hoàn cảnh, nhưng rồi họ xa nhau rất sớm. Người chồng
lên đường v́ nhiệm vụ, người vợ ở lại quê nhà và mất sớm. Thay v́
người lính “sợ khi ḿnh không về, th́ thương người vợ chờ…” th́ lại
“chết người em nhỏ hậu phương.”
Tại sao cô ta ở hậu phương mà chết sớm? Có riêng ǵ một trường hợp
người vợ trẻ của Hữu Loan chết đuối mà trong cuộc chiến tàn bạo xảy
ra 30 năm trên dăi đất Việt Nam, có biết bao nhiêu nghịch cảnh. Cuộc
chiến nầy là cuộc chiến nhân dân, người ở bên nầy hay bên kia, dù
hậu phương cũng dễ chết không kém ǵ người ở tiền tuyến: Máy bay
oanh tạc, pháo kích bừa băi, bị bắt dân công cực khổ, đói rách bệnh
tật, chết chóc, nhất là các dân công chiến trường…
Nội dung bài thơ là một tâm t́nh đau đớn của những người đi trong
chiến tranh, sống trong chiến tranh và tồn tại trong chiến tranh.
Chính những kẻ sống sót và tồn tại trong chiến tranh, chính là những
người mang một tâm trạng đau đớn nhất v́ những mất mát, chia ly, đói
khổ và tù đày.
Trước năm 1954, những người ở vùng quốc gia ít ai biết bài thơ nầy.
Năm 1957, trên tuần báo Mùa Lúa Mới xuất bản ở Huế, Đỗ Tấn giới
thiệu bài thơ nầy với độc giả miền Nam vĩ tuyến 17. Thế rồi qua báo
chí, bài thơ được phổ biến ở Sài g̣n, nhiều người thích thú, đọc, in
lại, chép lại và trao cho nhau. Dũng Chinh là người đầu tiên phổ
nhạc bài thơ nầy, dưới tiêu đề “Những Đồi Hoa Sim” và “Con Nhạn
Trắng G̣ Công” đă truyền thụ những cảm xúc về thân phận người Việt
Nam trong chiến tranh bằng giọng hát của cô trên khắp miền Nam và ra
tới miền Bắc. Vào Nam, không ít cán bô, bộ đội miền Bắc, t́m nghe
cho được tiếng hát Phương Dung qua bản “Những Đồi Hoa Sim” của Dũng
Chinh.
Dũng Chinh tốt nghiệp khóa 26 (hay 27 Thủ Đức?) và hy sinh ở đồi
Peatrice ở Phan Thiết chỉ mấy tháng sau khi tốt nghiệp, khi mới 28
tuổi. J. Leiba có câu thơ “Người đẹp thường hay chết yểu, Thi nhân
đầu bạc sớm hơn ai.” Trong trường hợp nầy, thi nhân lại là một nhạc
sĩ tài hoa.
(Phạm Duy cũng có phổ nhạc bài thơ nầy, lời ca của ông sát với bài
thơ của Hữu Loan hơn, nhưng không được phổ biến bằng bài hát của
Dũng Chinh).
Câu chuyện t́nh tuy đơn giản, nhưng lời thơ th́ rất hay, được đánh
giá là một trong những bài thơ t́nh hay nhứt thi ca Việt Nam hiện
đại.
Mở đầu bài thơ, tác giả giới thiệu gia đ́nh người vợ của ông: Thời
chinh chiến, cả ba người anh trai đều tham gia bộ đội, trong khi đó,
người vợ ông c̣n có những em quá nhỏ (chưa biết nói). Cô cũng vừa
mới lớn (tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đầy búi). Đám cưới hai người
rất đơn giản: tác giả là người lính Vệ Quốc Đoàn, xa gia đ́nh. Cô
gái th́ “không đ̣i may áo cưới” v́ biết gia đ́nh người chồng nghèo.
Người chồng cũng chỉ có bộ “đồ quân nhân”, và cũng là người độc đáo:
trẻ, đang làm nhiệm vụ của người con trai trong cơn khói lửa và biết
làm thơ. Anh ta bê bối hay lười biếng độc đáo đến độ đôi giày đinh
không lau sạch, c̣n “bết đất hành quân.”
Một điều đáng buồn hơn: họ không có tuần trăng mật, “cưới xong là
đi” ra chiến trường.
Bài thơ nầy có nhiều h́nh ảnh đặc biệt: Màu hoa sim tím buồn bă và
cảnh u tối của ngôi mộ trong bóng chiều hôm: “Má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối.” Và một h́nh ảnh khác, không những buồn bă mà c̣n là
nghèo khổ, nghèo đến độ không mua nỗi một bát nhang, dùng cái b́nh
hoa ngày cưới để biểu tượng cho người đă chết, một b́nh hoa có nhiều
tàn hương lạnh chung quanh chưa kịp quét: “Chiếc b́nh hoa ngày cưới,
thành b́nh hương tàn lạnh vậy quanh”.
Ư tưởng hay và h́nh ảnh đẹp nhất trong bài thơ chính là cảnh “chiều
hoang biền biệt!”
“Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt!”
Buổi chiều, người lính đi qua những đồi hoa sim, với một nỗi buồn da
diết, hết “thương người vợ chờ” th́ nay lại “tôi về không gặp nàng,
má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”.
Có ai từng đi qua những vùng đồi hoang gần chân núi Trường Sơn ở
miền Trung nước Việt mới thấy những ngọn đồi thoai thoải chập chùng,
kéo dài đến bất tận. Đi trong cảnh trời chiều lặng lẽ ấy, người ta
dễ cảm nhận hết nỗi buồn của nguời xa quê. Đó là những ngọn đồi
hoang, với rừng cây hoang, phần nhiều là cây sim dại, cây mua dại.
Cây mua và cây sim đều có hoa mầu tím như nhau, khác chỉ là trái mua
không ăn được.
Vùng đồi nầy là vùng cây hoang, nên tác giả mới gọi là chiều hoang.
Tiếng hoang nầy là danh từ Hán-Việt, có nhiều nghĩa, vừa là cây cối
mọc hoang, không ai trồng, không ai chăm sóc, vừa có nghĩa là mênh
mông, xa tít mù khơi tới tận chân trời. Cây mọc hoang ở đây là cây
sim, đến mùa hoa nở th́ màu tím trùm khắp cả ngọn đồi, từ đồi nầy
qua đồi khác. Màu hoa sim lan xa măi, trải dài ra măi, đi biền biệt
tới cuối chân trời. V́ vậy, tác giả nhắc đi nhắc lại những mấy lần
câu “những đồi hoa sim”:
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím là mầu buồn, nhưng không hẵn mầu ấy không nhắc người lính
nhớ tới một kỷ niệm, một h́nh ảnh.
Những người con gái thường thích mặc áo mầu tím. Mầu tím phản ảnh
với nước da trắng làm cho các cô trắng thêm. Hơn thế nữa, nó là mầu
của tuổi biết yêu, đă có t́nh yêu, đă có cá tính riêng hay có một kỹ
niệm, một tâm sự.
Sài g̣n náo nhiệt, h́nh như mầu tím ch́m đi trong cái náo nhiệt và
ồn ào của thủ đô miền Nam, chiếc áo tím ch́m đi trong muôn vàn màu
sắc rực rỡ. Huế th́ trái lại. Cùng với hoàng thành âm u, với ḍng
sông chảy chầm chậm, ngập ngừng với phố xá không quá đông đúc, chiếc
áo tím của các cô gái Huế nổi bật lên, khiến người ta không chú ư
không được.
Hoa tím có nhiều loại: Hoa sim, hoa mua, hoa cà, hoa khoai lang, hoa
sầu đông. Hoa sim, hoa cà ít có mùi hương; hoa sầu đông hương thơm
ngào ngạt…
Người miền quê ưa mặc áo tím hoa cà, đậm hơn một chút người ta chọn
mầu hoa sim. Các cô gái Huế, không hiểu có phải chịu ảnh hưởng màu
tử cấm thành, mầu hoàng thành mà chọn mầu tím đậm, mầu tím than,
Nguyễn Bính gọi là “Tím Huế”.
Trời chiều mầu tím làm cho nhạc sĩ Đan Thọ xúc cảm mà phổ thơ bài
Chiều Tím của Đinh Hùng, “Ngàn Thu Áo Tím” của Hoàng Trọng, hoặc câu
chuyện một cô gái thích mặc áo tím đi dạo phố mà thành “Ngàn Thu Áo
Tím”, của Hoàng Trọng, “Tà Áo Tím” của Hoàng Nguyên hoặc Văn Quang
v́ yêu “Chân Trời Tím” nên viết cuốn sách cùng tên.
Đó là “Mầu Kỷ Niệm” của Nguyên Sa được Phạm Đ́nh Chương phổ thành
nhạc. Người học tṛ viết thư bằng mực tím, nhưng pha mực cho đậm hơn
chút nữa cho “vừa mầu nhớ thương!
Trở lại câu chuyện t́nh của Hữu Loan. Liệu ông ta có chung thủy với
người vợ mới qua đời?
Nếu quả thật ông giữ ḷng nguyên vẹn trước sau, th́ tại sao trong
cảnh trời mầu tím buồn thảm của một buổi chiều mênh mông, ông ta lại
có thể hát một câu ca dao lẵng lơ, nguời ta tưởng như ông đă quên
người vợ trẻ quá có rồi:
“Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu,
Áo anh sứt chỉ đă lâu…
Nhờ em tốt bụng em khâu giúp rồi
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đă lâu
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Ít nữa lấy chồng anh sẽ giúp cho
Giúp em một thúng xôi ṿ
Một con lợn béo lại đèo buồng cau
Giúp em đôi chiếu em nằm,
Một con lợn béo, một ṿ rượu tăm
hoànglonghải
------------ --------- --------- --------- -----
Màu Kỷ Niệm
Nhạc: Phạm Đ́nh Chương
Lời thơ: Nguyên Sa
Nhớ ngày nào tan trường về chung lối
Mắt thuyền sương, nghiêng nón ngất ngây đời
Ḷng trao ḷng cho t́nh vút lên khơi,
Cho ngon màu tŕu mến ướt lên môi
Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường.
Sợ thư t́nh không đủ nghĩa yêu đương.
Anh pha mực cho vừa màu luyến thương.
Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa,
Thấy sắc hoa tươi nên mơ màu áo năm xưa
Kỷ niệm đâu len lén trở về tâm tư,
Có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ
Hẹn ngày mai khi tan giặc sẽ cùng nhau
Góp hết hoa thơm chung tay xây kết mộng đầu
Trời thần tiên đôi bướm nhịp nhàng lả lơi,
Nương cánh nhau đi xa hơn cả cuộc đời
Ôi màu hoa, màu thương nhớ.
Rồi một ngày kia em khoe áo mới xanh hơn mây
trời.
Hai đứa chung vui khi xuân vừa tới thơ ngây cuộc đời.
Tṛ chơi trẻ con em cô dâu mới chưa nghe nặng sầu.
Chú rể ngân ngơ ra hái hoa cà làm quà cưới cô dâu.
Mười mấy năm qua khi hoa vừa hé
nhụy th́ đời trai vui chinh chiến
Anh xuôi miền xa bao lần đếm bước xuân qua
Anh ơi, kỷ niệm xưa em c̣n giữ măi trong ḷng
Em biết không em, xuân lại trở về,
đường rừng chiều hoang sương xuống.
Thương sao là thương trong màu tím sắc hoa xưa ...
Dĩ văng đâu trôi về nhắc ta ngày xưa.
Ngàn Thu Áo Tím
Nhạc và Lời: Vĩnh Phúc và Hoàng Trọng
Ngày xưa xa xôi, em rất yêu màu tím.
Ngày xưa vô tư, em sống trong tŕu mến.
Chiều xuống, áo tím thường thướt tha,
Bước trên đường gấm hoa, ngắm mây chiều thướt tha.
Từ khi yêu anh, anh bắt xa màu tím.
Sầu thương cho em, mơ ước chưa kịp đến.
Trời đă rét mướt, cùng gió mưa,
Khóc anh chiều tiễn đưa, thế thôi tàn giấc mơ !!!
Điệp khúc :
Anh xa xôi, bóng mưa giăng mờ lối,
Anh xa xôi, áo bay trong chiều rơi,
Anh xa xôi, áo ôm tim lẻ loi,
Tím lên khung trời nhớ nhung đầy vơi.
Mưa rơi rơi, bóng anh như làn khói,
Mưa rơi rơi, bóng anh xa ngàn khơi,
Mưa rơi rơi, có hay chăng ḷng tôi,
Có hay bao giờ bóng người yêu tới !!?
Từ khi xa anh, em vẫn yêu và nhớ,
Mà sao anh đi, đi măi không về nữa ???
Một bóng áo tím buồn ngẩn ngơ,
Ước trong chiều gió mưa, khóc thương h́nh bóng xưa.
Ngàn thu mưa rơi, trên áo em màu tím.
Ngàn thu đau thương, vương áo em màu tím.
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau,
Tháng năm c̣n lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Tháng năm c̣n lướt mau, biết bao giờ thấy nhau ?
Chiều Tím
Sáng tác: Đan Thọ, Đinh Hùng
Lời: Đinh Hùng
Nhạc: Đan Thọ
Chiều tím chiều nhớ thương ai, người em tóc dài
Sầu trên phím đàn, t́nh vương không gian
Mây bay quan san, có hay?
Đàn nhớ từng cánh hoa bay, vầng trăng viễn hoài
Màu xanh ước thề, ḍng sông trôi đi
Lúc chia tay c̣n nhớ chăng?
Ai nhớ ... mắt xanh năm nào
Chiều thu soi bóng, nắng chưa phai màu
Kề hai mái đầu nh́n mây tím... nhớ nhau...
Chiều tím chiều nhớ thương ai, c̣n thương nhớ hoài
Đàn ơi nhắn dùm người đi phương nao
Nếp chinh bào biếc ánh sao...
Từ đấy đàn nhớ thanh âm chùng dây vỹ cầm
Người xa vắng rồi chiều sang em ơi!
Thương ai hoa rơi lá rơi...
Người ấy ḷng hướng trăng sao, hồn say chiến bào
T́m trong tiếng đàn... mùi hương chưa phai
Ư giao ḥa người nhớ chăng?
Mây gió... bốn phương giăng hàng
Mùa thu thêu áo nét hoa mơ màng
Và em với chàng kề vai áo... vấn vương
Chiều hỡi! Đàn nhớ mong nhau, t́nh thương bắc cầu
Người đi hướng nào? T́m trong chiêm bao
Tóc bay dài, gió viễn khơi
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại