Quê hương ruồng bỏ

Lê Tấn Lộc

Sổ tay hành tŕnh (III)

Quê hương ruồng bỏ…
Quê nhà xa lắc xa lơ đó,
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay.


Tân th́ thầm trong màn đêm giả tạo qua chiếc mặt nạ che mắt, sau bữa ăn tối với hương vị rượu đỏ nồng ấm c̣n đọng trên môi, trên chuyến bay rời Xứ Tuyết về hướng thành phố mà một thời, rất thương yêu, Tân đă gắn thêm cụm từ “của những cuộc t́nh” vào tên gọi Ḥn Ngọc Viễn Đông (Saigon de mes amours), sau khi bỏ lại sau lưng trong ray rứt nuối tiếc “Paris của những mộng mơ” (Paris de mes rêves):

Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ,
Quay về xem non nước giống dân Hời.

Sàig̣n, 20.2.2003

Sàig̣n ơi! Anh trở về thăm em sau hai mươi ba năm biệt xứ …

Bước xuống phi trường Tân Sơn Nhứt, cái nóng hỏa ḷ hắt mạnh vào mặt khiến tôi hoa mắt, lảo đảo. Những nắng là nắng: nắng chói chang, nắng đổ lửa, nắng thiêu đốt! Hai mươi tám năm về trước, cũng cái nắng cháy da, cái nắng bốc khói như thế nầy đă thuộc da, đă thui sống tôi và đồng bạn “cải tạo” đang h́ hục c̣ng lưng dùng tay trần cào xới sỏi đá để “canh tác”, dưới sự thúc ép nghiệt ngă của bọn quản ngục.

Tôi về lại chi mảnh đất ngàn đời thương khó nầy? Chắc hẳn không thể như “quan trạng vinh qui về làng” được rồi: So với nếp sống phồn vinh của bè bạn, hàng xóm láng giềng hiện nay, “Việt kiều nghèo” tôi khác chi phường khố rách áo ôm? Cũng chẳng phải để hí hửng làm “Việt kiều du lịch kiểu du khách ngoại quốc trên đất nước của ḿnh”: tôi không đủ sức mà cũng không thấy hứng thú.

T́nh thật, tôi chẳng chút chi “hồ hởi” về thăm một quê hương triền miền khốn khổ mà ḿnh đă đoạn đành ĺa xa, bỏ mặc, quên lăng. Chỉ v́ bà chị duy nhất của tôi hấp hối, muốn thấy mặt thằng em chị đă bồng ẵm, chăm sóc thay mẹ đau yếu đến phải bỏ dở con đường học vấn -vốn hứa hẹn nhiều thành quả rực rỡ- mà tôi đành múi mặt đối diện tại phi cảng với đám hung thần đă đày đọa, trù đập chí cốt các bạn đồng cảnh ngộ bi phẩn với tôi…

Động lực thúc đẩy khác cũng không kém phần quan trọng là do tôi nuôi hi vọng gặp lại vài thằng bạn đă từng chia cơm xẻ áo, cùng hứng chịu nhục nhằn trong ḷ cải tạo năm nào. Thử xem chúng nó sống c̣n ra sao. Nhứt là muốn t́m dấu một vài đồng nghiệp “gơ đầu trẻ” hiếm hoi c̣n sót lại ở quê nhà, cùng các cựu môn sinh của tôi, hiện rải rác khắp nơi.

Nhưng…làm sao ḍ t́m những bóng dáng thân thương nầy trên những đường phố thơ mộng, chan chứa ân t́nh xa xưa -những “con đường xưa em đi”- giờ đây đă hoàn toàn biến thể dưới hàng hàng lớp lớp cao ốc sừng sững hai bên đường, che lấp hết ánh mặt trời… Đường phồ Sàig̣n bưng bít gió, Tôi biết nơi nào gửi nhớ thương!

Hoàn toàn lạc hướng giữa chốn phồn hoa đô thị xa lạ, tôi chỉ c̣n biết nhắm mắt mơ hồ ngỡ như nhận ra dáng dấp thân quen của những đứa bạn từng sống chết có nhau, huyền ảo như bóng “muôn ma Hời” thoáng hiện về lung linh trong “Điêu tàn”…

Gia Định, 21.2.2003

Con đường Hàng Xanh, cạnh Ngă tư xa lộ Biên Ḥa, hoàn toàn lột xác. Con đường đầy tang tóc máu lửa xưa kia giờ đây thay h́nh đổi dạng thành khu phố sầm uất, bán buôn ́ xèo, xe cộ như mắc cửi, chiếm hết mặt lộ và “xử lư” luôn cả hai lề đường. Tiếng động cơ chát chúa, tiếng đôi co tru tréo ầm ĩ nghe như tiếng súng nổ rền vang, tiếng kêu la thảm thiết của vô số người bị trọng thương, nằm la liệt bên cạnh hàng đống xác chết đă bắt đầu trương rữa, hôm Tết Mậu Thân… Làm sao mà quên được:

Đây chiến địa, nơi đôi bên giao trận,
Muôn cô hồn tử sĩ thét gầm vang…

Căn nhà thờ Hàng Xanh vách ván, mái tôn lụp xụp năm nào vừa làm trạm cứu thương, cứu đói, vừa làm nơi trú ẩn cho nạn nhân chiến cuộc “Mậu Thân” từ các nơi đầy máu lửa Cầu Sơn, B́nh Triệu, G̣ Vấp đổ xô về lánh nạn -đồng thời cũng là nơi tích lũy hàng khối tử thi chưa thể đem đi chôn, được bó chiếu sơ sài hoặc nhét vội vào bốn miếng ván ghép hối hả, gở từ phên vách những ngôi nhà cháy dở dang- giờ đây đă hóa thân thành một ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, bê-tông cốt sắt. Khách thập phương, giáo dân và người bán hàng rong chen chút nhau trong sân trước giáo đường có tường rào kiên cố bảo vệ. Tượng Đức Mẹ trước nhà thờ đă được dời đi nơi khác. Di tích duy nhất c̣n lại để nhắc nhở thời nghèo nàn tang tóc nhưng dồi dào t́nh người của nhà thờ Hàng Xanh xa xưa là tấm plaque cẩm thạch lưu niệm, gắn trên tường, ghi vơn vẹn tên Cha Sở Thomas Trần Lê Vinh, năm sinh và năm mất. Ngắn gọn! Tôi cúi đầu trước di tích buồn tênh đó, đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn vị linh mục đă đóng một vai tṛ trọng yếu trong đời sống tâm linh của tôi sau khi tôi ra tù cải tạo. Và tự hỏi: “Chúa có c̣n ngự trong ngôi thánh đường phồn thịnh nầy chăng? Hay Người đă đến một nơi mà con cái Người đang đau thương, quằn quại, khốn đốn như dân chúng xưa kia trong căn nhà thờ Hàng Xanh ngập tràn tiếng kêu khóc thương xót”?

Thủ Đức, 22.2.2003

Chợ Nhỏ Thủ Đức gần như không thay đổi đáng kề. Cái nóng hâm hấp trong ngôi chợ c̣n giữ được gần nguyên vẹn nếp sinh hoạt trước 1975 không làm tôi ngột ngạt, bởi v́ đó là hơi nóng ấm nồng t́nh người của đồng bào thân quen của tôi. Không xa lạ, không dửng dưng, không kênh kiệu, khinh khỉnh như đám “bào-đồng=cùng-màu-da” ở cửa khẩu nhập cảnh, chực chờ “bào” đồng đô-la của “khúc ruột ngàn dặm” được họ “ban ơn khoan hồng” cho về thăm nơi chôn nhao cắt rún!

Thế nhưng ngôi chợ nhỏ nầy chỉ là một ốc đảo như “khu bảo toàn sinh vật sắp tuyệt chủng” nằm trơ vơ trong đại đương bao la của những biến đổi phi nhiên tính do tập đoàn “dân-tộc-ra-cửa-gặp-ngay-anh-hùng-nhởn-nhơ-đầy-đường-phố” chủ xướng. Qua khỏi khu bảo toàn nầy, “người con về từ phương xa” chẳng c̣n nhận diện được đất đai xứ sở của ḿnh nữa: Cả môt vùng đất mênh mông chung quanh Trường Bộ Binh trước kia giờ đây chẳng c̣n một xẻo đất trống. Nhà cửa xây hỗn loạn, hầu hết là những villa lộng lẫy được bao quanh bởi một ṿng đai tường gạch ngạo nghễ mà cổng vào luôn luôn được một bảng hiệu to tướng, đỏ rực “Doanh trại Quân đội nhân dân” xác định quyền sở hữu bất di dịch, bất khả xâm phạm, cha truyền con nối của đám cư dân “con cưng của chế độ” được nhà nước tận t́nh ưu đăi! Doanh trại tiếp liền doanh trại, liên tục nối dài “xa tít tận chân trời”…Cơ hồ như cả nước, từ Cà Mau đến ải Nam Quan được một dăy Trường-Sơn-Doanh-Trại-Quân-Đội-Nhân-Dân “nối ṿng tay lớn”!

Loanh quanh, ḍ dẫm măi trong đám rừng doanh trại tôi mới t́m ra lối ṃn dẫn tới một vùng chứa rác lộ thiên khổng lồ: vài trăm căn nhà “khiêm tốn” của cư dân bị trục xuất khỏi mấy khu kề cận Trường Bộ Binh mọc lên chung quanh các núi rác. Hai thiếu phụ -một thư kư, một y tá- cựu cộng sự viên ở trường Trung học Trịnh Hoài Đức B́nh Dương đón tôi ở đầu ngơ khu “bàn cờ” tái sinh bất đắc dĩ, cho tôi khỏi mất tích trong mê cung nghèo khó nầy. Đôi bên nh́n nhau, rưng rưng…Muốn choàng ôm nhau nghẹn ngào nhưng…vẫn cứ ngại ngần: Dẫu sao chúng tôi vẫn c̣n chịu ảnh hưởng không khí “cổ kính”, “mô phạm” của cửa Khổng sân Tŕnh thời trước!

Bữa cơm thanh đạm do hai cựu thuộc viên nghèo khó tự tay nấu nướng “chiêu đăi” trưởng cơ quan cũ -cũng chẳng khá giả ǵ lắm- vậy mà vui hết sức! Mùi nylon cháy khét lẹt từ những núi rác không làm ô nhiểm không khí đậm t́nh anh em thân thiết giữa chúng tôi.

- Nầy cô Xuân! Không thấy cô giới thiệu chồng con chi cả.

- Ai mà chịu lấy tôi, hở anh? Vừa nghèo vừa xấu.

- Ai dám bảo cô y tá của tôi xấu? Cô kén chọn quá kỹ chăng? C̣n cô Cang, cậu con trai giờ ra sao rồi? Cô có bước thêm một bước nữa chăng?

- Nhờ anh đỡ đầu lúc nó ra đời nên nó ăn học khá lắm, bây giờ có việc làm vững chắc, rất hiếu thảo. Từ lúc ba nó mất tích ở B́nh Long, tới nay tôi vẫn ở vậy nuôi con. À! Anh c̣n nhớ chú Trầm, tùy phái không? Tội nghiệp, ổng già yếu lại bịnh nặng. Hai ông bà thương anh lắm, nhắc anh hoài…

Làm sao tôi quên được hai vợ chồng người đă hết ḷng ân cần chăm sóc tôi, những ngày đầu tôi nhận trách nhiệm điều khiển trường Trịnh Hoài Đức? Cả ba chúng tôi lặng lẽ thở dài...

- Bé Tám dạy nhạc bây giờ ra sao rồi?

- Anh nhắc làm chi cái thứ nằm vùng ôn hoàng dịch lệ vật đó! Xuân trả lời.

- “Giải phóng” vô hôm trước, hôm sau hắn vênh váo xách AK tới trường hoạnh họe, hạch sách các thầy cô và nhân viên văn pḥng đủ điều. Rồi hắn ra lệnh cho tôi đánh máy danh sách phân loại để hắn báo cáo lên Ban An Ninh, Cang tiếp lời. Bây giờ hắn bị cho ra ŕa rồi, chẳng ai thèm ngó tới mặt. Đáng đời!

Tôi lắc đầu ngao ngán cho thế thái nhân t́nh: Bé Tám, người được toàn trường chúng tôi hết ḷng thương yêu, đùm bọc, nhiệt t́nh giúp đỡ mọi mặt…

Lúc bùi ngùi chia tay, tôi kín đáo chạm nhẹ vào bàn tay gầy yếu xanh xao của hai cô em đă giữ nguyên vẹn ḷng cảm mến dành cho người anh viễn phương…

Áo em vạt tím ngàn sim,
Nửa nao nức gọi nửa im lặng chờ.

Trường Dạy Nghề Thủ Đức, 23.2.2003

Lần nầy th́ tôi chẳng nghe ai kể hết. Chính mắt tôi thấy, tai tôi nghe: Cửa quyền hống hách coi dân như rơm rác. Chính quyền do “nhân dân làm chủ” đấy nhé!

Quá thương tâm trước cảnh nghèo rớt mồng tơi của gia đ́nh một người thân -nhà dột cột xiêu, cơm ngày hai buổi hẩm hiu với muối hột mà cũng chẳng đủ no ḷng, con cái nheo nhóc; đứa con gái đầu đàn phải bỏ học đi bưng mâm rửa chén cho một tiệm phở, trước để được no bụng, sau để kiếm vài đồng bạc phụ mua gạo muối hàng bữa cho gia đ́nh- tôi nhất quyết t́m cách rút đứa cháu gái tuổi chưa quá đôi tám, mặt mũi “dễ coi” ra khỏi cảnh đau ḷng đầu bù tóc rối, chân đi trần, đầy vết mỡ loang : giúp cháu học nghề.

Bước vào văn pḥng trường dạy nghề tôi chẳng thể nào tưởng tượng sẽ phải đối mặt với một mụ Giám hiệu quá ư mất dạy! Cán bộ nhà nước -“đầy tớ của nhân dân”- vô giáo dục phụ trách công tác giáo dục nhân dân! Đem tiền đến đóng học phí cho họ mà họ coi như ḿnh đến xin ăn không bằng. Nói chuyện phang ngang bửa củi, trả lời nhát gừng, có ghế nhưng không mời khách ngồi. Đóng tiền xong, hỏi chi tiết về chương tŕnh học, giờ giấc. Trả lời cụt ngủn: về đi, trở lại coi thông báo niêm yết. Hết!

- Ban giám hiệu trường nào cũng tiếp phụ huynh như vậy hết hả con?

- Dạ phải, dượng ba ! Chỗ nào của nhà nước cũng vậy hết, chớ không riêng trường học. Dân đem tiền “cúng” cho họ mà bị coi như tới van xin họ ban ơn bố đức!

- Hết ư!

B́nh Dương, 23.2.2003

- Allô! Thưa thầy! Tụi em đang trên đường xuống rước thầy…Thầy biết ai gọi thầy không đây?

- Huê Mỹ phải không?

- Trời Phật! Hai mươi mấy năm rồi mà thầy vẫn c̣n nhận ra tiếng em!

- Làm sao quên giọng “hai-phai-x́-tê-rê-ô” của nữ lực sĩ được!

Ba mươi phút sau, chiếc mini van đầy người gấp rút tấp vô lề đường trước cổng nhà chị tôi. Một đoàn áo dài trắng tức tốc túa ra, ào tới quấn quít lấy tôi, đứa nắm tay, đứa bá cổ, đứa choàng vai, đứa bẹo mặt, đứa vuốt tóc, vừa reo cười vừa mếu máo khóc!

- Thầy ơi! Phải thiệt thầy Tân dạy Triết của tụi em không đây? Một đứa hỏi. Tụi em nghe đồn thầy tự tử chết trong trại cải tạo rồi. Thầy ḿnh thực sự c̣n sống, phải hôn tụi bây? Hỏi xong, bèn bật khóc!

- Thầy biết con nhỏ cười qua nước mắt kia là ai không? Huê Mỹ hỏi.

- Không nhớ. Trông rất quen. Đẹp. Nhưng có vẻ buồn thảm quá!

- Hồng Phượng mà thầy không nhớ ra à? Hồi trước, sáng nào nó cũng quá giang xe thầy từ Lái Thiêu tới trường mà!

- Trời đất! Hèn chi tôi cứ ngờ ngợ.

Hồng Phượng đối với tôi như em ruột v́ là con của thầy tôi ở Bạc Liêu. Cũng là em gái của Danh, thằng bạn nối khố, đồng nghiệp.

Huê Mỹ ngày xưa thân h́nh cân đối, rắn chắc, bây giờ gầy g̣, cao nghệu như tre miễu, nhưng nụ cười vẫn c̣n rạng rỡ. Đám cựu môn sinh đang quây quần bên tôi giờ đây đă “ông ông mụ mụ rồi” hết ráo, nhưng không rơ có phải v́ cái khung cảnh tái ngộ quá đặc biệt nầy mà đột nhiên chúng trở thành đám nữ sinh lăng xăng tíu tít như dạo nào chăng? Hoài niệm vẫn c̣n xanh trong chúng tôi…

Giám hiệu Trường Trịnh Hoài Đức, một cựu học sinh của Trường, mời tôi, Phúc, một cựu Hiệu trưởngTHĐ kế tôi, cùng đám cựu môn sinh vào văn pḥng tṛ chuyện thân mật. Giám hiệu ngỏ lời chào mừng và hoan nghinh sự trở về trường xưa của người thầy cũ-nguyên hiệu trưởng, lời lẽ cảm động chân thật. Ba hiệu trưởng kế tiếp nhau, mỗi người tiêu biểu cho một thế hệ, ngồi bên nhau trong tinh thần sư đệ: Điều tôi không ngờ có thể “được phép” làm ở một cơ sở giáo dục “do nhân dân làm chủ”! Không khí “có giáo dục” nầy, tôi nghĩ là do vị Giám hiệu đă được “giáo dục” trước 1975. Nếu không, chắc cũng rập khuôn “cửa quyền” như ở trường dạy nghề Thủ Đức thôi.

- Chào thầy! Em là Hiệu phó. Lúc thầy làm Hiệu trưởng, em mới vào đệ thất nên chắc thầy không biết em. Xin mời thầy cùng quí anh chị “tham quan” trường.

Cô Hiệu phó rất xinh, y phục lịch lăm, sở dĩ ăn nói “có văn hoá” là nhờ đă được đào tạo trong môi trường “tôn sư trọng đạo”, cũng trước 1975…

- Xin thầy đứng chụp ảnh trước dăy pḥng mới cất, rất khang trang. Cô Hiệu phó vừa nói vừa nằm tay tôi lôi về hướng kỳ đài “phất phới cờ đỏ ngôi sao vàng”!

- Không, không! Huê Mỹ can thiệp, tŕ tay tôi lại, kéo về hướng khác. Lúc thầy dạy tụi ḿnh, rồi lên làm Hiệu trưởng chỉ có dăy pḥng cũ kỹ nhưng rất nhiều kỷ niệm thầy tṛ nầy thôi! Thầy về thăm trường cũ tṛ xưa là muốn t́m lại hoài niệm thân thương đó...Em
hăy để yên cho bọn chị cùng thầy sống lại vùng hoài niệm xanh lúc thầy mới về trường chúng ta đi nghe !

Quả thật Huê Mỹ nói rất đúng, dăy pḥng xưa cũ nầy và văn pḥng Hiệu trưởng vừa chật cứng hoài niệm đối với tôi, vừa là di tích lịch sử đối với cựu nhân viên giảng huấn, nhân viên văn pḥng và các cựu học sinh trước 1975. Chắc rồi cũng sẽ bị đập bỏ, thay thế bằng hàng loạt kiến trúc do các ông chủ mới thiết kế đồ án, với lá cờ đỏ sao vàng chói chang -bắt buộc phải có- phất phới như một quyết tâm triệt hạ những ǵ gợi nhớ tới nền giáo dục nhân bản xa xưa…

- Thưa thầy! Em đứa là học tṛ nghèo năm xưa chẳng bao giờ quên thầy đă cho em lên xe Toyota của thầy để em khỏi cuốc bộ đến trường : Một điều mà em chẳng bao giờ tưởng tượng có thể xảy ra giữa một học sinh quèn như em và một người vừa là thầy đứng lớp vừa là Hiệu trưởng! Nho, Phó Giám đốc Sở Giáo Dục B́nh Dương ngơ lời trong buổi cơm thân mật tiếp đăi tôi và “phái đoàn cựu học sinh 12A1-12A2/THĐ/1970”, qui tụ trên dưới ba mươi khuôn mặt thân thương tại một quán cơm b́nh dân, ngoài thành phố.

- Em không giấu thầy, Nho tiếp, em là người cộng sản -và em là người cộng sản duy nhứt trong bàn tiệc nầy. Em theo lư tưởng của em, nhưng em vẫn kính mến, thương quí thầy và tôn trọng lư tưởng của thầy. Xin thầy cứ yên tâm: Tổn phí xe cộ đưa đón và bữa cơm hôm nay là do tụi em, học tṛ cũ của thầy, tự nguyện chung góp đài thọ. Tụi em dứt khoát không cho mấy đứa cựu môn sinh của thầy bây giờ là tay to mặt bự -cỡ bí thư tỉnh ủy, huyện ủy trở lên- gặp thầy, dù tụi nó có yêu cầu. Em nói với chúng nó :«Thầy Tân trực tính. Tụi bây quen thói “lên lớp” sảng, rủi ổng nhịn không nổi “quạt” lại, bị mất mặt, tụi bây dám bắt ổng đi cải tạo lần nữa lắm!».

- Thưa thầy! Chắc thầy không c̣n nhớ em đâu! Một giọng nữ trong như chuông ngân, không xưng danh, phát biểu. Ngày xưa, nhà nghèo quá, em phải nghỉ học xin làm thư kư đánh máy cho trường. Khi lên làm Hiệu trưởng, thầy không cho em làm…

- Tôi đuổi việc em?...

- Dạ không phải vậy! Thầy nói em c̣n nhỏ quá, bắt em tiếp tục học buổi sáng và cho em làm việc buổi chiều, thứ bảy, chủ nhựt làm thêm giờ bù…Nhờ vậy em tốt nghiệp đại học sư phạm, nối nghiệp thầy!

- Dù em có khai tên ra thầy cũng không nhớ nổi em đâu! Một cựu môn sinh phái nam chen vào, tiếp chuyện. Xin đọc bài thơ “Tái ngộ” em vừa làm xong tặng thầy, mà em dự trù đưa vào tập thơ “Chàm khúc t́nh” của em, sắp xuất bản. Em chỉ xin thầy, cũng là người cầm bút, nhớ bút hiệu của em thôi : Chu Ngạn Thư.

(….) Mượn câu vạn lư trùng phùng
Ấm trong tay bắt ḷng mừng nỗi xưa.

Lạ thật! Tôi nghĩ thầm. Chàm khúc t́nh? Chẳng lẽ nhà thơ thấu suốt tâm trạng “quay về xem non nước giống dân Hời” trong Điêu tàn của người-dân-Việt-ngoại-kiều-trên-đất-Việt như tôi? Chàm khúc… Một cơn trốt xoáy tung bụi mù hay… Hồn tử sĩ gió ù ù thổi?

- Tôi kể anh Tân nghe chuyện dài Trịnh Hoài Đức. Phúc uống cạn ly bia, rơm rớm nước mắt, trầm buồn lên tiếng. Lúc tôi ngồi tù cải tạo, trường bị xoá tên và mất luôn vị trí một cơ sở giáo dục. Họ cưỡng đoạt ngôi trường làm trung tâm “bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ”. Khi tôi ra tù, mấy đứa học tṛ cũ của ḿnh -“quan lớn” trong chế độ “đổi đời”- t́m tôi, thúc đốc tôi ra nhận lại chức vụ hiệu trưởng. Tôi ra điều kiện tiên quyết : phục hồi danh hiệu Trịnh Hoài Đức và dời trung tâm ǵ đó đi nơi khác. Yêu cầu được đáp ứng sau nhiều năm dài tranh căi. Sở Giáo Dục do học tṛ cũ ḿnh cai quản giao cho tôi điều khiển trường được trao trả và yêu cầu tôi vận động cựu đồng nghiệp và cựu học sinh ở hải ngoại gởi tiền về gây quỹ phát triển trường cũ. Khắp nơi nhiệt t́nh hưởng ứng. Nhưng rồi tôi nhận ra chính quyền chỉ muốn lợi dụng tôi để moi tiền những ai c̣n tha thiết với trường cũ. Anh em điện thư yêu cầu tôi mở trương mục cho họ chuyển tiền. Lúc bấy giờ chánh quyền mới lộ tẩy : Chỉ có Sở Giáo Dục tỉnh B́nh Dương mới có tư cách nhận và sử dụng tiền! Tôi thông báo ngay cho bè bạn khắp nơi, rồi cáo bịnh xin từ nhiệm. Sở không chấp nhận , trái lại càng lúc càng thúc ép tôi kêu gọi thiên hạ gởi tiền về. Viễn ảnh tôi đi cải tạo lần nữa chập chờn…Cuối cùng tôi nghĩ ra cách rút lui an toàn. Tôi dàn cảnh đi xe đạp bị tai nạn chấn thương năo, mất trí nhớ, ăn nói ngọng nghịu, lảm nhảm. Bệnh viện -do BS Phượng Hoàng, học tṛ ruột của chúng ta làm trưởng khoa bệnh lư- xác nhận bệnh trạng. Tôi thoát nạn!

- Lúc đó ḿnh chới với khi nghe Danh báo “hung tin”. Không ngờ Phúc “siêu” quá cỡ!

Trên đường về, các em đề nghị tôi ghé qua khu Trường Nữ THĐ, gần chợ Búng. Trước 1975, Trường cũ gồm hai khu nam nữ, cách nhau trên hai cây số. Bây giờ khu nầy dành cho nữ cán bộ làm trụ sở hợp tác xă ǵ ǵ đó.

- Đây mới thật là nơi tụi em có quá nhiều kỷ niệm với thầy! Đấu, cô-nữ-sinh-mít-ướt ngày xưa, lệ đoanh tṛng, nh́n tôi nói. Em nhớ, lúc học đệ tam với thầy, em ưa khóc v́ mặc cảm nghèo, chỉ có một bộ đồ tương đối coi được mặc đi học. Thầy dỗ em và biểu em lúc nào muốn khóc th́ nh́n mặt thầy sẽ hết khóc. Em cũng chẳng hiểu v́ sao mà nghe theo lời thầy th́ …em nín khóc thiệt! Và từ từ em hết mít ướt luôn!

- Thầy nh́n lên dăy lầu xem! Thầy c̣n nhớ căn chót phía tay mặt, nơi thầy dạy triết cho lớp đệ nhất A1, năm đầu tiên thầy về trường chăng? Gần Tết năm 1967, thầy đang đứng lớp trên đó th́ có hai thanh niên giả dạng nam sinh THĐ sang bán báo Xuân đột nhập vào lùa thầy cô và tụi em ra sân cờ để tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước”. T́nh cờ có hai anh chuẩn úy không hay biết ǵ hết, từ chợ Búng đèo nhau trên xe gắn máy chạy ngang trường…Họ nổ súng sát hại. Em c̣n nhớ mồn một nụ cười tươi tắn của hai anh c̣n rầt trẻ đó thoáng qua cổng trường rồi vụt tắt ngấm theo tiếng súng nổ chát chúa. Và ngay bây giờ em vẫn tưởng như sự việc đang xảy ra trước mắt: Chiếc Suzuki màu xanh dương lật ngang giữa đường, máy vẫn c̣n nổ, bánh xe vẫn c̣n lăn, hai anh chuẩn úy vẫn c̣n giẫy chết…

Cơn xúc động do hoài niệm thương động tái xuất hiện dần dần lắng động.

- Thầy à! Đấu-mít-ướt cười hiền ḥa nói. Bữa nay sao em cảm thấy như đang học lớp đệ tam đó thấy. Phải hôn tụi bây?

- Ê, con nhỏ! Tụi ḿnh tóc hoa râm hết rồi nghe mậy! Huê Mỹ chọc phá.

- Tao cảm thấy thiệt vậy mà!

- Thầy có thấy cái miễu nhỏ trước cổng trường không? Hồng Phượng hỏi. Cái miễu đó, cho tới nay dân chúng vẫn tiếp tục nhan đèn cúng vái. Họ bảo hai anh chuẩn úy nầy linh lắm! Chánh quyền địa phương muốn dẹp mà không dám, v́ nghe đâu mấy cán bộ gộc trên tỉnh cũng thường xuống xá lạy, van vái, cầu xin!

- Thầy ơi! Thầy ở lại chơi với tụi em đi. Lâu lắm rồi thầy mới có dịp trở lại B́nh Dương. Đấu năn nỉ. Thầy c̣n về Việt Nam nữa không?

- Tôi th́ không thành vấn đề. Nhưng cô th́ không thể ở lại v́ sức khỏe không cho phép. Chứ cô cũng rất thích sinh hoạt với các em. Tôi về nữa, các em nghèo quá làm sao đủ gạo nuôi tôi?

- Dạ thầy đừng lo. Tụi em chia nhau nuôi thầy cô, mỗi đứa một tuần. Rồi xây tua làm lại như vậy nữa. Dư sức “nuôi” thầy cô dài dài…

Tôi rời cảnh cũ người xưa, rạt rào thương cảm… Chốn ấy quê hương, ôi cảm t́nh! :

Đưa nhau đấu rượu hoa nầy,
Mai đi dă hạc thành ngoài cuồng ngâm…

Đà Nẵng, 26.2.2003

Bốn mươi lăm năm rồi tôi mới lại có dịp đi xe lửa trên một tuyến đường xa. Lần chót tôi dùng phương tiện giao thông nầy là do năm1958, giữa niên học, ban Triết Đại Học Sư Phạm chúng tôi tại Sàig̣n được lệnh chuyển lên Đàlạt. Lần nầy đặc biệt hơn v́ chuyến xe lửa mang tên “Thống Nhất” chạy suốt từ Sàig̣n -đă bị mất tên- tới Hà Nội -địa danh trơ trơ như đá vững như đồng v́ được “đảng và nhân dân ta” tôn vinh là “cái nôi của loài người ( v.v…)”, không như Sàig̣n chỉ mới là Ḥn Ngọc Viễn Đông ấm ớ thôi! Có nên nhắc lại, khách mở hàng chuyến tàu hỏa Thống Nhất nầy là hằng hà sa số quân cán chính VNCH được nhồi nhét như gia súc trên các toa tàu bít bùng, đưa ra miên Bắc “học tập cải tạo” và phần lớn đă vĩnh viễn nằm xuống trên con tàu định mệnh, được vùi lấp “không một nấm mồ” hai bên đường rầy “đầy máu và nước mắt” chăng? Bất giác tôi rùng ḿnh: Toa “Couchette” khá tiện nghi tôi đang sử dụng, trước đây chắc chắn đă “tiếp thu” ít nhất trên trăm chiến hữu của tôi đang đói khát, ngộp thở, bịnh hoạn không thuốc thang, bài tiết tại chỗ, chết dần ṃn…Phong cảnh nhạt nḥa theo lệ ứa :

Đây những cảnh rừng sâu cây lả ngọn,
Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.

Cảnh vật hai bên đường rất đẹp và rất “quê hương”, với trâu ḅ nhơi cỏ trên đồng áng, với hàng dừa, rặng cao, lũy tre bao quanh đ́nh chùa, làng thôn nếu không có cảnh tượng thương tâm phu dân nghèo khổ đập đá như tù khổ sai kiếm cơm độ nhật, gợi nhớ cảnh đày ải, cưỡng bức lao động trong các trại cải tạo năm nào…Lác đác vài ngôi nhà mồ nguy nga, tráng lệ trông rất bắt mắt nổi bật trên vô số nấm mồ lở lói, xác xơ. Người chết giờ đây cũng phân chia giai cấp trong một xă hội luôn huênh hoang tự hào “không giai cấp”. Nhà mồ huy hoàng, màu sắc rực rỡ : người chết có thân nhân là cán bộ hoặc Việt kiều. Nấm mồ sụp lở : hoặc vô chủ, hoặc con cháu người chết là đa số dân đen sống lây lất qua ngày! Dĩ nhiên nghĩa trang “liệt sĩ” th́ y như lăng tẩm vua chúa thời xưa. Và cũng rất dĩ nhiên như một “tất yếu lịch sử” (sic!) vô số doanh trại quân đội nhân dân lại…lấn dân giành đất khằp nơi, khắp nước…

Thành phố Đà Nẵng không xô bồ như thành phố Sàig̣n-mất-tên. Đường phố sạch sẽ, lưu thông trật tự, người dân nói năng lễ độ, tử tế. May mắn thay Trường Phan Chu Trinh vẫn c̣n giữ được tên và nét trang nghiêm của thời trước. Nhưng buồn thay, tôi chẳng gặp được “cố nhân” nào cả : bạn bè và đồng nghiệp cũ chắc đă vượt biên hết rồi!

Hai đứa cháu họ, Sử và Thảo, hướng dẫn chúng tôi thăm băi Bụt nổi tiếng. Cành trí tuyệt đẹp. Nhà cửa xinh xắn như các chalet nghỉ mát Tây phương. Đất đai được rào phân cách thành lô rạch ṛi. Hỏi tên các “phước chủ” mới bật ngửa : Khu đất và các chalet nầy là của Hen-ri Chúc, khu kia là của Eo-vít Phương, khu nọ là của Làng Văn! Cả ba khu nầy chiếm gần phân nửa diện tích băi Bụt. Ô hô Việt kiều! Cứ đà nầy, băi Bụt sẽ trở thành Băi Văn Nghệ Sĩ nước ngoài ”yêu nước”… có đất kinh tài!

Trong buổi cơm chiều, Thảo kể chuyện ông tỉnh ủy từ chức v́ thằng con hà hiếp dân lành. Ông là cán bộ cao cấp duy nhất không ém nhẹm chuyện xằng bậy. Nhưng một con én không làm nên mùa xuân. Sau đó, ông từ khước mọi chức vụ khác, xin hưu non.

- Con nghĩ ông ấy thấy xa.Thảo kết thúc chuyện kể. Nếu tiếp tục công tác, trước sau ǵ ông cũng bị đám tham ô ám hại.

- Con muốn chú xem kỷ vật con cất giữ của thằng bạn cách đây hai mươi tám năm. Sử buồn bă nói. Một tháng sau ngày “giải phóng”, bạn con lén lút đến nhà trao cho con một món quà gói ghém và ngụy trang rất kỹ. Và con cũng đă chôn giấu rất cẩn thận nên mới c̣n tới ngày hôm nay. Chú xem đây!

Sử trút từ ống tre ra một thanh kiếm nằm trong bao đen nạm vân vàng, mời tôi tuốt kiếm…Lưỡi kiếm đă rỉ sét, nhưng ánh thép vẫn c̣n lấp lánh! Tôi bồi hồi nhận ra thanh kiếm của sinh viên Trường Vơ Bị Quốc Gia!

- Lúc sắp “đứt phim” bạn con là sinh viên sĩ quan đang chuẩn bị “vung kiếm gương cung” ra trường. Những lời cuối của bạn tới giờ nầy vẫn c̣n văng vẳng bên tai con: «Tao rất may mắn được Trường Vơ Bị Quốc Gia giáo dục làm người, rèn luyện tinh thần trách nhiệm, tôn trọng danh dự. Trường đă cho tao một lư tưởng phục vụ tổ quốc. Những thứ quí báu đó không c̣n trong tay nữa với một quê hương đă mất, tao chẳng c̣n lư do ǵ để trường tồn. Hăy giữ hộ tao cây kiếm nầy để nhớ đến thằng bạn đă có lần được làm người, đúng nghĩa Làm Người…».

…Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai,
Không có ai ngày ngày, không có ai đời đời…

Phi trường Tân Sơn Nhứt, 26.3.2003

Nho, Mỹ, Hồng Phượng và một số cựu môn sinh tiễn tôi xa ĺa quê hương lần nữa, có thể chẳng bao giờ quay về lại. Nắm nuối, bịn rịn, “bước đi nhưng chưa nỡ rời…”. Nhưng rối thầy tṛ lại phải xa nhau nữa thôi!

Đợi nhau tàn cuộc hoa nầy
Đành như cánh bướm đồi tây hững hờ…

- Nầy anh kia! Một “bào-đồng-cát-kết-cầu-vai-đỏ-ối” trỏ tay về hướng tôi, nhe hàm răng “xâm lăng” hét to. Tôi nói tiếng Việt mà anh không hiểu sao? Có xếp hàng vào cửa lên máy bay ngay không th́ bảo? Rơ lẩn thẩn!

H́nh ảnh các quản ngục non choẹt năm nào sừng sơ quát tháo -“anh nầy anh kia”- bọn tù cải tạo đáng tuổi cha chú ḿnh lại hiện về...

- Chú theo tôi vào đây làm việc. Một giọng miền Nam -duy nhứt ở phi cảng quốc tế nầy- nhỏ nhẹ rót vào tai tôi. Tuy vậy, tôi cảm thấy “lạnh cẳng” với cụm từ “làm việc” rất dễ động năo. V́ bất cứ cựu tù cải tạo nào cũng đă từng đổ mổ hôi hột khi ḿnh được kêu “lên làm việc”! Chắc lại có chuyện rồi… V́ chuyến thăm trường cũ chăng?

Vào pḥng an ninh, trước đôi ba bộ mặt gầm gừ, giọng Nam dễ thương kia đổi sang ngay giọng Bắc - v́ “lănh đạo ” là đồng chí phương Bắc- nhưng vẫn nhẹ nhàng :

- Xin chú cho biết có quên cái ǵ trước khi lên phi cơ chăng?

- Tôi không nhớ. H́nh như không.

- Thế th́ cái áo gi-lê-phóng-viên-nhiều-túi nầy chắc của tôi, phỏng? Giọng Bắc “cấp trên” chanh chua xoi mói.

- Ô! Xin lỗi quí anh. Tôi già rồi, quên trước quên sau. Lúc năy tôi bỏ sót nó trên quầy khám xét. Xin lỗi! Xin lỗi!

- Chúng tôi nhặt nó, soát qua các túi, thấy bản sao “bách-bo” của anh nên mới t́m anh trao lại. Anh kiểm lại các thứ xem có thiếu món ǵ không.

- Dạ, chỉ thiếu quyển sổ tay…

- Anh viết những ǵ chúng tôi không hiểu, v́ viết tiếng nước ngoài. Nhật kư?

- Dạ không! Tôi ghi chú những cảm nghĩ hằng ngày về các luận án tiến sĩ của các sinh viên đại học Paris nhờ tôi nhuận sắc.

- Được rồi. Trả lại anh đây.

Hú vía! May là nhật kư viết bằng tiếng Pháp. Có lẽ nhờ chữ “Paris” mà tôi thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Nếu viết bằng tiếng Anh hay nói tới đại học nào ở Mỹ, chẳng biết cuộc diện sẽ ra sao… ».


Tân dán mắt vào “hublot” ghi nhận lần cuối h́nh ảnh thành phố thân yêu nhỏ dần khi phi cơ vút lên cao. Cúi nh́n ly rượu đỏ, như chờ đợi Sàig̣n “thoáng hiện em về trong đáy cốc”, Tân thầm th́ :

- Biết bao giờ c̣n thấy nhau lần nữa, Sàig̣n ơi! V́…

Tôi sẽ chết như hoàng hôn đă tắt
Mây bay đi không cuốn được u hoài
Chớm đêm về mưa gió sẽ chia tay
Cho lá nhớ mưa buồn dâng ướt mắt…

- Ôi quê hương dấu yêu , phải đoạn đành ruồng bỏ! Bởi…

Những cảnh ấy trên đường về ta đă gặp,
Tháng ngày qua ám ảnh măi không thôi!

Thôn trang Rêu-Phong, 30 tháng Tư 2008
Lê Tấn Lộc


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại