LỜI NÓI ĐẦU:
Bài hồi kư này đă được đăng trên Đặc san Gươm Thiêng phát hành ngày 19-06-1985. Gần đây có vài hồi kư liên quan đến trận chiến tại eo biển Cà Ná Phan Rang mà HQ.11 đă tham dự. V́ thế, tác giả cố gắng viết lại bài hồi kư năm cũ bằng những điều mắt thấy tai nghe, cập nhật những dữ kiện mới cùng loại bỏ các chi tiết sai sót trước đây để ghi nhớ công lao của thuỷ thủ đoàn HQ.11. Nhớ một kỷ niệm vui trênđài chỉ huy một buổi tối năm xưa khi chiến hạm tham dự các cuộc di tản dồn dập trong tháng 4/1975, Hạm Trưởng thấy thuộc cấp qúa mệt mỏi trong nhiệm sở tác chiến liên tục, mới hỏi đùa một nhân viên giám lộ người miền Nam: “Phấn, mày có biết Hà Nội chưa?”. Hạ Sĩ giám lộ Phấn trả lời: “Dạ, chưa” th́ Hạm Trưởng tiếp: “Đời mày chưa biết Hà Nội, đến đời con mày sẽ không biết Huế, Đà Nẵng rồi đến đời cháu mày sẽ không biết Sài G̣n”. Cả đài chỉhuy cười vui mà thấm thía, tôi lúc đó mới buột miệng nói: “ Con cháu của Phấn không biết Huế, Sài G̣n nhưng chúng nó biết Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi thưa hạm trưởng”. Không ngờ câu nói đùa vui hôm đó đă là điềm báo trước cho cuộc đời tha hương lưu lạc nơi xứ người của phần lớn thủy thủ đoàn HQ.11. Bây giờ, Hạm Trưởng Hải QuânThiếu Tá Phạm Đ́nh San đang lưu lạc bên miền Nam California; Hạm Phó HQ. Thiếu Tá Trần Đức Huân trôi giạt sangđất Úc và đă ra người thiên cổ năm 1987; Sĩ quan đệ tam Hải quân Đại Úy Vũ Đức Thiệu cư ngụ tại Santa Ana từ năm 1991; Cơ Khí Trưởng HQ Trung Úy Cơ Khí Ngô Việt Hùng định cư tận vùng đất giá băng lạnh lẽo thành phố hải cảng Halifax, tiểu bang Nova Scocia, Canada; trưởng phiên chi đội 1 hải hành HQ. Trung Úy Nguyễn Lộc Thọđang định cư tại Montreal, Canada; trưởng phiên chi đội 2 HQ Trung Úy Huỳnh Thiện Khiêm đang ở Melbourne cùng vợ con và đàn cháu ngoại; trưởng phiên chi đội 3 HQ Trung Úy Nguyễn Đắc Minh (Khóa 25 Vơ Bị) sang Mỹmuộn màng theo diện HO cơ cực vất vả ở San Jose. Dù đă hơn 37 năm qua từ khi tàn cuộc chiến, nhưng mỗi khi tháng Tư về ḷng tôi vẫn ngậm ngùi nhớ lại những kỷ niệm năm xưa của một thời chinh chiến c̣n in đậm trong kư ức:
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài một tháng Tư.
(thơ Cao Tần)
Chiều ngày 31-03-1975 Hộ Tống Hạm HQ.11 được lệnh khẩn cấp từ Cam Ranh hải hành ra Qui Nhơn để bảo vệ thành phố này đang bị áp lực Cộng quân uy hiếp nặng nề. Trước đó chiến hạm đă di tản Duyên Đoàn 21 tại Đề Gi về căn cứ Cam Ranh. Qui Nhơn là thành phố phía Bắc của Quân Khu 2 thuộc khu vực trách nhiệm của Sư Đoàn 22 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Phan Đ́nh Niệm chỉ huy, bây giờ đang là ải địa đầu chống trả các đợt tấn công ồ ạt của các Sư Đoàn CS v́ Quân Khu 1 ở Đà Nẵng đă di tản từ hai ngày qua. Lúc ấy vào khoảng 6 giờ chiều ngày 31-03-1975, HQ.11 cón cách Qui Nhơn 50 hải lư, tôi lên đài chỉ huy nhận phiên trực hải hành từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Vừa bước lên đài chỉ huy, tôi nhận thấy một bầu không khí căng thẳng v́ đông đảo các sĩ quan hiện diện. Hạm Trưởng là Hải Quân Thiếu Tá Phạm Đ́nh San (Khóa 10 SQHQ/Nha Trang) bận rộn liên lạc trên máy truyền tin với các giới chức thẩm quyền tại Qui Nhơn, được biết t́nh h́nh tại đó đang nguy ngập cần gấp các chiến hạm đến yểm trợ hải pháo. Cùng lúc đó, chiến hạm tôi thấy lố nhố nhiều chiến hạm bạn đang trên đường từ Đà Nẵng di tản về, bắt đầu bằng những chấm đen nhỏ xa tít tắp từ cuối đựng chân trời. Đó là các chiến hạm chuyển vận thuộc hạm đội Hải Quân Việt Nam đang di tản các đại đơn vị của Quân Đoàn 1 như các Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn 2 và Sư Đoàn 3 Bộ Binh,...từ Đà Nẵng về Cam Ranh hoặc Vũng Tàu. Mọi người hiện diện trên đài chỉ huy đều ngỡ ngàng v́ không ngờ tướng Ngô Quang Trưởng lại để Quân Khu I thất thủ nhanh chóng đến như thế. Chiến hạm vẫn lặng lẽ tiến về phương Bắc, ngược chiều với các chiến hạm bạn đang lũ lượt di tản, chạy cách bờ khoảng 6 hải lư (tương đương gần 11 km). Mặt trời đang chiếu những tia nắng yếu ớt của buổi chiều tà, bóng tà dương tṛn đỏ thẫm đang từ từ lẩn khuất sau dăy Trường Sơn như giấu mặt để khỏi chứng kiến cảnh đau ḷng của quân dân miền Nam đang trốn chạy làn sóng đỏ. Khi mặt trời vừa khuất bóng, tiếng c̣i trên đài chỉ huy vang lên để cử hành lễ hạ kỳ. Mọi người đứng nghiêm chào lá quốc kỳ đang hạ xuống, sau đó chiến hạm bật đèn hải hành. Lúc đó các chiến hạm bạn đang tiến đến gần, đèn hải hành xanh đỏ lấp lánh cả một vùng biển trước mặt. Hạm Trưởng cho giám lộ đánh đèn để nhận diện từng chiến hạm. Thôi th́ đủ cả, nào là HQ.501,HQ.503, HQ.404, HQ.802, HQ.402, HQ.801.... Được biết Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang di tản trên chiến hạm HQ.404. Các chiến hạm nhỏ th́ chạy sát bờ chen lẫn các duyên tốc đĩnh PCF, Coast Guard, Yabuta,... Qua máy truyền tin, Hạm Trưởng HQ.501 là HQ Trung Tá Vơ Duy Kỷ (Khóa 11 SQHQ/Nha Trang) cho hạm trưởng tôi biết t́nh h́nh thê thảm tại Đà Nẵng và riêng cá nhân anh bị kẹt vợ con ngoài đó, lái tầu xuôi Nam mà ḷng anh đau như cắt. Đó là h́nh ảnh đau thương mà có lẽ trong đời tôi mới có dịp chứng kiến một quân đoàn di tản thê thảm như thế.
Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ.11
HQ.11 vẫn lặng lẽ ngược chiều với các chiến hạm bạn tiến về phương Bắc hướng về Qui Nhơn trong đêm. Sáng ngày 01-04-1975, chiến hạm yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh trong bờ. Thành phố đang rơi vào t́nh trạng nguy ngập, các đơn vị đóng quân của Tiểu Khu B́nh Định và Sư Đoàn 22 Bộ Binh đang bị Cộng quân pháo kích nặng nề. Doanh trại của Hải quân đóng cạnh cửa sông gồm Hải Đội 2 Duyên Pḥng và Tiền Doanh Yểm Trợ Tiếp Vận Qui Nhơn dưới quyền chỉ huy của HQ Trung Tá Vơ Hữu Danh và HQ Trung Tá Lê Văn Thự đang chuẩn bị di tản. Quanh cửa biển, các chiến hạm thuộc Hải Đội Tuần Dương đều hiện diện đông đủ dưới sự chỉ huy tổng quát của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, phụ tá bởi Tư Lệnh Hạm Đội là HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn. Tướng Minh đă được chỉ định chức vụ Tổng Trấn Qui Nhơn thay thế Chuẩn Tướng Phan Đ́nh Niệm di tản ra biển trên một chiếc PCF v́ kiệt sức ho ra máu chạy ra chiến hạm HQ.11. Hạm Trưởng tôi vội tŕnh sự việc cho tướng Minh vừa đến Qui Nhơn biết và được lệnh chỉ thị chiếc PCF chở tướng Niệm sang HQ.3 có tướng Minh để tịnh dưỡng, giao quyền chỉ huy lại cho viên Tư Lệnh Phó tên là Trung điều động sư đoàn di tản.
Buổi sáng hôm đó, Qui Nhơn hầu như đắm ch́m trong vùng lửa đạn, SĐ 22 BB đang bị VC tấn công dữ dội, Đại Tá Tư Lệnh Phó Trung đă b́nh tĩnh điều động các trung đoàn dưới quyền đẩy lui các đợt tấn công, khéo léo rút dần vào thành phố để ra cửa biển cho các tàu nhỏ Hải quân bốc ra khơi. Khoảng 10 giờ sáng, doanh trại Hải quân được lệnh phá hủy, đài kiểm báo cũng đốt bỏ trước khi di tản. HQ.11 đă đón nhận khoảng trên 200 quân nhân Hải Quân di tản này. Trên mặt biển, các duyên tốc đỉnh PCF dưới sự chỉ huy của Trung Tá Danh lướt sóng chạy ngang dọc và bắn súng cối 81 ly vào bờ để yểm trợ các đơn vị bạn trên đường rút ra biển di tản. Trong lúc hải pháo, một duyên tốc đỉnh đă bị tai nạn khi quả đạn 81 ly nổ tại ṇng khiến cho xạ thủ tử thương tại chổ. Đến trưa 01-04-1975 Cộng quân đă tiến chiếm nhiều nơi trong thành phố, các đơn vị bộ binh trên đường rút lui đă bị VC pháo kích đuổi theo gây nhiều tổn thất về nhân mạng. Tướng Hoàng Cơ Minh liền ra lệnh tất cả chiến hạm được phép xử dụng hỏa lực tối đa bắn vào các vị trí CS trong thành phố. Tư lệnh Hạm Đội liên tục gọi máy cho chiến hạm tôi bắn hải pháo vào bờ. Hạm Trưởng v́ mấy ngày liền nói chuyện, ḥ hét trên máy truyền tin nên bị khan giọng mệt lả. Các chiến hạm đồng loạt nă hải pháo vào bờ, gây ra những đám cháy với những cột khói đen mù mịt bầu trời. Nhờ thế mà các đơn vị Bộ Ch́ Huy 2 Tiếp Vận, Tiểu Khu và các Trung Đoàn của SĐ22BB mở đường máu chạy ra bờ biển và bơi ra các chiến đỉnh. Sau này chúng ta ghi nhận một tấm gương tuẫn tiết thật can trường của vị Đại Tá Trung Đoàn trưởng TrĐ.42 BB Nguyễn Hữu Thông đă tự sát không chịu di tản.
Đến 4 giờ chiều, trong lúc HQ.11 đang say sưa nă 76,2 ly vào khu vực Cầu Đôi và trận chiến càng khốc liệt hơn với từng toán quân nhân túa ra bờ biển di tản th́ máy truyền tin nhận được tin khẩn cấp từ Trung Tâm Hành Quân Vùng 2 Duyên Hải tại Cam Ranh cho biết Nha Trang đang hối hả di tản, thành phố đang bỏ trống v́ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2 của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú đă hoàn toàn mất liên lạc. Tướng Hoàng Cơ Minh chỉ thị cho chiến hạm tôi chỉ huy một chiếc Hộ Tống Hạm và một Trợ Chiến Hạm lập tức trở về Cam Ranh ngay, bỏ lại sau lưng cảnh chiến trường khốc liệt với lửa đạn ngút trời. Vài giờ sau, tin xấu lại nhận thêm là Tiểu Khu Khánh Ḥa, Đặc Khu Cam Ranh, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang do Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu làm Chỉ Huy Trưởng đă di tản. Tướng Minh vội huy động các chiến hạm, chiến đĩnh tác xạ tối đa và tiến sát vào bờ để bốc các chiến hữu bộ binh càng nhiều càng tốt. Sau đó, ông giao chiến trường lại cho HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn chỉ huy, tướng Minh theo HQ.3 rời vùng trở về Cam Ranh trước. Thế là chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, t́nh h́nh chiến sự đă suy sụp quá mau chóng, ngoài sức dự liệu của các cấp chỉ huy, tướng Minh đă trúng kế “điệu hổ ly sơn” của thượng cấp khi chỉ định ông làm Tổng Trấn Qui Nhơn khiến ông bỏ nhà trống, dốc toàn lực lượng ra chiến đấu tận Qui Nhơn xa xôi này, trong khi Cam Ranh và Nha Trang đang bỏ chạy. Đêm hôm đó, đi phiên hải hành ai nấy đều mỏi mệt, kinh hoàng v́ các biến cố đau xót ập xuống đất nước dồn dập. Trên hệ thống âm thoại đêm đó, tôi nghe được giọng nói lo âu của HQ Đại Tá Nguyễn Văn Hớn Tư Lệnh Phó V2DH báo cáo t́nh h́nh cho tướng Minh:
- Tŕnh thẩm quyền, nhà lớn hiện nay đă mất liên lạc với Quân Đoàn 2, Tiểu Khu Khánh Ḥa, TTHL/HQ/Nha Trang, Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận cùng tất cả các đơn vị bộ binh tại đây. Chỉ c̣n duy nhất Hải Quân tại bán đảo này. Xin thẩm quyền cho chỉ thị để tôi thi hành.
Tướng Minh vẫn điềm tĩnh, giọng nói dơng dạc trong máy:
- Tôi nhận rơ, anh ở nhà cố gắng điều động thuộc cấp giữ vững vị trí, chờ tôi về.
- Thẩm quyền cho biết bao giờ mới về tới nhà lớn? (Cam Ranh)
- Khoảng 4 giờ chiều mai.
Đến 6 giờ chiều 02-04-1975 chiến hạm tôi về đến vịnh Cam Ranh chở hơn 200 quân nhân Hải Quân di tản, chiến hạm nhận lệnh neo, chờ lệnh mới chứ không được phép cặp cầu. Tướng Minh đă về đến trước đó vài giờ, ông vừa điều động BTL/V2DH chuẩn bị di tản và xin lệnh của Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Phó Đề Đố Diệp Quang Thủy nhiều lần lên máy bảo chờ lệnh Bộ Tổng Tham Mưu. Từng giây phút căng thẳng chờ đợi chậm chạp trôi qua, tướng Minh phải thúc hối măi, cuối cùng mới nhận được lệnh ngắn gọn từ tướng Thủy: “RÚT BỎ CAM RANH”. Thế là một căn cứ hải quân tối tân, đầy đủ tiện nghi rộng lớn phút chốc được lệnh phá hủy, đặc biệt là kho đạn, bồn dầu, trung tâm truyền tin điện tử... Cuối cùng đoàn hạm đội rút khỏi vịnh Cam Ranh chở theo một số lớn đồng bào, chiến hữu di tản một lần nữa về Vũng Tàu. Trên đường xuôi Nam, chiến hạm tôi đă khéo léo tước đoạt vũ khí cá nhân của tất cả quân nhân quá giang để tránh sự nổi loạn trên tàu.Khi đến Vũng Tàu, chiến hạm cặp vào cầu Alaska trong Căn Cứ Hải Quân Cát Lở để cho số quân dân di tản lên bờ. Nghỉ bến chỉ được một ngày, chiến hạm tôi sau khi đi chợ mua thực phẩm, tiếp tế nhiên liệu, nước ngọt đầy đủ lại nhổ neo lên đường ra tăng phái cho chiến trường Phan Rang cùng với các chiến hạm tuần dương khác.Sáng ngày 05-04-1975 chiến hạm tôi có mặt tại vùng biển Phan Rang. Được biết tỉnh lỵ này cũng đang hỗn loạn, Đại Tá Tự là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng đă bỏ nhiệm sở di tản về Vũng Tàu trước đó, nhưng sau ông phải nhận lệnh trở lại Phan Rang tử thủ.Trong những ngày chiến hạm tôi yểm trợ vùng biển này, có lần HQ.11 được lệnh ra thám sát t́nh h́nh tại vịnh Cam Ranh. Từ ngoài khơi cách bờ 3 hải lư, quan sát bằng ống nḥm, chúng tôi đă thấy bóng Cộng quân xuất hiện, lá cờ xanh đỏ đă treo trên cột cờ. Hạm Trưởng liền gọi máy báo cáo cho tướng Hoàng Cơ Minh biết rơ sự t́nh, tướng Minh liền xin máy bay ra oanh tạc.Hiện nay, khu vực trách nhiệm của tướng Minh thu hẹp chỉ c̣n hai tỉnh Phan Rang và Phan Thiết mà thôi. Trong thời gian này chúng tôi nhận một cái tin đau buồn cho quân chủng là thủ khoa khóa 9 SQHQ/Nha Trang là HQ Trung Tá Hà Ngọc Lương đă tự sát tại quân trường Nha Trang cùng với vợ và 3 đứa con v́ bị kẹt lại không xuống tàu di tản kịp
Sau những ngày bi thảm đầu tháng Tư, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đă ra lệnh Phan Rang lập thành “Pḥng Tuyến Lửa”nhằm ngăn chận làn sóng đỏ tại nơi quê hương của Tổng Thống. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được giao phó trọng trách này, giữ chức Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, dưới quyền có Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh Tư Lệnh Hải Quân Vùng 2 Duyên Hải. Ngoài ra Phan Rang c̣n được tăng phái thêm Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù do Đại Tá Nguyễn Thu Lương chỉ huy. Trong thời gian này, tỉnh lỵ B́nh Thuận bị áp lực Cộng quân nặng nề, tỉnh lỵ bị pháo kích từng đợt không dứt.
Sáng ngày 16-04-1975 Phan Rang bị thất thủ, Trung Tướng Nghi và Chuẩn Tướng Sang lọt vào tay Cộng quân , Chuẩn Tướng Nhựt leo trực thăng bay thoát ra biển được tuần dương hạm HQ.3 cứu vớt. Phan Rang mất, Phan Thiết bị áp lực CS đè nặng hơn v́ ban đêm từng đoàn quân xa của địch rất dài rọi đèn pha tiến về phương Nam, từ ngoài khơi nh́n thấy rất rơ tại eo biển Cà Ná. Đêm hôm đó, HQ.11 cùng với một số chiến hạm vẫn tuần tiễu vùng biển Phan Rang, phát hiện từng đợt quân xa địch pha đèn chạy trên quốc lộ 1 ngang Cà Ná dài cả mấy cây số. Chiến hạm vội nă đại bác vào bờ, đồng thời báo cáo cho tướng Minh xin phi cơ ra oanh tạc. Hai phi đội F.5 và A.37 bay đến oanh tạc, bị lực lượng pḥng không địch bắn trả dữ dội, đạn lửa đan kín một vùng trời. Một máy bay A.37 bị bắn rớt, phi công nhảy dù đáp trên một ngọn núi (có thể là phi công Lư Tống).
Sáng ngày 17-04-1975 toàn tỉnh Phan Rang hầu như nằm trong vùng kiểm soát của CS,chỉ c̣n kẹt lại một vài đơn vị nhỏ Nhảy Dù đang kẹt gần eo biển Cà Ná, chuẩn bị rút về quận lỵ Tuy Phong cách đó 10 km để chờ các tàu Hải Quân vào đón. Dương Vận hạm HQ.503 đang thả neo ngoài khơi cách bờ 5 hải lư, chỉ huy chiến thuật các chiến hạm trong vùng đang nhận người di tản chạy ra tàu. Trong lúc đó, tướng Minh đang trên HQ.17 ra đây để trực tiếp chỉ huy, ông đích thân chỉ thị cho Hạm Trưởng tôi phải bắn sập cây cầu Núi Chẹt tại eo biển Cà Ná để cắt đứt đường chuyển quân của địch vào Phan Thiết. Được biết cây cầu này rất kiên cố, được hăng thầu RMK xây cất nên khó ḷng triệt hạ được.
Tuân lệnh tướng Minh, chiến hạm tôi trong nhiệm sở tác chiến toàn diện suốt ngày hôm đó, tiến vào gần bờ và chạy song song để hai khẩu 76,2 và 40 ly cùng đồng loạt tác xạ. Bắn nhiều lần nhưng cây cầu vẫn cứ trơ trơ. Trong khi đó, viên phi công lâm nạn trên ngọn núi đêm qua, thỉnh thoảng dùng tấm gương rọi ánh nắng mặt trời ra chiến hạm xin tiếp cứu. Chiến hạm chỉ biết xử dụng quang hiệu đánh đèn an ủi viên phi công, nhưng biết làm sao mà tiếp cứu đây!
Đến 2 giờ chiều, đơn vị Dù bị VC tấn công dồn dập, được lệnh mở đường máu tiến về quận Tuy Phong để các chiến đỉnh thuộc Duyên Đoàn 27 đón ra khơi. Hạm Trưởng nóng ḷng v́ bắn măi không triệt hạ được cây cầu nên đổi chiến thuật, vận chuyển chiến hạm từ ngoài khơi nhắm thẳng vào cây cầu để cho khẩu pháo 76,2 bắn thẳng từng phát vào chân cầu, nhưng kết quả vẫn chưa như ư. Khi tàu c̣n cách bờ nửa hải lư, bất ngờ 4 chiếc xe tăng T.54 của VC lù lù xuất hiện, pháo ra chiến hạm tới tấp. Con tàu vội vận chuyển đổi hướng ra khơi, Hạm Trưởng ra lệnh tay lái hết bên trái, đồng thời tăng vận tốc từ “hai máy tiến hai” sang thành “hai máy tiến ba”(chiến hạm bị cong trục láp từ trước, chưa được lên ụ sửa chữa nên không thể chạy “hai máy tiến full” được). Lúc đó, tôi đứng trên đài chỉ huy, nh́n vào trong bờ thấy 4 khẩu pháo trên xe tăng VC đua nhau chớp lửa,từng quả đạn rít gió bay ra chiến hạm âm thanh réo rú đến rợn người, rớt xuống biển nổ vang tạo nên những cột nước trắng xóa bao quanh chiến hạm. Hạm Trưởng vẫn điềm tĩnh lái tàu ra khơi, đồng thời ra lệnh cho các khẩu pháo sau đài chỉ huy tác xạ vào bờ phản pháo. Con tàu lắc lư, máy tàu gầm rú chạy xịt khói, chân vịt rung chuyển khua vang cùng các khẩu hải pháo đua nhau nổ ṛn ră như tiết tấu bản nhạc của tử thần.
Măi hơn mười phút sau, con tàu mới chạy thoát khỏi tầm đạn của đối phương. Hai khẩu đại bác 40 ly ở sân giữa v́ bắn trả liên tục quá nhiều nên nóng đỏ cả ṇng súng, viên đạn không bay đi xa được. Kiểm soát lại sự tổn thất, chiến hạm tôi chỉ bị trúng duy nhất một quả đạn xuyên hông từ tả hạm lúc con tàu quay mũi đổi hướng ra khơi đưa cả hông tàu cho VC bắn, làm cho Thượng Sĩ I Vô Tuyến Nguyễn Văn Bàng tử thương và hai thủy thủ khác bị thương nơi xương sống. Đau xót cho Thượng Sĩ Bàng, đêm qua anh vừa nhận điện tín vợ con đă di tản từ Nha Trang vào đến Sài G̣n. Tin vui vừa nhận được c̣n đó th́ nay anh đă đền nợ nước, vĩnh biệt vợ hiền con thơ, vĩnh biệt các chiến hữu cùng anh chống trả bọn Cộng sản vô thần trong những ngày tối đen của tổ quốc. Hạm Trưởng với nét mặt đầy xúc động, lên máy báo cáo trực tiếp cho tướng Minh:
- Tŕnh thẩm quyền, chiến hạm tôi vừa đụng độ với xe tăng T.54 Việt Cộng, một thằng em bị bắn nát đầu thê thảm quá, hai thằng em khác bị thương. Bây giờ nghĩa tử là nghĩa tận, xin phép thẩm quyền cho tôi được rời vùng để đưa các em tôi về Sài G̣n. Đầu máy bên kia, tướng Minh ngỏ lời chia buồn và khuyên giải:
- Nhân danh Tư Lệnh Mặt Trận, tôi gửi lời chia buồn đến toàn thể thủy thủ đoàn HQ.11 và chia buồn cùng gia quyến chiến hữu vừa mới hy sinh. Nhưng t́nh h́nh mặt trận tại đây quá nguy ngập, đang cần sự có mặt của anh để cùng tôi bảo vệ vùng biển này. Tôi sẽ không quên công lao đó của các anh em, vậy anh nghĩ sao?
- Xin tuân lệnh thẩm quyền, HQ.11 sẽ sát cánh với thẩm quyền trong những giờ phút này. Đề nghị thẩm quyền cấp phương tiện cho tôi để đưa xác và tải thương các em tôi về Sài G̣n.
- Được, tôi sẽ phái thằng HQ.608 đến giúp anh việc đó.
Khoảng 7 giờ tối, tuần duyên hạm HQ.608 cặp bên tả hạm HQ.11 để tải thương và đưa thi hài Thượng Sĩ Bàng về Sài G̣n. Thủy thủ đoàn HQ.11 tập họp nơi sân lái để làm lễ tiễn đưa vĩnh biệt Thượng Sĩ Bàng. Nh́n xác anh mất đầu được bó gọn trên chiếc băng ca khiến anh em đều bồi hồi thương xót. Hạm trưởng ứng khẩu đọc một bài điếu văn tiễn biệt. Vẫn biết rằng cuộc đời lính chiến th́ cái chết ập xuống bất ngờ nào ai tránh khỏi, nhưng nhiều anh em đă khóc v́ tiếc thương anh. Xong phần nghi lễ, xác anh được chuyển sang HQ.608 cùng với một số nhân viên tháp tùng do Thượng Sĩ Trọng Pháo Tiếp làm trưởng toán để tham dự tang lễ của anh. Sau này nghe các anh ấy về kể lại, khi HQ.608 cặp cầu Cát Lái, xác anh được đưa thẳng vào nghĩa trang quân đội Biên Ḥa, sau đó mới báo tin cho vợ con vào nh́n anh lần cuối. Vợ anh đă khóc ngất khi nh́n thấy thi thể anh, kêu gào thảm thiết: “Cái đầu của chồng tôi đâu? Trả cái đầu lại cho chồng tôi!!” làm cho mọi người hiện diện đều rướm lệ:
Anh mặc làm chi màu áo trắng
Để em nh́n thấy lại thêm thương
Anh ơi, sao nỡ chia lià vội
Để lệ ai rơi mấy dặm đường
(thơ Thụy Châu)
Đó là h́nh ảnh cái chết của một chiến hữu của tôi trên chiến hạm HQ.11 trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam mà tôi mạn phép tường thuật mất ḍng tỉ mỉ trên đây.
Dương Vận Hạm Vũng Tàu HQ.503
Sáng ngày 18-04-1975 t́nh h́nh tại Cà Ná đă quá nguy ngập, các đơn vị bạn tại đây đều bị chận đường di tản và mất liên lạc, chỉ có một số nhỏ chạy thoát xuống quận Tuy Phong. Hộ Tống Hạm HQ.07 vào thay thế HQ.11 tiến vào gần bờ để yểm trợ bị VC pháo ra dữ dội nhưng may mắn vô sự. Khoảng 5 gị rưỡi chiều, Dương Vận Hạm HQ.503 đang ở vị trí cách bờ 4 hải lư (khoảng 7 cây số, một hải lư = 1852,25m) bị Cộng quân pháo ra dồn dập. Đài chỉ huy bị trúng đạn nổ tung, gây nhiều tổn thất thương vong cho thuỷ thủ đoàn (trong đó có 4 sĩ quan hy sinh) và Hạm Trưởng HQ Trung Tá Nguyễn Văn Lộc bị thương ở đầu. Hạm Trưởng Lộc đă trúng mảnh đạn vào đầu, máu tuôn lênh láng. Ông đă mang mảnh đạn trong đầu khi di tản tị nạn sang Hoa Kỳ 1975, không thể giải phẩu mổ ra được suốt 30 năm trường, cuối cùng ông đă qua đời tại San Jose, California năm 2005. Các chiến hạm trong vùng vội chạy đến tiếp cứu và hải pháo vào nơi đặt súng của Cộng quân.
Riêng HQ.11 đang neo ở phía Nam cách đó 2 hải lư, vội vàng nhấn c̣i nhiệm sở vận chuyển và tác chiến đồng loạt, kéo neo vừa chạy vừa bắn 76,2 vào bờ. Tôi thấy HQ.503 cứ chập choạng quay mũi vào bờ, trong khi các trái đạn pháo nổ văng nước tung tóe quanh tàu, lúc bị trúng đạn th́ bụi khói đen như trái nấm tung lên. Măi một lúc lâu, HQ.503 mới lên máy liên lạc, báo cáo trở ngại vận chuyển. Hạm Trưởng tôi vội ban lệnh cho thủy thủ đoàn chuẩn bị dây gịng để đến kéo HQ.503. Thủy thủ đoàn tập họp nơi sân giữa, chuyền tay kéo từng khúc dây gịng to tướng như con trăn từ dưới hầm chuyển lên làm cho ai nấy đều mệt lả v́ cuộn dây quá dài. May mắn làm sao, HQ.503 lúc đó báo cáo tự vận chuyển được và cũng là lúc tướng Hoàng Cơ Minh lên máy chỉ thị cho HQ.11 được phép rời vùng và hộ tống HQ.503 về Sài G̣n.
Trên đường hải hành, khoảng 9 giờ tối đêm hôm đó, chiến hạm đang chạy ngang vùng biển Phan Thiết th́ cũng vừa nhận tin tỉnh lỵ này vừa thất thủ, viên Đại Tá Tỉnh Trưởng đă chạy đến Duyên Đoàn 28 để xuống tàu di tản ra khơi và trên đường đến tŕnh diện tướng Minh. Thế là toàn cơi Quân Khu 2 đă hoàn toàn thất thủ kể từ tối 18-04-1975 sau nhiều cố gắng ngăn chận làn sóng đỏ bất thành. Nửa đêm đó, tôi lên phiên trực hải hành, nghe trên hệ thống âm thoại HQ.503 báo cáo về Trung Tâm Hành Quân Biển tại Sài G̣n danh sách tổng cộng 25 chiến hữu thương vong mà ḷng buồn năo nuột. Khoảng 10 giờ sáng 19-04-1975, chiến hạm tôi và HQ.503 đă về tới cửa biển Vũng Tàu. HQ.503 được lệnh vào sông Ḷng Tào về Sài G̣n sửa chữa khẩn cấp dưới sự hộ tống của các chiến hạm khác. HQ.11 nhận lệnh neo tại Vũng Tàu nghỉ bến, đi chợ mua thực phẩm, nhận tiếp tế đạn dưọc, nhiên liệu, nước ngọt chuẩn bị cho chuyến công tác sắp tới. Đồng thời, chiến hạm được thay thế hai ṇng súng 40 ly mới. Thủy thủ đoàn rất mệt mỏi và tinh thần căng thẳng v́ tham dự các trận chiến khốc liệt liên tiếp suốt mấy tuần qua.
Nghỉ bến được 36 tiếng, đúng 1 giờ sáng ngày 21-04-1975 chiến hạm nhận lệnh sẳn sàng nhổ neo lên đường công tác. Phó Đề Đốc Vũ Đ́nh Đào Tư Lệnh Hải Quân Vùng 3 Duyên Hải từ một chiếc duyên tốc đĩnh cặp vào và được Hạm Trưởng đón tiếp lên tàu, cờ một sao Đô Đốc được kéo lên bay phất phới trên cột cờ. Chiến hạm kéo neo hải hành ra mặt trận B́nh Tuy trực tiếp chỉ huy vùng lănh hải trách nhiệm của ông thay thế cho tướng Hoàng Cơ Minh. Khoảng 8 giờ sáng, chiến hạm tôi đă đến nơi, vẫn đông đủ các chiến hạm bạn quanh vùng. HQ.11 từ từ cặp vào HQ.16 đang có mặt tướng Minh ở đó, tướng Minh vẫn tươi cười giơ tay vẫy chào tướng Đào. Khi chiến hạm vừa cặp xong, tướng Minh cùng với Hạm Trưởng HQ.16 là HQ Trung Tá Lê Văn Th́ sang thăm viếng tàu tôi. Hạm Trưởng San đă hướng dẫn nhị vị tướng quân đi quan sát chỗ tàu tôi bị trúng đạn, lỗ đạn bắn thủng thành tàu và xuyên phá qua 5 lớp vách tàu rồi xuyên ra ngoài. Tướng Minh đă ngỏ lời ngợi khen ḷng dũng cảm của toàn thể thủy thủ đoàn và hứa sẽ tưởng thưởng xứng đáng. Sau đó, tướng Minh bàn giao vùng trách nhiệm cho tướng Đào để trở về Sài G̣n nhận nhiệm vụ mới. Vài ngày sau, ông đă giữ đúng lời hứa, gửi công điện ra chiến hạm tôi ban thưởng rất nhiều huy chương và cho 2 nhân viên được thăng cấp đặc cách. Hạm Trưởng đă gửi phiếu tŕnh đề nghị thăng cấp đặc cách cho Cơ Khí Trưởng là HQ Trung Úy Cơ Khí Ngô Việt Hùng và Hạ Sĩ I Vận Chuyển Viễn
Sau khi tướng Đào và bộ tham mưu sang HQ.16, chiến hạm tôi sang cặp chiếc Hải Vận Hạm HQ.400 để nhận lănh thêm một số đạn đại bác. Tôi đă gặp vài người bạn trên chiến hạm này, ai nấy đều tay bắt mặt mừng, hỏi han nhau về những tin chiến sự dồn dập vừa qua, cùng th́ thần to nhỏ tính toán chuyện đời ḿnh nếu miền Nam sụp đổ. Các chiến hạm về Vũng Tàu đều dự trữ lương thực, gạo chất đầy kho, cá khô, nước mắm đóng thùng bốc mùi tanh tưởi..
Được những giây phút hiếm hoi hai chiến hạm cận kề bên nhau, hai hạm trưởng rút vào pḥng riêng tâm t́nh bàn thảo, hai thủy thủ đoàn từng nhóm tụ lại với nhau bên ly cà phê nóng chuyện tṛ, đồng thời cùng xem tivi trên HQ.400 để theo dơi tin tức. Suốt mấy tuần qua, mọi người đều chăm chú nghe ngóng tin tức đột biến trong các giờ phát thanh của đài BBC,VOA...mà đau xót, thở dài lo âu cho t́nh h́nh đất nước và thân phận ḿnh. Bây giờ hai vị hạm trưởng này đều di tản sang Hoa Kỳ và định cư tại miền Nam California vùng Little Saigon (HQ Trung Tá Vơ Quang Thủ Hạm Trưởng HQ.400).
T́nh cờ, chúng tôi được chứng kiến một quang cảnh lịch sử trên màn ảnh truyền h́nh đang trực tiếp tường thuật buổi lễ trao quyền Tổng Thống tại Dinh Độc Lập: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Lắng nghe bài diễn văn từ chức của ông Thiệu, chúng tôi đều thở dài ngao ngán. Ông Thiệu đă chửi Mỹ thậm tệ, tố cáo bạn đồng minh phản bội. Kết thúc bài diễn văn, ông Thiệu không quên hứa với đồng bào là tuy ông từ chức Tổng Thống, đồng bào sẽ có thêm một chiến sĩ, quân đội có thêm một trung tướng chiến đấu chống bọn Cộng sản đến cùng!!! Nhưng chỉ 4 ngày sau ông Thiệu đă nuốt lời hứa, cao chạy xa bay rời bỏ quê hương sang Đài Loan tối 25-04-1975 , bỏ lại đất nước và đồng bào bơ vơ sắp rơi vào gông cùm Cộng sản.
Yểm trợ mặt trận Hàm Tân được hai ngày th́ tỉnh lỵ này lại bị Cộng quân tràn ngập. Quân ta trước khi di tản xuống tàu đă phá hủy kho đạn, phi trường cùng chiếc vận tải cơ C.130 bất khiển dụng tại đó. Đoàn hạm đội lại xuôi về Nam bảo vệ quận lỵ Xuyên Mộc.Thế là vùng hoạt động của Hải quân từ nay chỉ c̣n vỏn vẹn vùng đồng bằng đến mũi Cà Mau.
Sáng ngày 24-04-1975, chiến hạm tôi được lệnh thẳng từ Trung Tâm Hành Quân Biển tại Sài G̣n tăng phái cùng 3 tuần dương hạm ra tái chiếm lại quần đảo Trường Sa.Trước đó, lực lượng trú pḥng tại đảo này báo cáo về Sài G̣n là các chiến hạm của Hải quân Trung Cộng đă tới chiếm đảo. Nhớ lại ngày 19-01-1974, bốn chiến hạm của HQ/VN đă hải chiến một trận kịch liệt với các chiến hạm Trung Cộng gây nhiều tổn thất thương vong cho cả hai bên, đặc biệt chiến hạm cùng loại với chiến hạm tôi là HQ.10 bị ch́m.
Tuân lệnh trên, HQ.11 cùng với ba chiến hạm bạn theo đội h́nh trực chỉ ra Trường Sa. Thủy thủ đoàn bận rộn chuẩn bị ôn tập lại các nhiệm sở, nào là tác chiến, pḥng không, đào thoát... để sẳn sàng trận hải chiến sắp tới. Nhưng vài tiếng đồng hồ sau dó, khi các chiến hạm đă rời xa đất liền th́ Sài G̣n gọi máy ra hủy bỏ lệnh hành quân đó và chỉ thị các chiến hạm quay về vùng công tác cũ. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhơm..
Trở lại vùng biển Xuyên Mộc, tôi thấy các chiến hạm bạn đang bận rộn yểm trợ hải pháo cho các đơn vị bộ binh trong bờ. Khoảng nửa đêm 24-04-1975 Phó Đề Đốc Vũ Đ́nh Đào chỉ thị chiến hạm tôi cùng với chiếc tuần duyên đĩnh HQ.712 ra đảo Phú Quư để thiết lập đầu cầu di tản. Được biết đảo Phú Quư nằm ngoài khơi tỉnh Phan Thiết, cách đất liền 110 hải lư (200 km), nằm trên hải đạo từ Vũng Tàu đi Phi Luật Tân. Dân cư sinh sống trên đảo rất trù phú nhờ sinh sống bằng nghề đánh cá khá phát đạt.
Khoảng 7 giờ sáng ngày 25-04-1975, HQ.11 cùng với HQ.712 đang lặng lẽ rẽ sóng hướng ra đảo Phú Quư th́ phát hiện một chiến hạm Mỹ đang theo sát chúng tôi. Lúc ấy, mặt trời vừa ló dạng trước mũi chiến hạm, biển thật êm, tôi thấy chiến hạm Mỹ chạy song song với chiến hạm tôi khoảng cách 3 hải lư, bắt đầu dùng quang hiệu hỏi chúng tôi:
- What ship? Chúng tôi trả lời quang hiệu bằng tiếng Anh:
- Chiến hạm của Hải quân Việt Nam HQ.11. Chiến hạm Mỹ tiếp tục đánh đèn hỏi:
- Các anh là Hải quan miền Bắc hay Nam Việt Nam?
- Nam Việt Nam.
- Các bạn đi đâu?
Bị tra hỏi lôi thôi, hạm trưởng và mọi người trên đài chỉ huy đều bực dọc, buột miệng chửi thề. Ai đời trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam Cộng Ḥa mà một chiến hạm đồng minh dám xấc xược tra khảo láo lếu như thế. Hạm trưởng giận tím mặt, chửi thề om ṣm, ra lệnh cho giám lộ đánh đèn trả lời:
- Chúng tôi đang thi hành công tác đặc biệt.
Khu trục hộ
tống hạm USS Knox FF.105
Nhận được câu trả lời như thế, chiến hạm Mỹ liền tăng máy tiến nhanh về hướng chiến hạm tôi. Hơn mười phút sau nó đă đến sát tàu tôi với các khẩu đại bác đều chĩa thẳng vào chiến hạm tôi. Chúng tôi nhận ra đây là chiếc USS.1052. Hạm trưởng vội liên lạc máy về Sài G̣n để can thiệp với Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ tránh ngộ nhận. Từng giây phút chậm chạp trôi qua, chiến hạm Hoa Kỳ chạy song song với tàu tôi với thái độ thiếu thân thiện. Hạm trưởng cho giám lộ đánh đèn với tàu Mỹ để nói chuyện bằng máy truyền tin VRC.46. Vài phút sau, hạm trưởng đă đàm thoại với hạm trưởng Mỹ bằng tiếng Anh để giải tỏa t́nh trạng căng thẳng và sau đó tàu Mỹ đă bỏ đi mất dạng.
Chiến hạm tôi vẫn tiếp tục hải hành và khoảng 1 giờ trưa th́ đến đảo Phú Quư và thả neo cách bờ khoảng nửa hải lư tại phía Nam ḥn đảo này. Từ ngoài khơi nh́n vào trong bờ, tôi nhận thấy dân chúng nơi đây có vẻ an cư lạc nghiệp, thái b́nh với những căn nhà gạch lợp ngói đỏ ẩn nấp bên những hàng dừa xanh sai trái. Chỉ một giờ sau có một ghe nhỏ chở viên Xă Trưởng cùng với ba viên Thiếu Úy Phân Chi Khu Trưởng đại diện chính quyền địa phương ra tiếp đón. Các viên chức này báo cáo cho chúng tôi biếtlà đảo đă mất liên lạc với đất liền từ mười ngày qua và đang sống trong t́nh trạng lo âu. Trên đảo đang chứa rất đông đồng bào từ đất liền chạy trốn thảm cảnh chiến tranh và đang lánh nạn tại đây. Hạm Trưởng liền báo cáo tin tức sơ khởi về Sài G̣n và đề cử Hạm Phó là HQ Thiếu Tá Trần Đức Huân lên bờ chỉ huy các đơn vị trên đảo. Hạm Phó Huân vừa đi phép về chiến hạm từ ba ngày qua.Nhưng giới chức thẩm quyền tại Sài G̣n không chấp thuận đề nghị này, chỉ thị hạm trưởng phải trực tiếp chỉ huy và gấp rút hoạch định kế hoạch để Sài G̣n đưa người di tản ra đảo. Trong lúc đó, chúng tôi phát hiện một chiến hạm Mỹ đang lảng vảng xa tít ở hướng Nam, có lẽ canh chừng mọi di chuyển của chiến hạm tôi. Chiều đó, hạm trưởng cho phép một nửa quân số cùng với hạm trưởng lên bờ chơi và thám sát t́nh h́nh. C̣n hạm phó và một số anh em ở lại trực tàu. Thế là sau mấy tuần lễ gian khổ, hiểm nguy v́ liên tục tham dự các trận chiến khốc liệt, chứng kiến cảnh di tản bi thảm của quân dân miền Nam, ai nấy đều mệt mỏi, lo âu. Chiều nay mới được thảnh thơi lên bờ dạo phố, mặc dầu chỉ là một hải đảo xa xôi để tạm quên đi bao nỗi nhọc nhằn vừa qua.Kiếp sống người thủy thủ cũng lắm vất vả, truân chuyên như thế đó. Ngày đêm theo chiến hạm lênh đênh trên biển cả đă bị vùi dập bởi những cơn biển động phũ phàng, thủy thủ đoàn mệt ngất ngư v́ “say sóng”. Khi lên bờ dạo phố, đôi chân bước trên mặt đất mà vẫn thấy đất trời đang quay cuồng như cảnh con tàu đang lắc lư làm cho anh em lảo đảo v́ “say đất”. Để rồi có vài anh em vừa hết cơn say đất, lại để hồn ḿnh chơi vơi v́ sóng mắt của giai nhân khiến cho ḿnh lại lạc vào cơn say êm đềm thú vị nhất đó là “say t́nh”. Có thể nói cuộc đời lênh đênh phiêu bạt của người lính biển trong những ngày tháng gắn liền với trùng dương làm cho anh em có ba cái thèm mănh liệt: thứ nhất thèm rau, thứ nh́ thèm rượu, thứ ba là thèm ... đàn bà! Khi lên bờ, chúng tôi được các bạn Địa phương quân hướng dẫn di dạo một ṿng quanh ḥn đảo này. Sau đó, từng toán nhỏ tấp vào các quán nước ở chợ để được ngắm nh́n các cô chủ quán xinh xinh và thưởng thức các món ăn hải sản nơi đây như tôm hùm, cua rang muối, cá hấp, mực... cùng với các ly rượu đế pha với nước dừa ngọt lịm. Mọi người sau những ngày gian khổ, tạm gác nỗi lo âu trong ḷng để hưởng một buổi chiều tuyệt đẹp và cảm thấy đời ḿnh c̣n đáng sống. Đến tối chúng tôi trở về chiến hạm và nhổ neo đi tuần duyên quanh đảo.Sáng hôm sau về neo lại bến cũ, phân đội khác được lên đảo chơi, t́nh h́nh an ninh trên đảo vẫn khả quan. Trưa hôm đó, tuần duyên hạm HQ.608 từ Vũng Tàu ra chuyển giao tiền lương tháng 4/1975 cho chiến hạm tôi theo chỉ thị của tướng Vũ Đ́nh Đào, vốn dành sẵn thiện cảm ưu ái rất nhiều cho hạm trưởng tôi. Trong ngày hôm đó, tàu tôi đă trao đổi với các viên chức địa phương vài thùng dầu để lấy một con heo. Buổi chiều hôm đó, thủy thủ đoàn đă được nhà bếp thết đăi một bữa tiệc nho nhỏ với món heo quay thật ngon lành. Trong khi ở đất liền tin tức chiến sự mỗi ngày càng bi đát hơn th́ chúng tôi được hưởng mấy ngày công tác nhàn hạ hiếm hoi này. Nhưng đến 4 giờ sáng hôm sau 27-04-1975, chiến hạm tôi cùng với HQ.712 đang tuần tiễu quanh đảo, bỗng mất liên lạc truyền tin đầu giờ với các đơn vị bộ binh trong bờ. Sĩ quan đương phiên vội báo cáo sự việc cho hạm trưởng biết. Khoảng 5 giờ 30 sáng, HQ.712 đang cách tàu tôi 7 hải lư, báo cáo có một chiến hạm Bắc Việt đang xâm nhập đổ quân lên đảo. HQ.712 tiến đến gần để nhận diện rơ hơn, bất ngờ bị chúng tác xạ bằng súng thượng liên. HQ.712 bị trúng 4 viên đạn thượng liên nhưng may mắn vô sự, liền phản công tác xạ lại. Nhận thấy biến cố quan trọng, hạm trưởng cho nhận c̣i nhiệm sở tác chiến. Lúc đó, tôi đang nằm ngủ say sưa dưới pḥng v́ vừa măn phiên trực, nghe tiếng c̣i tác chiến dồn dập vang lên. Tuy ngỡ ngàng, nhưng với phản ứng quen thuộc của người lính chiến, tôi vội nhảy xuống giường, chụp cái áo vội mặc vào người, xỏ chân vào đôi dép và vừa chạy vừa cài khuy áo tiến về đài chỉ huy. Chỉ trong khoảnh khắc thủy thủ đoàn đều có mặt tại nhiệm sở, các khẩu đại bác đang nạp đạn và lên đạn lách cách, báo cáo cho đài chỉ huy biết: tất cả sẳn sàng. Khi ấy trời vừa tờ mờ sáng, chiến hạm đang tăng máy tiến về tàu địch để dễ dàng tác xạ. Nhưng màn ảnh radar báo cho biết khoảng cách c̣n xa 11.000 yards (10 km). Tàu địch biết gặp nguy nên tăng tốc độ chạy trốn. Chiến hạm tôi v́ chỉ chạy được hai máy tiến hai nên sợ hụt con mồi, ra lệnh cho chiếc HQ.712 chạy tránh xa và khẩu 76,2 trước mũi bắt đầu khai hỏa. Từng phát đạn nổ vang trong buổi b́nh minh, rung chuyển cả thân tàu, chúng tôi hồi hộp theo dơi quả đạn đi bằng ống nḥm để chờ kết quả. Nhưng trái đạn không đến mục tiêu, rớt phía sau tàu địch gây ra những cột nước trắng xóa.Dù được điều chỉnh nhiều lần nhưng kết quả không như ư muốn. Cuối cùng tàu địch mỗi lúc một xa dần và khuất dạng về hướng Đông Bắc. Vừa lúc đó, bất ngờ trên bầu trời xuất hiện 3 chiếc khu trục cơ cánh quạt AD.6 của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ gầm thét lượn ṿng trên đầu chúng tôi. Chiến hạm liền đổi sang nhiệm sở pḥng không. Trên boong tàu, các khẩu đại bác, đại liên đều chĩa ṇng lên trời, đề pḥng bạn đồng minh phản bội. T́nh trạng căng thẳng suốt nửa tiếng đồng hồ, măi đến khi tàu địch chạy khuất hẳn, ba chiếc phi cơ kia mới bay đi mất hút. Chiến hạm tôi cố gắng liên lạc nhiều lần với các đơn vị bộ binh trên đảo nhưng bặt vô âm tín. Tàu tôi và HQ.712 thả trôi cách bờ 1 hải lư, trước mặt trụ sở Ủy Ban Hành Chánh Xă để chờ phối kiểm tin tức. Khoảng 9 giờ sáng Cộng quân xử dụng bích kích pháo 81 ly đặt trước sân trụ sở xă, pháo ra chiến hạm tôi.Nhưng tầm pháo không đến tàu, nổ cách tàu khoảng 500m. Chiến hạm vờ chạy trốn ra khơi, bất thần quay lại và khẩu 76,2 trước mũi thanh toán mục tiêu thật gọn. Khẩu pháo 81 ly bị trúng đạn nổ tung, trụ sở xă bị sập, vài tên Cộng sản sống sót lom khom chạy trốn sang nhà dân gần đó. Khoảng 10 giờ sáng, một ghe nhỏ chở một người lính duy nhất chạy thoát ra biển, tắp gần đến chiến hạm và xin phép cho cặp. Khi chiến hạm cho phép cặp vào, đó là một hạ sĩ quan truyèn tin của đảo này trên vai có đeo một máy truyền tin PRC.25. Anh ta báo cáo cho chúng tôi biết các toán Cộng quân xâm nhập đảo cùng với các toán Cộng sản nằm vùng nổi dậy chiếm đảo từ lúc 4 giờ sáng. Chúng đă bắt giữ tất cả sĩ quan Phân Chi Khu Trưởng. Riêng viên xă trưởng may mắn thoát nạn v́ đă quá giang HQ.608 về Vũng Tàu nhận chỉ thị từ đêm hôm qua. Hạm Trưởng báo cáo về Sài G̣n cho biết t́nh h́nh đột biến và xin quân tiếp viện ra đổ bộ tái chiếm ḥn đảo này. Trong lúc chờ lệnh, chúng tôi phát giác xuất hiện rất nhiều ghe nhỏ từ bờ chạy ra đầy trên mặt biển, vây kín hai chiến hạm vào giữa. Quan sát kỹ bằng ống nḥm, chúng tôi nhận thấy thuyền nào cũng có hai người đàn ông vóc dáng lực lưỡng, không có vẻ ǵ là đồng bào di tản cả. Hạm Phó thúc hối Hạm Trưởng cho lệnh tác xạ. Hạm Trưởng ban lệnh đồng tác xạ, các khẩu súng nổ vang. Chiến hạm tôi và HQ.712 vừa chạy, vừa bắn khiến chúng lớp bị ch́m, lớp khác chạy trối chết vào bờ.
Đến 2 giờ chiều 27-04-1975, Sài G̣n chỉ thị hai chiến hạm rời bỏ đảo
Phú Quư và trở về Vũng Tàu ngay v́ ở đó đang bị Việt Cộng bao vây và
pháo kích dồn dập. Thế là chiến hạm đành trực chỉ về hướng Tây, bỏ
lại sau lưng một ḥn đảo vừa lọt vào tay giặc, cấp tốc trở về Vũng
Tàu với trận chiến nhiều tàn khốc đang chờ đón chúng tôi. Trên đường
đi, HQ.11 vẫn bị một chiến hạm Mỹ chạy song song ngoài xa bám sát
chúng tôi. Đến 3 giờ sáng 28-04-1975, tàu tôi đă nh́n thấy ánh đèn
chớp tắt của ngọn hải đăng Vũng Tàu th́ trên mặt biển đầy những
thương thuyền to lớn của Mỹ đang neo, cùng nhiều chiến hạm của Đệ
Thất Hạm Đội đầy trên mặt biển, ánh đèn chiếu sáng rực như một thành
phố trên biển. Khi c̣n cách xa Vũng Tàu, HQ.11 đă nhận lệnh yểm trợ
hải pháo của Trung Tâm Hành Quân Vùng 3 Duyên Hải v́ Cộng quân đă
tiến chiếm tới cửa ngơ Vũng Tàu. Chúng tôi nhận lệnh mà chưa thể thi
hành v́ c̣n ở măi ngoài khơi. Khoảng 7 giờ sang, tàu tôi đă đến gần
Vũng Tàu, thấp thoáng sau lớp sương mờ, tôi thấy có nhiều tuần dương
hạm, hộ tống hạm đang hải pháo vào phía Bắc thị xă Vũng Tàu giống
như thị xă Qui Nhơn 4 tuần về trước. Trên mặt biển có HQ.802,
HQ.505. HQ.12, HQ.07, HQ.400, HQ.17, HQ.5... đang bận rộn liên tục
với các tàu nhỏ, ghe thuyền đưa người di tản chạy ra. Trên bầu
trời, các trực thăng đang nhộn nhịp bay lượn đưa từng đợt người di
tản ra các chiến hạm Hoa Kỳ. Đúng 9 giờ sáng, chiến hạm tôi từ từ
vào cảng và thả neo tại đây. Được lệnh về thẳng Sài G̣n nhưng ai
cũng ái ngại v́ thấy Vũng Tàu sắp lọt vào tay Cộng quân, về Sài G̣n
có khác chi chui đầu vô rọ. Hạm trưởng đă lộ nét tuyệt vọng than thở
với nhân viên: “Việt Cộng mà bắt được tao th́ chắc chắn đầu một nơi,
gan ruột một nơi mất”, t́m cách nấn ná để theo dơi t́nh thế và chờ
thủy triều lên. HQ.712 được trao trả V3ZH và chở người di tản. Vũng
Tàu bị pháo liên tục không dứt, tướng Vũ Đ́nh Đào ban lệnh di tản và
các chiến hạm được phép “vận chuyển tự do”. Thị xă Vũng Tàu lúc ấy
cực kỳ hỗn loạn, tràn ngập các quân dân từ miền Trung di tản vào,
cùng với nhiều người từ Sài G̣n chạy ra để t́m đường lánh nạn Cộng
sản. Trong lúc rối loạn này, bất ngờ có một chiếc LCM.6 cặp vào
chiến hạm, chở theo một số nhân viên đi dự tang lễ Thượng sĩ Bàng
trở về tàu. Các nhân viên này cho biết, quốc lộ 15 từ Sài G̣n ra
Vũng Tàu đă bị gián đoạn, Sài G̣n đă bị pháo kích và miền Tây cũng
bị cắt đứt tại Bến Lức, Long An. Trưa hôm đó, Vũng Tàu bị pháo kích
dồn dập, gây ra nhiều đám cháy và thiệt hại nặng nề. Thị xă như đang
lên cơn sốt tột độ với từng đợt trực thăng, chiến đỉnh, thuyền bè
hối hả đưa người di tản ra biển. Mọi người nặng trĩu ưu tư, lo lắng
cho gia đ́nh bị kẹt lại nên đề nghị với hạm trưởng cứ đưa tàu về Sài
G̣n. Chiến hạm nhổ neo và tiến vào sông Ḷng Tào, bên hữu hạm là
Vũng Tàu ngập ch́m trong vùng lửa đạn. Chiến hạm trong nhiệm sở tác
chiến , xuôi theo con nước lớn chạy vào trong sông, ngược chiều với
các tàu chiến, thuyền ghe đang vội vă hướng ra biển đào thoát.
Tuần Dương Hạm Trần Quang Khải HQ.2, Trần Quốc Toản HQ.6 và Trần
B́nh Trọng HQ.5
Khoảng 4 giờ rưỡi chiều, chiến hạm về tới Nhà Bè, có chiếc Dương Vận Hạm HQ.800 đang thả neo. Hạm phó cho nhân viên dùng cơm chiều sớm hơn thường lệ để luân phiên ứng trực nhiệm sở tác chiến.Khoảng 5 giờ chiều, tôi lên đài chỉ huy để thay thế người khác đi ăn cơm th́ trời bất ngờ đổ xuống một cơn mưa đầu mùa thật lớn. Trên boong tàu, nhiều nhân viên vẫn đội mưa ngồi trong các ổ súng, ướt loi ngoi. Bấy giờ đài phát thanh Sài G̣n đang trực tiếp truyền thanh buổi lễ trao quyền Tổng Thống giữa cụ Trần Văn Hương cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Tôi nhớ lời xướng ngôn viên đă ví von quang cảnh buổi lễ trao quyền này:” Đại Tướng Dương Văn Minh đă can đảm đứng lên nhận lănh trọng trách lịch sử này trong giờ phút đen tối của đất nước, giống như bầu trời thủ đô đang bị các đám mây đen phủ kín báo hiệu một trận mưa to sắp đến...” Chẳng biết sau cơn mưa trời lại sáng hay không? Chỉ nghe thấytrong buổi lễ đó chỉ c̣n lèo tèo mấy giới chức cao cấp Việt Nam như Phó Thủ Tướng Nguyễn Văn Hảo, Trung Tướng Vĩnh Lộc, Trung Tướng Trần Văn Minh Tư Lệnh Không Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang Tư Lệnh Hải Quân. C̣n các vị khác quan trọng hơn đă cao chạy xa bay tự bao giờ, không nghe nhắc đến. Rồi với giọng nói đều đều của Dương Văn Minh cất lên đọc bài diễn văn nhậm chức nghe thật buồn nản. Trong chỉ thị cho quân sĩ QLVNCH, tôi vẫn c̣n nhớ măi câu nói của ông ta:”Tôi có đôi lời đến với các anh em trong QLVNCH. Tất cả phải ở nguyên vị trí chiến đấu. Không bỏ ngũ, không buông súng, mọi hành vi vô kỷ luật sẽ bị nghiêm trị”. Chiến hạm vẫn lầm lũi đi trong mưa tiến vào Sài G̣n, chúng tôi vừa lái tàu vừa lắng nghe radio. Khi trời vừa tạnh mưa th́ buổi lễ vừa chấm dứt. Tàu giảm tốc độ để vào bến, con tàu xuôi theo con nước lớn nên vẫn lướt nhanh qua bến cảng Khánh Hội. Các khẩu súng vẫn đề pḥng bất trắc, ṇng hướng vào bờ.Khi tàu chạy ngang khách sạn Majestic, chúng tôi nh́n thấy sân thượng sập một góc v́ trúng đạn pháo kích mấy ngày trước. Hạm trưởng cho giải tán nhiệm sở tác chiến chuyển sang nhiệm sở vận chuyển và dàn chào khi tiến vào bến Bạch Đằng. Chiến hạm vẫn giữ đúng nghi lễ, thổi c̣i chào Bộ Tư Lệnh Hải Quân cùng các chiến hạm bạn đang cặp bến. HQ.11 vẫn chưa được chỉ định vị trí cặp cầu dù đă gọi máy nhắc nhở nhiều lần cũng không xong, đành thả neo giữa sông Sài G̣n trước mặt Ty Quân cảng đúng vào lúc 6 giờ chiều 28-04-1975.
Vừa lúc đó, chúng tôi nghe tiếng bom đạn nổ rền từ hướng Tân sơn Nhất. Ai nấy đều ngơ ngác, máy truyền tin nhốn nháo cả lên. Bất ngờ, ba chiếc A.37 xuất hiện gầm thét trên bầu trời thủ đô, mọi người ngỡ rằng phe tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh nên chưa có phản ứng. Măi 3 phút sau, các chiến hạm mới nhận được lệnh khẩn cấp:”F.5 không được bắn, A.37 tác xạ tự do”. Bấy giờ chúng tôi mới biết 3 chiếc A.37 là địch và chúng đang bay ṿng trở lại, có ư nhào xuống chúng tôi.Các khẩu đại bác trên tất cả chiến hạm đều đồng loạt nổ ḍn, bắn tới tấp vào các phi cơ đó, đạn nổ đan kín bầu trời. Chiến hạm tôi nhờ lợi thế đang neo giữa sông nên các khẩu súng đều tác xạ được cả, đạn nổ điếc tai. Đứng trên đài chỉ huy quan sát cảnh bắn máy bay, tiện tay tôi cũng chụp khẩu đại liên 30 bên tả hạm chĩa ṇng lên trời và bóp c̣i say sưa.
V́ hỏa lực hùng hậu của Hải Quân cùng với các khẩu pḥng không trên dinh Độc Lập nên 3 chiếc phi cơ địch không dám nhào xuống thả bom và bay khuất dạng về hướng Đông Bắc. Trong khi đạn nổ rền trời, một số đồng bào đang cưỡi Honda bên Thủ Thiêm dọc bờ sông, hoảng hốt bỏ xe nằm mọp xuống lề đường tránh đạn, bánh xe vẫn c̣n quay tít. Cũng trong lúc ấy, một chiếc vận tải cơ C.130 vừa cất cánh lên, vô t́nh lạc vào lưới đạn pḥng không. Phi cơ bị trúng đạn, lảo đảo chơi vơi trên bầu trời nhưng rất may không rớt, cuối cùng đành hạ cánh khẩn cấp không di tản được. Sau khi 3 chiếc A.37 tẩu thoát, hai phi tuần F.5 gồm 4 chiếc bay lên săn đuổi. Hạm Đội ra lệnh tất cả các chiến hạm ngưng tác xạ và cho phép chiến hạm tôi vào cặp cầu L trước mặt Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Cầu tàu này đang có 4 chiếc Dương Vận Hạm đang cặp. Đó là HQ.502 vị trí 1 nằm ở trong cùng, kế đến HQ.501, rồi đến HQ.503 (bị pháo ngoài Cà Ná) và HQ.504. Chiến hạm tôi cặp phía ngoài cùng cạnh HQ.504, vị trí 5. Sau hơn một tháng công tác ngoài biển khơi, chiến hạm tôi nay trở về bến cũ với bầu không khí chiến tranh đang bao trùm thủ đô, dân chúng thủ đô đang sống trong cảnh hăi hùng như màn đêm đen tối đang phủ trùm xuống Sài G̣n v́ bị cúp điện măi đến hơn 9 giờ tối. Chỉ duy nhất doanh trại Hải Quân tại bến Bạch Đằng nhờ có máy đèn riêng nên có đèn điện sáng choang. Các đơn vị Hải Quân tại thủ đô đang trong t́nh trạng cấm quân 100%, canh pḥng thật nghiêm ngặt, trong khi đó một số sĩ quan cao cấp đă và đang t́m đường đào tẩu. Sáng ngày 29-04-1975, đài phát thanh loan di lời kêu gọi của Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu yêu cầu Mỹ rút tất cả nhân viên về nước trong ṿng 24 giờ. Trung Tướng Vĩnh Lộc được cử làm Tân Tổng Tham Mưu Trưởng từ tối qua, ban nhật lệnh yêu cầu quân sĩ giữ vững tay sung, chiến đấu đến cùng. Bầu trời thủ đô xuất hiện từng đoàn trực thăng bay vào để bốc người di tản ra biển. Trong khi đó, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 ở Biên Ḥa đă thất thủ, từng đoàn quân xa đang nườm nượp chạy về Sài G̣n, đen kín cả cây cầu xa lộ B́nh Lợi.Về hướng Tây Bắc, nghe tin Cộng quân đă tràn ngập SĐ.25BB , đang tiến vào cửa ngơ Sài g̣n và giao tranh ác liệt đă xẩy ra từ Bà Quẹo về đến Ngă Tư Bảy Hiền. Một chiếc phi cơ C.119 bay lên tham chiến, chúng tôi nh́n thấy bị bắn rơi và phi công tử trận. Riêng các chiến hạm tại bến Bạch Đằng đều đặt trong t́nh trạng sẳn sàng chờ lệnh mới. Tinh thần binh sĩ rất hoang mang và lo âu. Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang vừa cách chức HQ Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư Lệnh Hạm Đội v́ tiết lộ tin di tản quá sớm, thay thế bởi HQ Đại Tá Phạm Mạnh Khuê. Các chiến hạm khiển dụng nhận lệnh sẳn sàng rời bến bất cứ lúc nào. Trên cầu tàu Hạm Đội, chúng tôi thấy HQ Trung Tá Nguyễn Văn Tánh Hạm Trưởng HQ.502 đang cùng với một số nhân viên đi trên chiếc xe Dodge chở các vật dụng hải hành xuống tàu, v́ HQ.502 đang đại kỳ sửa chữa chưa xong.
Khoảng 2 giờ chiều, thủ đô đă lên cơn sốt di tản. Cộng quân đang pháo kích vào phi trường Tân sơn Nhất, giao tranh dữ dội giữa các đơn vị Biệt Cách Dù và Nhảy Dù với lực lượng Cộng quân tại ṿng đai phi trường. Các hạm trưởng được lệnh lên họp khẩn. Ngoài cổng Hải Quân Công Xưởng, từng đoàn người đủ mọi thành phần quân cán chính và thân nhân đang ùn ùn kéo đến, cổng được mở ra cho họ tràn vào đổ xô về các cầu tàu có các chiến hạm đang cặp bến. Riêng cầu tàu đi sang Ty Quân Cảng và cư xá Cửu Long vẫn khóa chặt gây nên cảnh hỗn loạn tắc nghẽn v́ quá đông người không qua cầu được.
Khoảng 4 giờ chiều, hạm trưởng đi họp về với nét mặt đầy căng thẳng, sau đó lên một xe Jeep cùng với vài nhân viên về đón gia đ́nh. Thủy thủ đoàn đa số vẫn hiện diện trên tàu, lo âu nhưng bất lực v́ không thể đón thân nhân xuống tàu trong lúc hỗn loạn được. Trong khi ấy tại cầu L, quân nhân và đồng bào đang tràn lên HQ.502. Lúc đó nước thủy triều dâng cao, hạm kiều bắc từ boong tàu dẫn xuống cầu thật dốc, đàn bà và trẻ em phải khó khăn lắm mới bước lên chiến hạm. Tiếng người chen lấn xô đẩy nhau, tiếng gọi ơi ới hoảng hốt vang lên khi chen lấn trèo lên tàu trong buổi hoàng hôn trốn chạy Cộng sản trông thật buồn thê thiết.
Khi màn đêm xuống, cầu tàu và 5 chiến hạm ch́m ngập trong bóng tối hăi hùng v́ tàu đă tháo dây điện bờ. HQ.502 đă đầy ắp người và vẫn c̣n nhiều người tiếp tục trèo lên. Riêng HQ.501 v́ máy tàu đă bất khiển dụng và hạm trưởng là HQ Trung Tá Vơ Duy Kỷ đă vắng mặt từ hơn một tuần lễ trước nên không nhận người di tản. Hạm Trưởng Kỷ sau đó đă đi tù cải tạo nhiều năm, cuối cùng được sang định cư tại San Jose.
C̣n HQ.503 chỉ nhận một số ít người ra đi, vả lại chiến hạm đă bị hư hại nặng v́ bị pháo tại Phan Rang trước đây. Đặc biệt HQ.504 máy móc c̣n rất tốt hạm trưởng và cơ khí trưởng nhất quyết không chịu ra đi, gây phẫn nộ cho thủy thủ đoàn. Cuối cùng ai muốn ra đi phải quá giang các chiến ham khác. Hạm Trưởng HQ.504 Hải Quân Trung Tá Nguyễn Như Phú (khóa 16 Vơ Bị) sau nhiều năm bị tù cải tạo, hiện nay đang sinh sống tại California.
Dương Vận Hạm Qui Nhơn HQ.50
Chiến hạm tôi nhờ nằm phiá ngoài cùng, lại nhờ HQ.504 cản bước nên những người di tản không thể tràn qua tàu tôi được. Riêng có HQ Thiếu Úy Vũ Tiến Hưng (Khóa 25 SQHQ/Nha trang) may mắn t́m gặp thân nhân trong đám người di tản nên hướng dẫn đem xuống tàu tôi. Một số nhân viên và vài sĩ quan khác đă rời tàu t́m cách về nhà để lo liệu gia đ́nh như Hạm Phó Trần Đức Huân, HQ Đại úy Vũ Đức Thiệu, HQ Trung Úy Huỳnh Thiện Khiêm... (Những sĩ quan này đều không thể đưa gia đ́nh xuốmg tàu kịp trong cơn hỗn loạn nên bị kẹt lại).Hầu hết anh em c̣n lại trên chiến hạm đều kẹt gia đ́nh nên mặt ai nấy nặng trĩu buồn lo. Hạm trưởng đến giờ này vẫn chưa về tàu được, trong khi hạm đội gọi máy thúc hối chiến hạm phải rời bến ngay kẻo trễ.
Khoảng 9 giờ rưỡi tối, hạm trưởng về đến chiến hạm bằng một tiễu đĩnh LCVP mượn bên Ty Quân Cảng cùng với gia quyến v́ cổng gác cư xá Cửu Long vẫn khóa chặt. Sau đó, hạm trưởng cho lệnh tập họp thủy thủ đoàn cho biết chiến hạm phải rời bến ngay trong đêm, anh em được chọn lựa ngay bây giờ: ĐI hay Ở LẠI?
Cuối cùng thủy thủ đoàn có khoảng 80 người th́ một nửa theo hạm trưởng ra đi trốn chạy Cộng sản, bỏ lại gia đ́nh, họ hàng thân thuộc để một thân một ḿnh sống kiếp tha hương lưu lạc nơi xứ người. Trong số chiến hữu này, có HQ Trung Úy Phạm Công Nhạc v́ vừa mới cưới vợ nhà ở Cái Sắn, nên ngập ngừng măi không biết tính sao, cuối cùng đành phải theo tàu ra đi.Sang đến đảo Guam, sống cuộc đời tha hương buồn thảm gần 6 tháng, anh đă quyết định theo con tàu Việt Nam Thương Tín trở về quê hương, để rồi bị Cộng sản cho đi cải tạo, đọa đầy trong tủi nhục.
C̣n một nửa anh em khác chấp nhận sống chết với quê hương, tuy biết rằng sống chung với Cộng sản sẽ gặp nhiều khốn khổ nhưng mấy ai hiểu nhiều về con người Cộng sản ra sao?! Để rồi sau đó ngỡ ngàng khi bị Cộng sản cho đi cải tạo nơi rừng sâu núi thẳm. Trong số này có hạm phó của tôi, bị đưa đi tận miền Bắc xa xôi, để lại người vợ hiền phải tảo tần xuôi ngược nuôi nấng hai đứa con thơ và dành dụm thăm nuôi chồng trong lao tù CS. Sau này anh đă vượt biên cùng với gia đ́nh định cư tại Úc năm 1984. Nhưng chỉ ba năm sau anh chẳng may mắc bệnh nan y và qua đời tháng 7/1987.
Sau khi quyết định xong, anh em nào ở lại xuống chiếc giang đĩnh LCVP để chạy vào bờ, sĩ quan duy nhất chỉ có HQ Trung Úy Nguyễn Đắc Minh v́ c̣n mẹ già và vị hôn thê nên không nỡ theo tàu di tản được. Thủy thủ đoàn trong cảnh kẻ ở người đi đều ngậm ngùi bịn rịn, vẫy tay chào tiễn biệt nhau, không biết bao giờ mới gặp lại. HQ.11 tách bến ra đi vào khoảng 11 giờ rưỡi đêm 29-04-1975. Có lẽ trong đời tôi sẽ không bao giờ quên h́nh ảnh con tàu thân yêu đang từ từ tách bến, giă biệt Sài G̣n để ra đi trốn chạy làn sóng đỏ, để tôi đứng lặng nh́n theo đâu có ngờ đời ḿnh sẽ nhiều khốn khổ khi lọt vào tay bọn Cộng sản bạo tàn.
Tôi lái chiếc LCVP rời chiến hạm, chúng tôi dự định lái sang bên kia bờ Thủ Thiêm để đưa các anh em lên bờ trở về với gia đ́nh. Nhưng khi sắp cặp cầu, một số đông người trên bờ ùn ùn chạy xuống cầu, chúng tôi hoảng hốt lùi tàu lại chạy ra giữa sông và sau cùng đành cặp vào chiếc Tạm Trú Hạm ở cầu C cạnh trại Bạch Đằng 2 nghỉ đêm ở đó chờ sáng mai về nhà. Trên chiếc tàu này, tôi đă gặp nhiều chiến hữu của các đơn vị khác cùng ở lại, chúng tôi cùng thức thâu đêm tâm sự và lo lắng khi nghe tiếng đạn pháo kích nổ rền cùng chứng kiến vài chiến hạm rời bến muộn màng mà ḷng buồn vời vợi.
Khoảng 9 giờ sáng 30-04-1975, bến Bạch Đằng chỉ c̣n một ít chiến hạm ở lại, doanh trại Hải Quân trống trơn bỏ ngơ, lác đác vài người. Chúng tôi thay quân phục, mặc vào người bộ đồ dân sự đi ra cổng. Mặc trên người quần tây, áo sơ mi trắng tôi bước ra cổng Bộ Tư Lệnh Hải Quân với dáng dấp thư sinh như thưở nào c̣n đi học. Nhớ lại 6 năm về trước, tôi t́nh nguyện gia nhập Hải Quân với ḷng đầy mơ ước khi đọc hai bảng hiệu treo trước pḥng tuyển mộ như mời gọi chúng tôi: “Gia nhập Hải Quân là thực hiện mộng hải hồ”, “Chúng tôi đang chờ đón các bạn trong những chuyến viễn du”. C̣n hôm nay, cũng bộ đồ thư sinh ấy, tôi đă giă biệt chiến hạm, giă biệt cuộc đời lính biển để trở về mái ấm gia đ́nh. Tôi có ngờ đâu tôi khờ khạo quá, tôi đang đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm, đâu biết tương lai đen tối đón chờ sẽ ập xuống đầu tôi:
Ôi biển cả giờ đây ta mới biết
Mộng hải hồ giết chết một đời trai.
Đến 10.25 sáng 30-04-1975, sau khi Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng, giao nộp miền Nam cho Cộng sản từ đây. Tôi lặng lẽ đi bộ về nhà ở Ngă Tư Bảy Hiền. Tôi đă chứng kiến nhiều cảnh đổi đời dâu bể mà thấy ḷng ḿnh đau như cắt.Chân tôi bước trên con đường Lê Văn Duyệt ngổn ngang quân phục, giầy vớ, súng đạn mà các chiến hữu tôi vừa cởi bỏ, chỉ mặc trên người quần đùi, áo thung thảm năo bước đi như chạy trốn. Tôi đă nh́n thấy từng toán Cộng quân với gương mặt ngơ ngáo đang tiến vào thủ đô; được dẫn đầu bởi các sư săi mặc cà sa cầm biểu ngữ, miệng ḥ hét, lúc hoan hô “cách mạng thành công” xem giống như những tên thầy pháp đang múa may, quay cuồng giữa lũ âm binh, thật tởm! Tôi đă nh́n thấy nhiều đồng bào đón gió đeo băng xanh đỏ; thấy những tên nằm vùng mang súng hớn hở đón chào lũ Cộng.Tôi đă nh́n thấy nhiều chiến hữu Nhảy Dù hy sinh trong trận đánh cản bước địch quân tiến chiếm thủ đô tại khu hồ tắm Cộng Ḥa và cư xá Tự Do, xác được bó gọn trong tấm poncho, bên cạnh có bà mẹ già ngồi lặng lẽ khóc con. Và c̣n nhiều, nhiều nữa... Tôi cúi mặt, tủi nhục bước đi, tôi chợt nh́n thấy một bảng hiệu tuyên truyền có 4 câu thơ lục bát của chính quyền quốc gia treo trên cột đèn đă bị vứt bỏ, đến nay tôi c̣n nhớ măi:
Có đâu rắn đẻ ra rồng?
“Mặt Trận Giải Phóng” cũng ḍng Cộng nô
Cũng loài bè lũ tam vô
Cũng phường bán nước, cũng đồ Việt gian.
VŨ NGỌC VĂN
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại