Phạm Tín An Ninh
Định cư ở Na Uy hơn ba năm, sau khi ổn định công việc làm ăn và việc
học hành cho mấy đứa con, tôi tổ chức một chuyến Âu du bằng xe hơi.
Chiếc xe Ford của tôi vừa cũ kỹ vừa nhỏ, không thể nào vượt qua một
chặng đường trên dưới mười ngàn cây số khứ hồi, và dĩ nhiên cũng
không đủ chỗ cho một gia đ́nh lớn nhỏ tám người. Lại nghe mấy người
bạn tới trước hù, bảo là trên xa lộ Âu châu vào mùa hè, chạy một cái
xe cũ có thể bị giữ lại giữa đường và nộp tiền phạt v́ cái tội làm
trở ngại giao thông. Tôi mướn một cái xe mới toanh mười hai chỗ
ngồi, có máy lạnh và kính mát đàng hoàng. Tôi không muốn bất cứ điều
ǵ làm mất cái hứng thú cho cuộc hành tŕnh đầu tiên của chúng tôi
trên những đất nước mà trước đây tôi đă từng một thời mơ ước nhưng
chẳng bao giờ nghĩ là có một ngày được đi qua. Tôi và đứa con trai
lớn vừa mới đủ tuổi lấy bằng lái xe, thay nhau làm tài xế. Bà xă và
cô con gái lớn chịu trách nhiệm xem bản đồ và theo dơi lộ tŕnh.
Tuần lễ đầu tiên, chúng tôi rất thích thú khi đi qua những vùng đất
xa lạ, mà ngày trước tôi chỉ biết mơ hồ qua sách vở. Sau một ngày,
băng qua hai đất nước hiền ḥa Thụy Điển, rồi Đan Mạch, chúng tôi
sang Hamburg, thành phố lớn cực bắc của Tây Đức. Thời gian này nước
Đức c̣n chia đôi, nên vừa mới đến ranh giới là không khí đă căng
thẳng. Cảnh sát với súng ống dầy người, trông mặt người nào cũng
đằng đằng sát khí làm tôi nhớ tới h́nh ảnh của Hitler trong bộ phim
dài chiếu mỗi tuần trên truyền h́nh Nauy. Vừa mới thoát ra cảnh
chiến tranh tù đày ở quê nhà, lại được định cư tại một quốc gia ban
phát giải Nobel Ḥa b́nh, tôi không muốn phải ngộp thở trên quê
hương của ông Hitler, nên sau khi qua khỏi Frankfurt, tôi rẽ sang
Ḥa Lan. Một đất nước mà tôi nghe như huyền thoại: nằm dưới mặt nước
biển trung b́nh, có một con đập dài nhất thế giới, cũng là một xa lộ
băng qua biển. Chạy xe trên con đập này, tôi cứ ngỡ ḿnh đang lái
tàu chạy giữa biển khơi. Xứ sở của hoa Tulip, với vườn hoa lớn và
đẹp nhất thế giới, những chiếc quạt gió cùng những con kênh đào thơ
mộng.
Ở thủ đô Amsterdam, có một nơi dành cho những người nghiện đến nhận
thuốc phiện miễn phí của chính phủ; nguyên cả một khu phố lớn dọc
theo bờ sông thơ mộng lại là một khu dành cho mấy cô gái điếm đủ sắc
dân. Đây là một cơ sở kinh doanh, có đóng thuế cho nhà nước, nên
dược cảnh sát bảo vệ. Trước mỗi nhà là một cái tủ kiếng, bày hàng
thật cho khách bốn phương chiêm ngưỡng. Hàng thật là một hay hai cô
gái thoát y 90%, dĩ nhiên phải là đẹp, đứng như những pho tượng nữ
thần Hy lạp. Chúng tôi ghé thăm gia đ́nh mấy ngựi bạn cùng quê,
sống rải rác khắp nơi. May mà đất nước Ḥa Lan này không rộng lắm,
lái xe từ bắc xuống nam chỉ mất khoảng bốn tiếng đồng hồ. Dừng lại
nhà một người bạn ở Bergen op Zoom, thành phố biển phía nam chúng
tôi tha hồ ăn ṣ huyết và những con "hàu". Mấy loại này ở đây chỉ
cần lội xuống biển mười phút là mang lên cả thùng nướng ngay tại
chỗ. Hôm sau, chúng tôi sang Bỉ, Lục Xâm Bảo, và cuối cùng chúng tôi
đến Pháp.
Điểm đến cuối cùng cũng là nơi quan trọng nhất mà chúng tôi muốn
đến. Tôi dành một nửa thời gian, hai tuần lễ c̣n lại, cho cái xứ sở
mà lúc c̣n nhỏ, khi học lịch sử th́ tôi thù ghét, nhưng khi học văn
chương th́ tôi lại mê thích nó. Nào là tháp Eiffel bên ḍng sông
Seine t́nh tự, nào là nhà thờ Notre Dame cổ kính mà tôi mơ hồ thấy
trong phim Thằng Gù ở nhà thờ Đức Bà, nào là vườn Luxembourg, nơi
hẹn ḥ của bao cặp t́nh nhân. Tôi bắt gặp đâu đó những đứa trẻ trong
Sans Famille của Hector Malo, những người đàn bà trong Les
Misérables , và cả những bến tàu có cảnh tiễn đưa trong Oceano Nox
của Victor Hugo. Chúng tôi ở trong khách sạn của một người Hà Nội,
sang Pháp lập nghiệp từ hơn 50 năm trước. Khách sạn nằm trên con phố
chính trong quận 13, nơi có đông ngựi Việt Nam sinh sống.
Hơn một tuần ở Paris, chúng tôi xuôi về miền Nam nước Pháp. Thành
phố Nice nằm bên bờ Đại Tây Dương, gần thành phố Cannes nơi qui tụ
những tài tử điện ảnh hằng năm, và không xa đất nước Monaco với
những ṣng bài và những chuyện t́nh nóng bỏng của mấy nàng công
chúa. Mười ngày nằm trên thành phố biển này, tôi tạm quên những bất
hạnh trong quá khứ và những ǵ đang xảy ra trên quả đất có quá nhiều
phiền muộn này.
Rời Nice, chúng tôi trở lại Paris trước khi về Nauy. Trời mùa hè
đang nóng, bà xă và mấy cô con gái của tôi đề nghị chạy ban đêm, vừa
cho mát vừa được ngắm những thành phố rực rỡ trong ánh đèn. Nh́n
trên bản đồ, tôi thấy trên đường đến thành phố Lyon, ḿnh có thể
dừng lại Grenoble rồi rẽ sang Genève của Thụy Sĩ,, xem thử nơi đă
cho ra đời cái hiệp định làm khốn khổ quê hương ḿnh ra sao. Như
được trở lại thời trận mạc xa xưa, tôi gọi cả bầu đoàn thê tử lại để
ban bố " lệnh hành quân". Chúng tôi không đi theo xa lộ 85 mà chọn
con tỉnh lộ nhỏ trực chỉ Grenoble. Tôi đích thân xem bản đồ hướng
dẫn cho cậu con trai làm tài xế. Rời Nice lúc 7 giờ tối. Sau hơn ba
giờ từ "tuyến xuất phát", tôi mới biết là ḿnh đă sai lầm khi xử
dụng con đuờng tắt này. V́ chúng tôi bắt đầu chạy qua một khoảng
rừng và những đồng lúa ḿ mênh mông, không thấy một bóng người.
Đang mơ màng th́ nh́n thấy phía đầu xe bốc khói. Tôi ra dấu cho đứa
con trai dừng lại, bảo cả nhà xuống xe gấp. Khói trước xe vẫn c̣n
bốc lên mờ mịt. Tôi tái mặt , v́ bao nhiêu năm nay, từ lúc c̣n ở
Việt nam cũng như sang đây, ngoài việc cầm vô- lăng và đổ xăng ra
tôi có biết ǵ về xe cộ nữa đâu. Chờ cho khói tan hết và rờ vào nắp
xe thấy không c̣n nóng, tôi mở nắp xe lên bảo cậu con trai rọi đèn
pin vào máy nh́n thử. Đến đường cùng th́ làm như phản xạ tự nhiên
vậy thôi, chứ tôi có biết cái ǵ trong máy đâu mà xem. Nh́n quanh
một chập, tôi cảm giác có điều ǵ lạ lạ. Cuối cùng tôi mớí phát hiện
là sợi dây cu-roa không c̣n nữa. Nước trong b́nh đă bốc hơi không
c̣n một giọt. Thấy tôi xách đèn pin trở lại, bà vợ và đám con gái
đang nằm trên bờ cỏ ruộng lúa ḿ, ngồi bật dậy. Nghe tôi ra lệnh "
đóng quân tại vị trí " v́ xe hư không biết khi nào mới chạy được, bà
vợ xỉ vả cho tôi một trận, bảo hèn chi ngày xưa ông đánh giặc thua
là phải, đừng có đổ thừa tại tụi Mỹ nó phản bội bỏ miền Nam.
Tôi bảo đám đàn bà con gái lên xe nằm và khóa cửa lại cẩn thận, v́
biết đâu khu này có thú dữ. Đàn bà coi dữ vậy chứ nhát gan, ríu rít
tuân lệnh. Tôi và thằng con trai đi ṿng ṿng xem có nhà cửa ǵ
không. Nhưng tất cả đều tối om, tĩnh mịch. Đến gần một giờ sáng, khi
tôi đang nằm mơ màng trên ruộng lúa, th́ nghe có tiếng động. Dường
như là tiếng của một loại động cơ nào đó, càng lúc càng gần hơn. Một
lúc sau, tôi thấy có ánh đèn từ khu ruộng lúa chay ra. Một chiếc máy
cày. Ai đi cày ruộng vào giờ này ? Chưa kịp t́m câu trả lời cho thắc
mắc của ḿnh, chiếc máy cày đă dừng lại trước mặt tôi.
Qua ánh đèn xe, tôi thấy một người đàn ông trẻ, có lẽ là người Pháp,
bước xuống tiến lại phía chúng tôi. Cử chỉ anh ta không phải là một
người gian. Tôi yên tâm. Anh hỏi chúng tôi bằng tiếng Pháp, anh nói
từng chữ v́ sợ chúng tôi không hiểu:
- Chắc là xe các anh bị hư ? Có cần tôi giúp điều ǵ không?
Lúc c̣n đi học, Pháp văn là sinh ngữ chính của tôi. Vậy mà lâu quá
không xử dụng, tôi hiểu tiếng được tiếng mất, vừa trả lời vừa ra
dấu:
- Xe tôi bị đứt dây cu-roa, khô hết nước, không chạy được nữa.
- Các anh ở tỉnh nào tới ?
- Chúng tôi từ Na Uy sang, chứ không phải ở Pháp. Trên đường từ Nice
về, th́ xe bị hỏng.
Anh bảo bây giờ đă khuya rồi, nhà anh cũng ở gần đây, anh sẽ giúp
chúng tôi kéo xe về nghỉ tạm, rồi ngày mai sẽ tính..Tôi mừng rỡ gật
đầu. Anh ra dấu cho tất cả chúng tôi lên xe.
Chiếc máy cày kéo xe và chúng tôi chạy ḷng ṿng chỉ khoảng 10 phút
th́ về đến nhà. Trời tối, tôi không thấy ǵ ngoài mấy cái nhà khá
lớn nằm dưới những tàng cây. Anh đưa chúng tôi vào một gian pḥng
rộng, mang thêm vài tấm nệm và mấy cái mền mỏng. Một chập sau anh
lại mang vào bánh ḿ, phô- mát, và một ấm cà phê nóng, rồi chúc mọi
người ngủ ngon.
Lạ nhà, nhưng có lẽ v́ mệt quá, nên khi chúng tôi thức dậy th́ trời
đă sáng tự lúc nào. Kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường chỉ 8
giờ 10 phút. Mở cửa sổ nh́n ra ngoài, tôi mới biết đây là một nông
trại khá lớn. Chưa kịp gọi bà vợ và mấy đứa con dậy xem, th́ có
tiếng gơ cửa. Anh bạn trẻ tốt bụng tối hôm qua đến dắt tôi chỉ khu
nhà tắm, nhà vệ sinh, rồi dặn tôi khoảng 45 phút nữa, anh sẽ trở lại
đón chúng tôi ăn sáng.
Ngồi vào bàn ăn, anh giới thiệu vợ và hai đứa con nhỏ. Cô vợ khá
xinh, vui vẻ, lúc nào miệng cũng cười, vừa nói vừa làm dấu với mấy
đứa con gái của tôi.
- Các anh là người Việt Nam ? Anh ta vừa bưng tách cà phê vừa hỏi.
- Nhưng làm sao anh biết được v́ ở bắc Âu cũng có nhiều người Tàu,
người Đại Hàn , người Thái Lan và cả người Nhật nữa? Tôi không trả
lời mà hỏi ngược lại anh.
- Tôi không nói được nhưng hiểu một ít tiếng Việt. Bà ngoại tôi là
người Việt Nam mà. Mẹ tôi cũng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam. Lúc
c̣n sống bà nhớ Việt Nam lắm và thường kể cho chúng tôi nghe những
thắng cảnh bên ấy. Đặc biệt, bà thường nhắc đến một thành phố có tên
là Đà Lạt. Bà bảo nơi đó thật thơ mộng và có những nơi ḥ hẹn thật
dễ thương cho những cặp t́nh nhân. Tội nghiệp, bà mới mất hơn hai
năm nay, trong một tai nạn xe hơi cùng cô em gái duy nhất của tôi.
Ăn điểm tâm xong, anh đưa chúng tôi vào thăm pḥng đọc sách. Một tấm
bản đồ Việt nam thật to treo trên vách. Anh chỉ cho chúng tôi thành
phố Đà Lạt mà mẹ anh thường kể cho anh và cô em gái nghe mỗi lần bà
nhớ về quê mẹ.
Càng lúc chúng tôi càng thấy gần gũi và thân thiết với gia đ́nh anh
bạn trẻ có một chút gốc gác Việt Nam này. Anh bảo vợ anh đưa chúng
tôi đi thăm khu nuôi ḅ sữa và vắt đem về vài lít sữa tươi để chúng
tôi dùng thử, trong khi anh lấy xe chạy ra phố t́m mua sợi giây
cu-roa để thay cho xe chúng tôi. Mấy cô con gái của tôi rất thích
thú khi được cô chủ nhà chỉ cho cách vắt sữa ḅ. Sau đó chúng tôi
vào thăm một vườn nho.
Khi trở về, th́ anh ta đă sửa xong cái xe và đang cho máy nổ thử.
Thấy chúng tôi, anh cười đưa ngón tay cái lên báo hiệu là xe đă tốt.
Anh tắt máy xe và giao ch́a khóa lại cho tôi. Tôi chưa kịp trả tiền
sợi giây cu-roa và nói lời cám ơn th́ anh đă vỗ vai mời chúng tôi ở
lại chơi với gia đ́nh anh vài hôm. Anh bảo là lâu lắm anh mới gặp
được những người đến từ quê ngoại. Thấy ông bà chủ hiếu khách, phong
cảnh ở đây hữu t́nh, lại có sẵn sữa tươi và rượu nho, bà xă và mấy
cô con gái cười nheo mắt nh́n tôi. Tôi hiểu ư và nói với anh là
chúng tôi chỉ có thể ở lại một đêm. Trưa ngày mai chúng tôi phải lên
đường.
Ăn cơm chiều xong, trời dịu mát, anh đề nghị chúng tôi đi thăm khu
vườn cam nằm trên ngọn đồi. Vào vườn cam chúng tôi có cảm tưởng như
lạc vào một chốn thiên thai nào đó. Những hàng cam thẳng tắp, trĩu
vàng những quả, mùi hoa cam tỏa ra thơm cả một góc trời. Giữa vườn
cam là một công viên nhỏ, trồng đủ các loại hoa. Bên kia công viên,
ngay giữa đỉnh đồi là khu nghĩa trang nhỏ của gia đ́nh. Vợ chồng anh
mời chúng tôi đến thăm mộ của ba má anh và cô em gái. Ba ngôi mộ xây
đơn giản, nhưng lại có nét đẹp cổ kính. Trên mỗi mộ bia đều có một
tấm ảnh lồng trong khung kiến. Đến trước từng ngôi mộ, tôi cung kính
cúi đầu, chấp hai tay trước ngực và đọc thầm từng tên khắc đậm trên
bia..
Khi đọc đến tên người mẹ:
JACQUELINE CUVÉRO GAULTIER - tôi bỗng giựt ḿnh.
Cái tên này tôi thấy quen lắm. Bà mất lúc tṛn 50 tuổi. Nh́n tấm ảnh
thật lâu, tôi nghĩ đến một người.
Khi về nhà, tôi ngỏ ư muốn xem những tấm ảnh lúc cha mẹ anh c̣n trẻ.
Anh bạn chủ nhà mang đến cho chúng tôi mấy quyển album. Bà xă và mấy
cô con gái th́ tranh nhau xem quyển album lúc ông bà làm đám cưới và
nức nở khen mấy cái áo của cô dâu. Riêng tôi dành lấy tập album cũ
với những tấm ảnh đen trắng mà nhiều cái đă ngă màu vàng. Bỗng tôi
lạnh người khi xem những tấm ảnh của mẹ anh thời con gái, đặc biệt
là tấm ảnh có mái tóc cắt ngắn giống ca sĩ Sylvie Vartan thời cô ta
đang nổi tiếng. Chẳng lẽ lại là nàng ? - Không thể nào ! Tôi lắc đầu
nói thầm trong miệng.
Năm học lớp đệ nhất trường Vơ Tánh, Nha Trang, dù học không giỏi
nhưng tôi cũng cố gắng để được trở thành một thằng sinh viên, dù chỉ
là loại sinh viên hạng bét, và cũng để khỏi phụ ḷng thương yêu, lo
lắng của cha tôi, suốt một đời làm gà trống nuôi con. Vậy mà tôi bị
một lúc hai cái tai ương. Tự dưng có một nàng con gái, mà lại là con
gái đẹp, yêu tôi. Đang ngụp lặn trong t́nh yêu th́ ông Trời phạt
tôi: phận nhà nghèo mà lại đèo bồng yêu người đẹp, nên giáng cho tôi
một cơn bệnh thập tử nhất sinh. V́ vậy khi bạn bè vác lều chỏng đi
thi, th́ tôi đang nằm bất động ở nhà thương tư của bác sĩ Thạch ở
đường Trần Quí Cáp. Ba tháng sau, khi vừa xuất viện về tiếp tục điều
trị tại nhà, tôi nhận được bức thư tạ từ. Người đẹp đi lấy chồng.
Tôi bỏ thành phố Nha Trang, bây giờ với tôi là thành phố buồn, vào
Sài g̣n lang thang kiếm việc làm thuê để có tiền đi học tiếp. Nhưng
rồi cũng chẳng có ai chịu thuê một thằng thư sinh nhà quê như tôi.
Vừa buồn vừa không có tiền trả tiền cơm cho bà Cả Đọi, tôi đăng vào
lính.
Khi chân ướt chân ráo vào Sài g̣n, tôi chẳng có ai quen, ngoài một
bà cô họ xa, trước lấy chồng Tây. Chồng chết, bà ở với mấy đứa con
mang hai ḍng máu ở sau khu tiệm phở Tàu Bay, Tàu Thủy, trên đường
Lư Thái Tổ. Tôi không ngờ trong khu này đa số là những gia đ́nh có
con lai Pháp, trắng có đen có, được ṭa đại sứ Pháp cưu mang lo lắng
từ việc sinh sống tới việc học hành. Hầu hết đều mang quốc tịch Pháp
và được theo học ở các trường Tây Sài g̣n, Đà lạt. Những ngày cuối
tuần tôi thường ghé lại đây chơi. Đang cô đơn ngơ ngác th́ được mấy
người con của bà cô họ giới thiệu cho tôi nhập bầy với đám Tây lai
này. Họ cũng dễ thương và dĩ nhiên là có phong cách Tây lắm. Chiều
cuối tuần họ thường tụ tập để ăn uống và nhảy đầm. Anh con cả của bà
cô họ tôi là trưởng nhóm, chỉ định một cô bé tóc vàng, có mái tóc
ngắn và đôi mắt thật dễ thương dạy tôi nhảy đầm và cũng làm partner
cho tôi khi có tiệc tùng. Nghe mọi người trong nhóm gọi cô là Sylvie
Vartan, tôi cũng gọi theo, nhưng biết v́ khuôn mặt và mái tóc của cô
giống người ca sĩ Pháp đang được ái mộ này nên bè bạn gọi đùa, chứ
đó không phải là tên thật của cô.
Chỉ đi chơi với nhóm một vài lần ǵ đó, th́ tôi vào quân trường Thủ
Đức. Hôm lễ gắn Alpha, thấy anh em mời thân nhân bạn bè nhiều quá,
tôi cũng tủi thân. Gia đ́nh tôi và một số bạn bè thân ở tận Nha
Trang, c̣n ở Sài G̣n này th́ tôi tứ cố vô thân. Cuối cùng tôi nghĩ
đến ba người con lai Tây của bà cô họ và mời họ đến dự lễ gắn Alpha,
rồi sau đó cùng đi dự tiệc với tôi. Hôm ấy cả ba người đều đến và
c̣n dẫn theo nàng con gái Sylvie Vartan. Họ rất thích thú với khung
cảnh quân trường và sinh hoạt của lính. Ai cũng chụp chung với tôi
một tấm ảnh có mang cầu đai Alpha.
Sau đó, trong những lần về phép ngắn ngủi, tôi cũng có ghé thăm họ
một đôi lần. Đêm ra trường, họ cũng đến dự. Sau đó đưa tôi về Sài
g̣n, họ làm một buổi tiệc chia tay tôi. và lần này tổ chức tại nhà
cô gái có tên Sylvie Vartan. Gia đ́nh cô không ở trong khu Lư Thái
Tổ mà có một biệt thự riêng, khá xinh, nằm trên một con hẻm lớn trên
Tân Định.
Tôi không gặp ai trong gia đ́nh của cô hôm ấy, chỉ xem tấm ảnh người
cha ruột của cô chụp với mẹ cô khi c̣n rất trẻ, và cả tấm ảnh chụp
gia đ́nh cô bây giờ, với ông cha Việt Nam, một người em gái cũng lai
Tây như cô và hai người em nhỏ cùng mẹ khác cha. Mẹ cô có nhan sắc,
nên ông chồng mới sau này thuộc loại nhà giàu. Tôi nghĩ như thế.
Tới hơn hai giờ sáng, tiệc mới tàn. Khi nói lời chia tay, không hiểu
v́ xa họ không biết khi nào gặp lại hay v́ nghĩ đến đời lính chiến
nay mai trên rừng núi cao nguyên mà tôi chạnh ḷng, muốn khóc. Nàng
cũng nh́n tôi nghẹn ngào. Khi mọi người đi t́m áo khoác và mang
giày, nàng kéo tôi ra phía sau, tặng tôi một tấm ảnh, rồi bất ngờ
hôn tôi trên má.
Ngồi trên máy bay ra tŕnh diện đơn vị, tôi bất chợt nhớ đến nàng,
mở xách tay ra t́m lại tấm ảnh. Nàng có mái tóc thật dễ thương, nh́n
kỹ đúng là giống cô ca sĩ Sylvie Vartan. Sau tấm ảnh nàng viết một
câu ngắn ngủi: À toi, avec tout mon coeur. Phía dưới cô chỉ ghi là
người có mái tóc Sylvie Vartan.
Nhớ tới nụ hôn bất ngờ tối hôm qua, tôi đưa tay lên sờ má, thấy vẫn
c̣n thoang thoảng một mùi hương. Tôi mỉm cười và nói thầm một ḿnh:
Đúng là lăng mạn như Tây.
Tôi ra đơn vị đúng vào lúc chiến trựng cao nguyên bắt đầu sôi động,
cùng lúc nhóm người Thượng Fulro nổi loạn, giết một số sĩ quan, viên
chức hành chánh người Kinh, chiếm một vài nơi, đặc biệt là tỉnh
Quảng Đức và một vài quận lỵ. Đơn vị tôi đang tiếp viện cho chiến
trường Quảng Nhiêu c̣n mịt mờ lửa đạn ở bắc Ban Mê Thuột th́ được
lệnh di chuyển về phi trường Phụng Dực, xử dụng máy bay dân sự của
hàng không Việt Nam để đáp xuống Nhơn Cơ, một phi trường bỏ hoang
nằm cách tỉnh lỵ Quảng Đức khoảng 30 cây số, do một đơn vị Lực Lượng
Đặc Biệt mũ xanh của ta kiểm soát. Thằng trung đội trưởng mới ra
trường như tôi làm sao có khả năng để ứng phó với một chiến trường
nửa ta nửa địch, mà trong sách vở quân trường không hề nói tới. Ḷng
tôi thật băn khoăn. Nhưng cuối cùng th́ mục tiêu cuộc hành quân Dân
Thắng này cũng đạt được. Đơn vị tôi không hề tốn một viên đạn. Mấy
lănh tụ người Thượng thấy quân chủ lực bao vây bốn hướng, cộng với
lời thuyết phục tài ba của vị chỉ huy nào đó, đă ra lệnh cho những
lực lượng người Thượng buông súng.
Nằm trong cái tỉnh khỉ ho c̣ gáy mà dân chúng sống rải rác trong các
buôn làng hầu hết là người thượng, mấy thằng lính trẻ như tôi chỉ có
buồn muốn khóc. Ai cũng mong sớm chuyển đi tỉnh khác Vậy mà riêng
tiểu đoàn của tôi được lệnh nằm lại đây để giữ an ninh cho dinh điền
Đạo Nghĩa nằm trong một thung lũng gần biên giới Cam Bốt. Một trong
những dinh điền do Thổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh sáng lập để thu
hút di dân sau 1954.
Ra trường đă hơn hai năm. Đời lính cao nguyên thật là vất vă và
buồn. Nhiều lúc nằm giữa rừng già, nghe tiếng chim kêu vượn hú, tôi
thường chạnh ḷng nhớ tới thời c̣n đi học , và khuôn mặt những người
quen. Đôi khi tôi cũng chợt nhớ tới cô con gái lai Tây và lấy tấm
ảnh ra xem. Đến bây giờ tôi cũng không biết tên thật của nàng. Mà
biết để làm ǵ? V́ giữa nàng với tôi là cả một thế giới cách biệt.
Tôi, một thằng lính trận, gốc gác nhà nghèo, không biết sống chết ra
sao. C̣n nàng lại là một cô con gái lai Tây, xinh đẹp và quí phái.
Nàng quen với tôi , thích tôi một chút, cũng là cái thích lăng mạn
của một tiểu thư sống trong thành phố lâu ngày được bất ngờ ra thăm
một vùng dân giả, thế thôi.
Ở Quảng Đức gần hai năm, đánh nhau một vài trận, tôi được mấy cái
huy chương rồi lên làm đại đội trưởng. Trong mấy thằng đại đội
trưởng, tôi là thằng trẻ nhất, và cũng nghèo kinh nghiệm chiến
trường nhất. Ra trường gần hai năm rồi mà trông mày vẫn cứ như thư
sinh. Ông tiểu đoàn trưởng bảo tôi như thế trước khi cho tôi dẫn đại
đội solo xuống núi biệt phái cho tiểu khu Lâm Đồng.
Đoàn xe chở đại đội tôi vừa vào ranh giới Lâm Đồng, tôi nhận lệnh
ông tiểu khu trưởng, trực chỉ đến khu cầu Đại Ngà để giữ an ninh cho
công binh làm lại mấy cây cầu trên QL 14, từ Saig̣n chạy lên Đàlạt,
vừa bị đặc công giựt sập trong hai đêm trước.
Đến vị trí, tôi phối hợp với một đại đội địa phương quân đă có mặt
tại chỗ và một đơn vị công binh mới từ Đà Lạt xuống, bố trí quân
theo nhu cầu. Riêng ban chỉ huy đại đội cùng trung đội vũ khí nặng,
nằm trên một đồn điền trà có cao độ tốt cho việc pḥng thủ và yễm
trợ hỏa lực. Phía duới khu đồn điền này là cây cầu Đại Ngà, cây cầu
dài nhất vừa bị phá hoại.
Sau khi công binh làm xong mấy cái cầu tạm, lưu thông họat động trở
lại. Do ứ động mấy hôm trước, nên ngày đầu tiên có khá nhiều xe đ̣
từ Sài G̣n chạy lên Đà Lạt. Hơn nữa bây giờ đang là mùa hè, người
Sài G̣n rủ nhau lên Đà Lạt nghỉ mát. Để bảo đảm an ninh, trước khi
xe chạy vào khu quân sự, đều phải dừng lại, tất cả hành khách xuống
xe để được kiểm soát giấy tờ. Trạm kiểm soát là một căn nhà bằng ván
do công binh vừa mới dựng lên, toán quân báo của đại đội tôi phối
hợp cùng với ba nhân viên cảnh sát đảm trách. Mỗi ngày tôi lái xe đi
kiểm tra các cây cầu và thường ghé lại ngồi nghỉ trong trạm kiểm
soát này.
Buổi chiều, trời vừa tắt nắng, tôi định trở về vị trí đóng quân, th́
một đoàn xe đ̣ chạy tới. Có lẽ đây là mấy cái xe cuối cùng từ Sài
G̣n lên. Anh cảnh sát bảo với tôi như thế. Trong số những hành khách
xuống xe bước qua cái cổng chắn làm bằng kẻm gai dă chiến, tôi để ư
tới một cô gái tóc vàng, mặc một cái jupe màu vàng sậm. Khi cô móc
ví lấy giấy tờ, ngước mặt lên nh́n anh cảnh sát, tôi thấy thật quen
và vội chạy ra. À, cô Sylvie Vartan, cô lên đây làm ǵ ? Tôi hỏi bất
ngờ, rồi quay sang bảo anh cảnh sát ; cô này là người nhà của tôi.
Anh cảnh sát trao lại cho tôi tấm thẻ căn cước bằng tiếng Tây mà anh
chưa kịp hiểu.
Cô nh́n tôi cười rạng rỡ :
- Anh là anh Ninh, phải không ? Mấy năm rồi tụi ḿnh không gặp. Em
lên Đà Lạt đón cô em về Sài G̣n nghỉ hè. Nó học trên Lycée Domaine
de Marie.
- Tôi đóng quân trong đồn điền trà nằm trên đồi cao kia.
Tôi vừa nói vừa chỉ tay về hướng đồn điền :
- Đẹp lắm, và ông chủ h́nh như cũng là người Pháp. Mời cô ghé lại
chổ tôi chơi. Tôi sẽ đón chuyến xe sau gởi cô về Đà Lạt.
Cô ngần ngừ một chút rồi gật đầu. Tôi đưa cô lại xe lấy túi hành lư
và nói với anh tài xế:
- Cô này là người nhà của tôi, cô ở lại đây chơi với tôi rồi lên Đà
Lạt sau.
Anh tài xế trẻ, nh́n tôi nhoẻn miệng cười.
Tối hôm ấy nàng ở lại với tôi. Có lẽ nàng cũng biết là chuyến xe của
nàng là chuyến cuối cùng. Chẳng c̣n có chuyến sau nào để tôi gởi
nàng lên Đà Lạt , như lúc tôi hăm hở nói với nàng, mà không biết là
ḿnh đang nói dối.
Giữa cảnh núi rừng, nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa. Không biết
nàng đă nói ǵ vơí ông chủ người tây, ông dành riêng cho cô một
pḥng ngủ và mời chúng tôi dùng bửa cơm chiều với ông. Bửa cơm đầy
đủ hương vị tây , mà chai rượu chát ông khoe đă gởi mua từ bên Pháp.
Sau bửa cơm, tôi đưa nàng đi dạo trong đồn điền trà.
Bây giờ đang là mùa hè, bầu trời trong vắt, ánh trăng tỏa ánh vàng
xuống cả một đồi trà. Đêm cao nguyên trời bắt đầu lành lạnh, thơ
mộng như một muà thu. Chúng tôi nắm tay nhau bước tung tăng dưới ánh
trăng , nghe từng nhịp đâp của trái tim giữa một vùng đất trời tĩnh
mịch. Nàng kể cho tôi nghe về một ước mơ của nàng : muốn có lần trở
về quê cha, thăm ngôi mộ của người và bà nội già c̣n đang sống ở đó
với mấy người cô. Quê nội nàng đẹp lắm lại là một đất nước với nhiều
thi ca lăng mạn. Chúng tôi đă xuống cuối chân đồi, nghe tiếng nước
chảy từ một con suối nhỏ. Nàng bảo tôi dừng lại và d́u tôi đến ngồi
xuống một bải cỏ. Bên kia con suối là một cánh đồng cỏ rộng mênh
mông .
- Anh có thấy ǵ lạ không ?
Tôi đang ngơ ngác, th́ nàng chỉ cho tôi mấy hàng cây bên kia bờ
suối.
- Bây giờ là mùa hè, mà sao có nhiều lá vàng đang rơi. Anh không
thấy sao?
Nàng âu yếm dựa sát vào tôi và hỏi tôi có biết bài thơ Les feuilles
mortes của Jacques Prevert không ?
- Lúc học Littérature Française , anh có học, nhưng lâu quá, anh chỉ
c̣n nhớ một đôi câu. Bài thơ thật hay và cảm động. Tôi đă đổi cách
xưng hô tự lúc nào không biết.
Nàng cất tiếng khe khẻ hát bài thơ Les feuilles mortes được phổ
nhạc. Hát xong bài hát nàng chậm răi đọc lại mấy câu:
Et la vie sépare ceux qui s'aiment
Tout doucement, sans faire de bruit
Et "le vent" effface sur la "plaine"
Les pas des amants désunis.
Tôi hỏi sao nàng dám đổi lời một bài thơ hay của tác giả. Nàng không
trả lời mà ôm tôi hôn thật lâu. Trong say mê tôi cảm thấy có cái ǵ
lành lạnh trên g̣ má. Tôi sờ tay lên mân mê: nước mắt.
Nàng ôm tôi ngồi khóc, nàng bảo là nàng có nhiều bạn bè, nhưng nàng
có cảm t́nh thật nhiều với tôi từ khi nh́n tôi mặc áo lính. Nàng
thấy ở tôi có cái ǵ khác lạ so với mọi chàng trai lai Pháp mà nàng
quen. Và cũng ở nơi tôi nàng được thấy lại h́nh ảnh của cha nàng.
Cũng làm lính cả một thời trai trẻ, rời quê hương, rồi chết sớm ở xứ
người bỏ lại mẹ và hai chị em nàng. Những người con gái mang hai
ḍng máu. Buồn lắm phải không anh ? mấy lần nàng hỏi tôi như thế.
Đêm hôm ấy nàng không ngủ trong căn pḥng sang trọng mà ông chủ đồn
điền đă dành sẵn cho nàng. Nàng ra ngồi trong căn lều phủ poncho của
tôi cùng uống trà tươi mà tâm sự thâu đêm. Nàng rủ tôi ngày mai cùng
nàng lên Đà Lạt vài ngày để nàng làm thủ tục đón cô em gái về và đưa
nàng đi thăm các thắng cảnh thơ mộng ở đây.
Sáng hôm sau, tôi lên máy gọi về trung tâm hành quân TK Lâm Đồng xin
gặp ông Tiểu Khu Trưởng, xin ông cho ba ngày phép và được xử dụng
chiếc xe jeep của TK biệt phái, đón người vợ sắp cưới vừa mới lên Đà
Lạt. Tôi tả oán thêm là cả một năm nay, phải tham dự nhiều cuộc hành
quân, nên hai đứa chưa được gặp nhau. Ông Tiểu Khu trưởng tốt bụng,
vui vẻ chấp thuận, và dặn ḍ tôi phải bàn giao công việc thật kỹ
càng cho anh đại đội phó.
Ba ngày ở Đà Lạt là ba ngày thần tiên nhất trong đời lính của tôi.
Sau khi đưa nàng đến trường thăm cô em gái và làm một số thủ tục cần
thiết, chúng tôi lấy pḥng ở khách sạn La Palace nằm trên một ngọn
đồi cao gần hồ Xuân Hương và cách khu phố Ḥa B́nh không xa lắm. Ban
ngày chúng tôi đi tắm ở thác Cam Ly, thăm hồ Than Thở, cỡi ngựa ở
sân Cù, bơi thuyền trên hồ Xuân Hương. Buổi tối đi ăn bê thui, uống
rượu vang, rồi ra nhà Thủy Tạ ngồi tâm t́nh đến khuya.
Ngày hôm sau, chúng tôi rời thành phố. Sau khi thưởng thức cà phê
Tùng, chúng tôi chạy về hướng thác Prenn. Nàng chỉ đường cho tôi t́m
đến một hotel nằm trên núi, ông chủ cũng là một người Tây. Lấy pḥng
và gởi hành lư xong, chúng tôi đi bộ xuống thác Prenn, nằm không xa
phía dưới. Nàng kéo tôi xuống tắm dưới ḍng thác. Hai đứa ôm nhau
trong cái lạnh của nước từ trên núi cao đổ xuống. Nàng dắt tôi chạy
vào khu rừng phía sau để đùa với mấy con khỉ, con gấu và cả một con
cọp nữa trong vườn bách thú. Rồi nàng đi trốn, giả vờ làm nàng Jane
mắc nạn để bắt tôi làm Tarzan đi cứu. Nàng ḥ la và ôm tôi cười vang
cả một khu rừng.
Trong ba ngày, nàng đă cho tôi tất cả những ǵ hạnh phúc nhất mà
không đ̣i hỏi ở tôi bất cứ một điều ǵ. Hôm cuối cùng, tôi đưa nàng
trở lại trường Domaine de Marie để gặp lại em nàng. Ngồi trên xe,
nàng trầm ngâm không nói một lời. Đến cổng trường, nàng bảo tôi dừng
lại. Nàng hôn tôi thật lâu. Tôi nghe tiếng nàng khóc. Tôi định nói
một lời ǵ đó, nhưng nàng lấy một ngón tay để trên miệng tôi, không
cho tôi nói, rồi bảo tôi ngồi yên trên xe chờ nàng. Hơn hai mươi
phút sau nàng chạy ra, cầm tay tôi và trao cho tôi một tờ giấy nhỏ,
rồi vụt chạy vào phía sau trường. Trên mảnh giấy nàng viết vội vàng
bằng tiếng Việt: Xin cám ơn và tạm biệt anh ở đây. Em và đứa em của
em sẽ về Sàig̣n vào sáng sớm ngày mai. Anh hăy trở lại đơn vị, đừng
chờ và cũng đừng t́m em nữa. Hôn anh.
Tôi vội vàng bước xuống xe, chưa biết gọi nàng bằng tên ǵ, th́ nàng
đă mất hút phía sau trường. Tôi ngồi trên xe nh́n thẩn thờ vào khu
trường. Tất cả đều vắng lặng, chỉ nghe một vài tiếng lá rơi từ những
hàng cây đứng chơ vơ im ĺm trước cổng.
Tôi trở lại nhà Thủy Tạ, t́m lại bóng dáng và mùi hương của nàng.
Buổi trưa, bốn bề yên lặng. Một con chim lạ, có dáng của một con hải
âu, đậu xuống con thuyền bơi phía trước, kêu vài tiếng, vụt cánh bay
sà xuống mặt hồ, rồi biến mất trong rừng thông. Cả một khung trời Đà
Lạt nhạt nḥa trong nước mắt. Tôi không biết ḿnh đă khóc tự bao
giờ.
Tôi lái xe trở về đơn vị mang theo một nỗi buồn kỳ lạ, dường như
trong ḷng chỉ c̣n là một khoảng trống bao la.
Suốt đêm hôm ấy, tôi lang thang trong đồi trà, ngồi một ḿnh bên bờ
con suối nhỏ, nh́n mấy chiếc lá vàng rơi xuống và trôi theo ḍng
nước, bàng bạc dưới ánh trăng. Nửa đêm tôi trở về căn lều cũ, đun
đầy một ấm trà tươi mà không uống.
Tôi ngủ vùi từ lúc nào không biết. Thức giấc, mặt trời đă lên cao.
Tôi vội vă xách xe chạy xuống trạm kiểm soát. Ngồi suốt cả ngày hôm
ấy, tôi vẫn không t́m thấy bóng dáng của nàng.
Hai ngày sau, khi thay bộ đồ trận ra giặt, tḥ tay vào túi áo lấy
mọi thứ ra, bất ngờ tôi thấy tấm thẻ căn cước của nàng, viết bằng
tiếng Pháp do ṭa đại sứ cấp. Tôi nhớ anh cảnh sát đă giao tấm thẻ
này cho tôi hôm ở trạm kiểm soát và tôi đă quên trả lại cho nàng.
Đến bây giờ tôi mới biết được tên thật của nàng: Jacqueline Cuvéro.
May mắn trong tấm căn cước có cả địa chỉ. Tôi gởi trả lại nàng tấm
thẻ căn cước, viết kèm theo bốn câu thơ trong bài thơ Les feuilles
mortes mà nàng yêu thích.
Les feuilles mortes se ramassent à la pelle
Les souvenirs et les regrets aussi
Mais mon amour silenscieux et fidèle
Sourit toujours et remercie la vie
Tôi phập phồng chờ thư hồi âm, nhưng không thấy. Tôi viết thêm vài
cái thư nữa cho nàng nhưng tất cả đều biệt vô âm tín. Ba tháng sau
tôi xin bảy ngày phép thường niên về Sàigon. Trước khi t́m đến nhà
nàng, tôi trở lại khu đường Lư Thái Tổ thăm gia đ́nh bà cô và rủ
người anh họ cùng đi. Anh bảo là nàng cùng cô em gái đă về định cư
bên Pháp hơn hai tháng nay. Không biết khi nào mới trở lại Việt Nam.
Tôi lang thang ở Sài G̣n hai ngày th́ lấy xe đ̣ về Nha Trang để thăm
cha tôi. Nhưng ngày nào tôi cũng đi lang thang trên bờ biển, nh́n
sóng đổ vào bờ cuốn theo tất cả mọi dấu chân ḿnh trên cát, và nhớ
đến nàng.
Tôi trở lại đơn vị, đúng vào lúc đại đôi tôi nhận lệnh rời khỏi Lâm
Đồng để di chuyển về Phan Thiết, tăng phái cho Tiểu khu B́nh Thuận,
hành quân phối hợp với một đơn vị thiết kỵ của Hoa Kỳ vừa mới đến
Việt Nam, giải tỏa mật khu Lê Hồng Phong.
Kể từ ngày ấy, trên bảng tên may trên nắp áo lính, ngay phía dưới
tên tôi, có thêu một chữ nhỏ: Jacqueline, màu vàng. Mấy thằng lính
bảo sao tôi lại có tên con gái. Tôi giă vờ: tại v́ tao ái mộ bà vợ
của Tổng Thống Kennedy.
***
Sáng ngày mai gia đ́nh chúng tôi phải rời nông trại GAULTIER thơ
mộng này để trở về Nauy. Vợ chồng anh chủ nhà cùng mấy cô con gái
của tôi đang rượt bắt mấy con gà Tây. Anh muốn đăi chúng tôi một bũa
ăn Tây truyền thống. Tôi đi lang thang khắp nơi trong khu nông trại,
như để cố t́m ra những dấu tích của nàng.
Buổi chiều, khi bà xă và mấy đứa con đang ngồi ở pḥng khách, say mê
theo dơi một cuốn phim trên truyền h́nh, tôi một ḿnh lặng lẽ ra
vườn cam, rồi vào khu nghĩa địa.
Tôi ngồi trước mộ nàng rất lâu, h́nh dung lại h́nh ảnh của nàng
trong những ngày cùng tôi trên đồn điền trà ở bên cây cầu Đại Ngà và
tung tăng khắp nơi ở bờ hồ, thác Prenn và trong rừng thông Đà Lạt.
Một cơn gió xào xạc, mấy chiếc lá vàng trên tàng cây chầm chậm rơi
xuống mộ nàng.
Tôi đưa tay sờ tấm ảnh nàng trên mộ bia, nói th́ thầm trong gió :
Et la chanson que tu me chantais
Toujours, toujours je l'entendrai!
(Và bài hát mà em đă hát cho anh nghe
Măi măi, măi măi, anh vẫn c̣n đang nghe đây)
Phạm Tín An Ninh
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại