Duy Hưng Trần Nhật Tuyên
Từ nhiều năm nay, cứ mỗi lần Tềt đến thì làng báo Việt Nam lại có
những bài viết về các con vật tượng trưng cho địa chi của năm mới.
Tuy nhiên, chưa thấy có ai giải thích tại sao năm Tý lại là con
chuột, năm Dần lại là con cọp, … Đặc biệt là năm nay - năm Mão,
không ai lý giải tại sao người Việt lại nói năm Mão là năm con mèo
mà người Tàu thì cho là năm con thỏ.
Người Tàu thì luôn cho rằng văn hoá Đông Á cổ là văn hoá Tàu nên con
thỏ mới đúng, người Việt thì nói rằng Mão và mèo gần đồng âm với
nhau nên Mão phải là con mèo mới đúng. Thực hư ra sao? Con nào thì
đúng, con nào thì sai? Ai phải, ai trái?
Giữa người Việt và người Tàu có một thứ chữ chung là chữ Nho 儒, thứ
chữ của người đi học, chữ cần dùng hàng ngày, mà người Tàu gọi là
Hoa văn hay là Hán văn. Nếu người Việt căn cứ vào thứ chữ viết theo
lối La-tinh còn người Tàu căn cứ vào chữ Hán thì sẽ không có cùng
một cơ sở để tranh luận đưọc. Thế nên xin dùng cái chung này để giải
quyết tranh chấp giữa hai bên Tàu-Việt về con mèo hay con thỏ. Vấn
đề gọi là chữ Nho hay chữ Hán thì chúng tôi xin bàn lại trong một
bài khác, nay xin tạm gọi là chữ Nho. Và, dù gọi là chữ Nho hay chữ
Hán thì chữ Mão nghĩa là năm Mão cũng được viết bằng môt trong hai
cách:
- Cách thứ nhất là viết với bộ Tiết 卯. Hầu hết sách vở hiện nay viết
cách này và hầu hết mọi người cũng chỉ biết chữ Mão này.
- Cách thứ hai viết với bộ Hộ 戼 . Cách này chỉ thấy ghi trong Hán
Việt Tự Điển của Thiều Chửu (nhà xuất bản TP HCM, bản in tháng
3/1999, trang 222) còn những quyển như Hoa Việt Tân Từ Điển (Lý văn
Hùng, nhà Xuất bản Vĩnh Hoa, Hương Cảng, bản in 1971, và Từ Điển Hán
Việt – Hán ngữ cổ đại và hiện đại (Trần Văn Chánh, nhà xuất bản Trẻ,
bản in quý 1/2005) đều không thấy ghi .
Bản Thiều Chửu ghi chú: 戼 nguyên là chữ 卯
Như vậy, chữ mão viết với bộ Hộ và chữ mão viết với bộ tiết là hai
chữ có cùng nghĩa chỉ khác nhau cách viết. Tôi cho rằng chữ 戼 phải
có trước, sau mới đổi lại thành 卯 viết với bộ Tiết, vì hiện nay
người ta dùng cách viết với bộ tiết này. Chính vì cái chuyện đổi
cách viết này mà việc tranh cãi con mèo và con thỏ không có kết
luận. Ai đã đổi cách viết và tại sao thì xin được bàn trong một bài
khác, nay chỉ xin nói đến chữ Mão trước.
Tiết 卩là cách viết tắt của 節 có nghĩa là đốt tre, nhịp, … thế nhưng
đốt tre hay nhịp có dính dáng gì đến con mèo hay con thỏ gì không
thì không thấy ai giải thích. Các từ điển đều ghi Mão 卯 là: Chi thứ
tư trong mười hai chi; từ năm giờ sang đến bảy giờ sang là giờ mão.
Hán Việt Tự Điển ghi thêm các chữ: điểm mão (gọi tên), ứng mão (trả
lời khi được gọi)
Hoa Việt Tân Từ Điển ghi: mão nhi (món đồ hình méo)
Từ Điển Hán Việt ghi: mão chuẩn (mộng âm và mộng dương trong nghề
mộc)
Hộ 戶có nghĩa là cửa ngõ, cái ngăn (Thiều Chửu), cánh cửa (Lý Văn
Hùng), cửa (Trần Văn Chánh). Tại sao Mão lại viết với bộ Hộ?
Chữ viết thuở sơ khai là những hình vẽ hay ký hiệu dùng để ghi lại ý
nghĩ hay nhận xét của con người về những gì có hoặc xảy ra chung
quanh. Chữ nho cũng vậy. Thoạt đầu, đó là những ký hiệu ghi lại hình
ảnh của các thứ xuất hiện chung quanh con người, rồi dần dần đi đến
diễn tả âm thanh, ý tưởng bằng cách ghép các ký hiệu này lại với
nhau.
Đầu tiên, người ta dùng vòng tròn có tia sáng chiếu ra để chỉ mặt
trời ☼ rồi đơn giản hoá đi biến thành 日tức là chữ nhật. Để chỉ mặt
trăng người ta cũng vẽ gần giống như vậy để phân biệt Ͽ rồi sau đó
mới biến thành 月 tức là chữ nguyệt. Chính vì vậy chữ mão 戼 viết với
bộ Hộ nghiã là mặt trời và mặt trăng đang ở cửa ngõ, hay là mặt trời
và mặt trăng đang đi ra đi vào cũng thế. Xếp chữ mão vào bộ tiết tôi
cho là không chính xác vì xem kỹ thì chữ mão 卯 cũng là hình vẽ của
hai vật trái hướng nhau mà ra.
Ta hãy xem lại chữ mão chuẩn 卯 榫 : mộng và ngàm âm dương trong nghề
mộc. Như vậy, rõ ràng chữ mão chỉ âm và dương, hay mặt trăng và mặt
trời, ở cùng một chỗ hay cùng một lúc. Nói cách khác, mão cũng có
nghĩa là không tối mà cũng chưa sáng, ta gọi là tranh tối tranh
sáng, bảo là tối thì không phải mà bảo là sáng cũng không đúng, chưa
có gì rõ rệt.
Trong tiếng Việt, chữ mão còn thấy trong cách nói của những người
làm vườn: mua mão, bán mão. Một người buôn trái cây đến nhà vườn để
mua thì người ta không đến vào lúc trái cây đã chin hay là lúc cây
chưa ra hoa, mà người ta đến vào lúc hoa đã bắt đầu ra thành trái
non và đặt mua tất cả trái cây trong vườn dù chưa biết đích xác số
lượng trái cây sẽ thu hoạch ra sao, lối mua này gọi là mua mão, và
lối bán này gọi là bán mão. Như vậy, mão cũng chỉ một việc gì chưa
xác định.
Tự điển Thiều Chửu trang 545 có ghi chữ lữu 茆 là rau lữu, có một âm
là mao đồng nghĩa với mao 茅 là cỏ tranh. Rau lữu là rau gì thì tôi
chưa bao giờ nghe nói đến, xin các bậc cao minh chỉ giáo. Chữ mao là
cỏ tranh thì dễ nhận ra vì nó viết với bộ thảo 艹 chỉ các loại cỏ, và
chữ mâu 矛 nghĩa là cái giáo (gươm giáo). Cỏ tranh có lá nhọn như cái
giáo thì ai cũng biết. Chữ cỏ mao茆 viết với bộ thảo và chữ mão rõ
ràng chỉ một loại cỏ mọc khác với cỏ tranh.
Từ điển Hán Việt của Trần Văn Chánh ghi chú chữ lữu này là Brasenia
schreberi. Nếu đúng như vậy thì đây là một loại bông súng (gần giống
sen) và nếu ghi rằng chữ này đồng nghĩa với chữ mao là cỏ tranh thì
tôi cho là không đúng.
Theo Đại-Thanh Nhất Thống Chí (tức bộ sách địa-dư của Trung-quốc
dưới đời nhà Thanh), ở biên giới Lĩnh Nam và nhà Hán có núi Phân-Mao
(Phân Mao Lĩnh) ở động Cổ-Sâm, cách Khâm-Châu khoảng 3 dặm về phía
tây. Tương-truyền trên đỉnh núi Phân-Mao có thứ cỏ mà ngọn ngả theo
hai hướng Bắc và Nam cho nên mới có tên gọi là núi Phân-Mao, nếu như
vậy thì loại cỏ này ph ải gọi là mao và viết bằng chữ mao 茆 mới
đúng, bởi vì nó viết bằng chữ mão 卯chỉ hai vật quay về hai hướng
khác nhau và bộ thảo 艹, chứ không thể viết chữ mao 茅 là cỏ tranh.
Người Tàu đã tìm cách phá huỷ và thay đổi rất nhiều chi tiết trong
các sách vở để bôi xóa chứng tích xâm lược của họ đối với Bách Việt
nên rất có thể họ đã ghi chữ mao 茅 thay vì mao 茆 khi nói đến núi
Phân Mao [1]. Dù thế nào đi chăng nữa, ta có thể thấy rằng thật sự
có một loại cỏ mọc về hai hướng khác nhau và có một chữ mao viết với
chữ mão và bộ thảo.
Người Việt cũng gọi năm mão là năm mẹo. Chữ mẹo ta có thể nghe trong
mưu mẹo, đố mẹo, mẹo vặt,…
Mưu mẹo hay mưu mô thường được dùng như nhau. Chữ mưu 謀 do chữ ngôn
訁(có nghĩa là lời nói) và chữ mỗ 某 (có nghĩa là nào đó, đâu đó, gì
đó [2]) ghép lại. Chữ mô, trong mưu mô mà người việt hay nói, khi
qua chữ nho thì ý nghĩa khác đi. Mô 謨 mà người Tàu viết trong mưu mô
là chữ ghép từ chữ ngôn 訁(lời nói) và chữ mạc 莫 (nghĩa là không,
chớ, chẳng, như chữ mạc trong câu thơ “tuý ngọa sa trường quân mạc
tiếu” [3] vậy ). Mô 謨 được dịch nghĩa là mưu định hẳn rồi (Thiều
Chửu). Xem ra cách giải thích này không có lý gì mấy. Tại sao chớ
cộng với nói mà lại thành mưu định sẵn? Chúng tôi nghỉ rằng phải
dịch là mưu không nói rõ ra được, hay là không giải thích rõ ràng
được thì đúng hơn.
Nhân đây xin mở một dấu ngoặc để nóì qua về chữ mỗ 某 . Chữ mỗ này,
theo tôi, chính ra phải đọc là mô. Nó là một từ tiếng Việt mà nay ta
vẫn thấy người Huế hay dùng như: Đi mô rứa, mô nà, biết chi mô,...
Chữ mô ở đây diễn tả một điều chưa chắc chắn, một điều người ta
không biết rõ. Như vậy mưu là những tính toán có thể nói rõ ra được,
còn mô là những gì chưa thể nói ra được. Chính vì vậy nên mưu mô và
mưu mẹo mới được dùng giống nhau. Và như vậy mưu mẹo có nghĩa là một
cái mưu không chính thức, đố mẹo là câu đố mà người ta phải suy nghĩ
một cách không bình thường một chút, mẹo cũng là cách để giải quyết
một vấn đề gì đó bằng một cách không chính thức. Bảo đúng thì không
đúng mà bảo sai cũng không sai.
Như vậy, xin nhắc lại, mão có nghĩa là lúc tranh tối tranh sáng,
chưa sáng mà cũng không tối. Chính vì vậy nên Mão mới (xung) đối với
Dậu. Chúng tôi sẽ xin bàn đến Dậu trong một bài khác để làm rõ
chuyện này.
Thế tại sao mão lại là con mèo?
Như đã nói ở trên, chữ nho là thứ chữ của người ta cần dùng hàng
ngày. Nó được ghép bởi chữ nhân 亻 nghĩa là người, và nhu 需 nghĩa là
thứ cần dùng. Chữ nho tương đối rắc rối và cần phải học mất thời
giờ. Trong khi đó thì người nông dân, vốn là đa số rất lớn trong xã
hội thời cổ, không có thời giờ và cơ hội để học, và do đó không biết
chữ. Khi làm lịch để giúp cho người nông dân có thể hiểu được, cách
dễ nhất là tượng hình, dùng hình ảnh để diễn tả. Ngay trong thế giới
hiện đại, khi dạy ngôn ngữ người ta vẫn dùng hình ảnh minh hoạ để
người học dễ hiểu và hiểu nhanh hơn.
Chính vì vậy, từ chữ mão hay mẹo người ta liên tưởng đến miêu (猫
hoặc 貓) tức là con mèo bởi vì mấy chữ này gần vần với nhau. Vẽ hình
một con mèo thì dễ nhớ hơn là viết chữ mão. Từ đó, năm Mão thành năm
con mèo.
Tại sao người Tàu lại vẽ con thỏ?
Chữ Thỏ 兔 còn được đọc là thố. Tự điển Hán Việt của Thiếu Chửu ghi
âm thỏ. Chúng tôi tạm dùng âm thỏ để người đọc dễ theo dõi.
Chữ thỏ 兔 chỉ viết khác chữ miễn 免 (nghĩa là: từ bỏ, mất) có một cái
chấm. Trong chữ nho có rất nhiều chữ viết bằng chữ thỏ này cộng với
một chữ khác. Ví dụ: miễn 堍 tức là cái vệ cầu, cái mố cầu; oan 冤 có
khi viết là oan 寃 nghĩa là oan ức. Nhiều chữ viết với chữ miễn cũng
đọc với âm miễn (ví dụ: 俛 hay 勉) hoặc vãn (ví dụ: 娩 hay 晚). Ngoại
trừ chữ thỏ (thố) 菟 trong thố ti tử (giây tơ hồng), không thấy chữ
nào khác ghép chung với chữ thỏ hay chữ miễn đọc với âm ỏ, ố, hoặc
thỏ, thố, cả. Và, những chữ này không có vẻ gì dính dáng đến hay vần
với chữ mão cả.
Như vậy, năm Mão phải là năm con mèo thì hợp lý hơn. Nói tóm lại,
chữ mão hay mẹo thuộc chữ Nôm, thứ chữ hay cách ghi lại tiếng nói
của người nước Nam, phương Nam, không phải của người phương Bắc, tức
là người Tàu [4].
Khi vẽ con thỏ thay vì con mèo, có lẽ người ta muốn xoá dấu vết của
các chủ nhân đích thực của thập nhị địa chi. Vì không hiểu tại sao
các con vật khác nhau lại được đem vào để chỉ địa chi nên người đánh
tráo mới lấy những con vật của các dân tộc nông nghiệp thay bằng
những con vật gần gũi với dân tộc săn bắn. Trong mười hai địa chi có
bốn bị thay đổi là năm Sửu (con bò thay vì con trâu), Mão (con thỏ
thay vì con mèo), năm Mùi (con cừu thay vì con dê), và năm Hợi (con
heo rừng thay vì heo nhà).
Tại sao chúng tôi nói là đánh tráo? Bởi vì nếu xem xét kỹ mười hai
địa chi người ta sẽ dễ dàng thấy rằng tên gọi của các địa chi Tý,
Sửu, Dần, Mẹo, …, và các con vật tượng hình của các địa chi này, gần
với cách nói của người Việt hơn người Hán rât nhiều.
Chú thích:
[1] Nhà Thanh, đời Càn Long, đã cho thu thập sách vở để soạn Tứ Khố
Toàn Thư và các thư tịch khác như Tử Vi Đại Toàn, đồng thời ra lệnh
huỷ tất cả các sách vở khác không được triều đình cho phép. Nhà Minh
khi sang xâm lược và đô hộ Đại Việt đã chở các sách vở trong thư khố
của triều đình Đại Việt về Tàu, đồng thời tiêu huỷ các sách vở khác.
Ngay từ đời Tần Thuỷ hoàng, việc đốt sách chon học trò (phần thư
khanh nho) đã bắt đầu tiến hành, đời hán cũng thế.
[2]: Ví dụ như mỗ ông 某 翁 , người Việt nói là ông mỗ nghĩa là một
ông nào đó; mỗ sự 某𠄙 người Việt nói là việc mỗ nghĩa là việc gì đó,
việc nào đó. Người Việt ở Huế thì nói ông mô? bà mô?chi mô? Chính vì
vậy chúng tôi mới cho rằng chữ mỗ phải đọc là mô mới đúng.
[3] Một câu trong bài thơ Lương Châu Từ của Vương Hàn (687-726) có
nghĩa là “anh chớ cười người say nằm giữa sa trường” .
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
[4] Chúng tôi sẽ bàn về “Người Hoa, người Hán, và người Tàu” trong
một bài khác, để tìm hiểu tại sao lại gọi là người Hán, người Tàu.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện tình trái
ngang
Khối diễn hành
Bãi tập
Lễ mãn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
Tình Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
Vì hai chữ Tự Do
Nghìn trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào lòng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển bão tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vuì quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giã từ
vũ khí
Mối tình đầu
Tình lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện tình
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc tình
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người còn
nhớ hay người đã quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nhìn Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
BÌNH-TUY,
những ngày cuối cùng...
Tình Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và hòa bình
Tây
Ninh, chút còn lại trong lòng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi dòng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Trìu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Bão Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một dòng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện tình của một
Phi Công
Hai vì sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người tình
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái Bình Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Ðội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện tình
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
Tìm
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Gãy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ Hình Của Chính Mình
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy còn
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Dòng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Hòa qua những tình khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn còn đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hãy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương tình
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những giòng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư tình của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nhìn được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư tình
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời còn dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba dòng nước mắt
Những xác chết trên mãnh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính gãy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện tình khoai lang
Tâm tình
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm tình
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xã đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi tìm Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất tình
Dấu "Hỏi Ngã"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ý yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
Tình... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ tình
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi dòng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi tìm tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hãy giúp tôi
Con còn nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ tình
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà nòi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái tình
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ còn một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một mình
Hãy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Hòa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc tình
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nhìn những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời còn vui vì có
chút tòm tem
Đôi mắt Phượng
Ngưòi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
Tình già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân tình
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài vòng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
Tình người
Hồi ký của một người Hà
Nội
Tình nghĩa, nghĩa tình
Đôi đũa
Giòng đời... và hồi âm
giòng đời...
Không cho phép mình
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
Tình ngây dại