NGƯỢC D̉NG THỜI GIAN - T̀M VỀ NGUỒN CỘI
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam, nhưng từ bé Bố đă kể cho tôi nghe
về một miền quê nghèo với cuộc sống cần cù lam lũ của người dân miền
Bắc, những h́nh ảnh đó và câu chuyện sau đây càng làm cho tôi mến
yêu quê cha đất tổ.
Rời quê nghèo đầu thập niên 30's lên Hà Nội t́m kế sinh nhai và học
lấy một nghề chuyên môn như ông bà ta thường nói “Nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh”. Đến đầu thập niên 40's, để mẹ và hai anh tôi ở lại
quê nhà, Bố tôi vào Nam lập nghiệp. Sau gần mười năm xa cách, Bố Mẹ
tôi đoàn tụ, anh chị em chúng tôi tiếp tục ra đời và lớn lên ở miền
Nam.
Thuở bé tôi học tại trường tiểu học Trương Minh Kư, sau đổi thành
Nguyễn Thái Học, Trung học tại trường Nguyễn Trăi, sau đó là Đại học
Khoa Học Sài G̣n.
Như hầu hết các thanh niên thời chiến, năm 1968 sau trận Tết Mậu
Thân chúng tôi phải làm quen với súng ống qua chương tŕnh Quân Sự
Học Đường. Bị động viên vào đầu năm 1972 mùa hè đỏ lửa, tôi khoác
lên người bộ áo rằn ri sọc ngang Thủy Quân Lục Chiến, trấn đóng
tuyến đầu Quảng Trị cổ thành cho đến đầu năm 1975, từ giă màu áo hoa
rừng để tṛng vào người bộ áo tù sọc dọc, c̣n được gọi là quần áo
sọc dưa, từ đó được học thêm nhiều điều cay đắng cũng như những sự
nhẫn nại và chịu đựng trong đời.
Từ Thuận An về căn cứ La Sơn, ra cây số 17 Phong Điền đến Lao Bảo
Khe Sanh, về Cồn Tiên Ái Tử, và cho đến cuối tháng 9 năm 1977, một
buổi sáng vào Thu, trên đoàn xe Molotova khoảng 20 chiếc hướng về
phương Bắc trên Quốc Lộ 1, hơn 400 anh em chúng tôi thuộc đoàn 76
cải tạo (tù ngụy) được đưa ra Bắc trong công tác lao động xă hội chủ
nghĩa, vét đập Đô Lương, tỉnh Hà Tĩnh và khai quang ḷng hồ sông
Mực, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Nh́n những ánh mắt ngỡ ngàng thương xót của người dân miền Nam, dơi
theo đoàn xe chở chúng tôi ra Bắc, anh em chúng tôi đâm ra xốn xang
lo lắng, có lẽ họ linh cảm một điều bất hạnh nào đó sẽ đến với chúng
tôi.
Qua khỏi thị trấn Đông Hà, đoàn xe tiến đến cầu Hiền Lương, một
chiếc cầu nhỏ bắc ngang sông Bến Hải trên vĩ tuyến 17.
Chiếc cầu trở thành nổi tiếng trong lịch sử v́ đă là một địa điểm mà
các thế lực từ thực dân Pháp, tư bản Mỹ đến cộng sản Nga Hoa đă dùng
để chia cắt dân tôi hơn 20 năm. Xe bắt đầu lên cầu, nước sông Bến
Hải trong xanh nhưng tôi cảm thấy một luồng khí lạnh thấm vào hồn.
Cầu Hiền Lương theo tôi nghĩ nên được đổi tên là cầu Thê Lương v́ nó
đă ngăn cách Bắc Nam, làm cho hơn hai triệu đồng bào tôi phải bỏ
ḿnh trong cuộc chiến.
Tôi mường tượng ra h́nh ảnh sau hiệp định Geneve 20/7/1954, từng
đoàn người lũ lượt qua cầu vào miền Nam mặc cho sự ngăn cản của
chính quyền miền Bắc cả ngày lẫn đêm. Lời nhạc trong bài hát “Chuyến
đ̣ vĩ tuyến” của Lam Phương làm xúc động tâm hồn, “Sao ta ĺa cách
bởi ḍng sông bạc đôi màu...”.
Ḍng nước sông không bạc, mà cũng chẳng đôi màu, chỉ có chăng màu
máu và nước mắt mà dân tôi phải đổ ra hơn 20 năm chia cắt. Người
nhạc sĩ trẻ miền Nam đă linh cảm hai màu này chăng?
Đến bờ Bắc của cầu Thê Lương, tôi thật sự cảm động thấy như ḿnh
đang ngược ḍng thời gian trở lại thời trước năm 1954, quốc lộ 1 ở
miền Bắc nhỏ hẳn lại, các xóm làng hai bên đường tiêu điều, thưa
thớt, nghèo nàn, dân miền Bắc ốm o, tiều tụy, khô héo như cây thiếu
nước, đồng ruộng xơ xác, hoang tàn, chẳng thấy bóng trâu ḅ, gia
súc.
Đoàn xe chở chúng tôi chạy suốt buổi trưa trên quốc lộ 1 hướng về
cảng Đồng Hới, dọc đường chúng tôi được dừng nghỉ giải lao và trút
bớt bầu tâm sự mang nặng trong người. Cảng Đồng Hới tôi được học
trong Địa Lư là một hải cảng khá lớn ở miền Trung, thật sự lại quá
bé nhỏ lạc hậu so với các hải cảng nhỏ ở miền Nam mà tôi được biết,
tàu bè nhỏ bé thưa thớt, bến cảng có vẻ tiêu điều, có lẽ hậu quả của
những trận bom từ thời Mỹ tấn công miền Bắc vẫn c̣n là một gánh nặng
cho người dân cảng đến bây giờ.
Rời Đồng Hới, chúng tôi trực chỉ thành phố kỹ nghệ Vinh và đến thành
phố vào khoảng 2 giờ 30 chiều. Gọi là thành phố nhưng Vinh chỉ vào
khoảng một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Nam. Những ngôi nhà chung cư do Đông
Đức xây cất vào những năm 60's quá nhỏ và thiếu vững chắc, không
được như khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Sài G̣n. Đường phố thưa
thớt người đi lại, không có những khu phố thương mại dọc theo quốc
lộ như các tỉnh lỵ miền Nam, v́ xă hội chủ nghĩa không được làm ăn
cá thể, không có những cửa hàng tư nhân, lưa thưa vài cửa hàng quốc
doanh, vài trụ sở của hợp tác xă, đường phố buồn tẻ, không thấy các
bảng quảng cáo, thiếu vắng những màu sắc tươi mát, quần áo chủ yếu
là màu nâu, đen, trắng, kaki vàng của công an và xanh lá cây của bộ
đội, chỉ chưa đầy mười phút đoàn xe đă ra khỏi thành phố Vinh.
Trực chỉ hướng Bắc trên quốc lộ 1, khoảng hơn 4 giờ chiều chúng tôi
đến Đèo Ngang. Sau hơn 15 phút leo dốc, đoàn xe được dừng lại trên
đỉnh đèo. Đèo Ngang không cao lắm, nh́n về hướng Đông là biển, trời
và nước mênh mông, hướng Tây là núi chạy ra tới biển, hướng Nam là
đường về khúc khuỷu gập ghềnh, hướng Bắc là đường đi xa xôi chưa
đến, xế về hướng Tây Bắc là một ngôi làng nhỏ hoặc chợ làng. Tôi chợ
nhớ tới bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được học năm
lớp 8.
"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh t́nh riêng ta với ta"
Hơn 400 anh em chúng tôi, 400 mảnh t́nh riêng nhưng không thể nói
ra. Quay người nh́n về phương Nam, tôi cảm thấy như đi ngược thời
gian về một trăm năm mươi năm trước, được trông thấy đoàn xe của Bà
Huyện Thanh Quan đang ngược chiều trên Đèo Ngang, vượt qua chúng tôi
trên đường từ Thăng Long vào Thuận Hóa để làm thầy giáo cho các con
vua Minh Mạng. Từ bấy đến nay cảnh vật vẫn không hề đổi thay, dân
tôi vẫn đói nghèo, lam lũ...
Trời hơi chập choạng tối khi chúng tôi đến Đô Lương, cắm trại trên
một khu đất trống cách đó hơn nửa cây số. Mệt nhoài, đêm hôm đó nằm
nghe dế kêu, tôi thả hồn vào giấc ngủ.
Buổi sáng đầu tiên ở miền Bắc sao im vắng lạ lùng. Tôi không nghe
tiếng kẻng báo thức, có lẽ anh bộ đội trực ban chưa t́m ra một mảnh
vỏ đạn để gơ hay sao đây? Hai ngày đầu chuẩn bị, chúng tôi được nhận
dụng cụ, rổ rá, cuốc xẻng và những càng tải đất. Thời gian ở Đô
Lương thật ngắn ngủi, tổng cộng chỉ khoảng hơn một tháng.
Chúng tôi phải gấp rút tiếp tay cùng thanh niên xung phong ở đây, mở
rộng ḷng kênh cho kịp mùa nước lũ ở sông Mă chảy về để tưới tiêu
cho Đô Lương và hai huyện phụ cận. Đào, cuốc, gánh, tải đất đá từ
ḷng và hai bên bờ đập để đắp cao bờ đê, ba tuần làm việc ở Đô Lương
rồi cũng chóng vánh trôi qua.
Một hôm tôi nhận nhiệm vụ trực khối, gánh cơm, nước cho các bạn ở
hiện trường. Trên đường từ nhà bếp đến băi, tôi gặp một toán thanh
niên trẻ đang đào giếng, một cô gái trạc đôi mươi gọi tôi:
- Anh ơi! Anh gánh cái ǵ thế?
- Gánh nước cho các anh em ngoài băi.
- Cho chúng em uống với.
Tôi dừng gánh lại cho mỗi người lấy một lon nước. Chắc đó chỉ là cái
cớ thôi, v́ tôi vừa đặt gánh nước xuống là các cô đă nhao nhao hỏi
ngay:
- Anh ở đâu trong Nam thế?
- Sài G̣n.
- Trong ấy đẹp lắm anh nhỉ?
......
- Các bác với chị ấy có ra thăm anh không?
......
Họ hỏi tôi đủ thứ chuyện, tôi vui vẻ và thành thật trả lời. Một cô
bé trẻ nhất trong đám thốt lên:
- Các anh trong Nam nói chuyện nghe lịch sự quá, chả bù với các đằng
ấy ở đây!
Anh con trai, có lẽ là trưởng toán lên tiếng:
- Thôi, để anh ấy đi, các anh ngoài băi đang chờ.
Tôi chưa kịp bước đi th́ một anh bộ đội thuộc đoàn 76 bước về phía
tôi và vẫy tay gọi:
- Anh làm ǵ thế, anh phản tuyên truyền đấy à?
- Tôi có làm ǵ đâu cán bộ. Họ xin nước, tôi chỉ cho mỗi người một
ca thôi.
- Tôi thấy anh đứng đấy lâu lắm đấy nhé, anh có muốn kỷ luật th́ tôi
cho anh biết.
Tôi vội vă gánh đôi thùng nước và rảo bước đi. Anh bộ đội bám gót
tôi hỏi:
- Anh ở đội nào, chiều nay anh biết tôi.
Giọng các cô gái nhao nhao nói vói theo:
- Anh ấy không có nói ǵ đâu, chúng em chỉ xin nước thôi.
Có lẽ các cô ấy không biết đă châm thêm dầu vào lửa. Suốt buổi tối
hôm ấy tôi cảm thấy hơi lo v́ lời hăm dọa của người bộ đội ban
chiều, nhưng cuối cùng tự nhủ "việc ǵ đến cũng sẽ đến...". Tôi thấp
thỏm hàng ngày chờ cú đ̣n thù cho đến khi rời khỏi Đô Lương, "việc
ǵ qua cũng sẽ qua...", có lẽ anh bộ đội ấy đă quên chuyện này rồi.
Buổi chiều cuối cùng làm việc ở đập Đô Lương, nước được tháo vào.
Nh́n ḷng kênh dâng nước lên, chúng tôi cảm thấy vui lây với ḷng
dân ở ba huyện này, mong rằng năm nay và về sau họ sẽ đủ nước tưới
tiêu, được mùa thu hoạch.
Tuần cuối cùng ở Đô Lương chúng tôi được nghỉ bồi dưỡng ba ngày để
giặt giũ và chuẩn bị cho công tác kế tiếp vào Nông Cống, Thanh Hóa.
Sáng Chủ Nhật trước khi rời Đô Lương, tôi t́nh nguyện vào một toán
mười người ra chợ huyện gánh rau quả cho Đội.
Chợ Đô Lương nhỏ bé, nghèo nàn, cũng như hầu hết những người dân tôi
ở miền Bắc gầy g̣ chịu đựng. Trên con đường nhựa độc nhất chạy xuyên
qua huyện, tôi thấy vài cửa hàng hợp tác xă bán những thứ hàng chẳng
ra hàng, thế mà cũng phải có tem phiếu ưu tiên cho công nhân viên
mới được mua, khó khăn như thế th́ chừng nào mới đến lượt dân đen
hoặc người tù. Cửa hàng ăn mậu dịch bán phở chỉ có vài người khách
lèo tèo, có lẽ dân ở đây không thừa tiền ăn hàng, hoặc là ăn ở nhà
ngon hơn hàng quán nên chẳng mấy ai buồn đến phở quốc doanh.
Theo chân anh cán bộ hướng dẫn vào trong chợ, trong khi chờ đợi anh
ta mặc cả với các bạn hàng, tôi mon men đến một sạp gần đó hỏi nhỏ
bà bán hàng: "Bác biết ở đâu có bán thịt gà, thịt vịt chỉ cho
cháu?". Bà trả lời: "Làm ǵ có gà, vịt mà bán chứ anh!". Tôi đi rảo
một ṿng th́ hết chợ, chỉ thấy khoai, sắn, thóc mà chẳng thấy gạo,
vài hàng ḿ sợi khô, có lẽ từ một cửa hàng gia công trước mặt chợ
đem vào. Chợ bán chủ yếu là rau quả, hàng gia vị thiếu thốn nghèo
nàn làm tôi thấy mủi ḷng!
Bài thơ “Chợ Phiên” tôi được học thuở bé, mới hừng đông đă kẻo kịt
quang gánh, gà vịt, lợn ḅ, mà ở đây tôi chẳng thấy ǵ cả. Không mua
được ǵ, tôi quay qua hàng bánh lá mua lấy vài cái bánh lót ḷng để
có sức gánh về.
Sau khi chất đầy gánh rau, tôi ra trước cổng chợ chờ cho đầy đủ anh
em trong đội.
Ngay góc đường nơi chúng tôi đứng đợi có sạp hàng nước. Bà bán nước
vối ngồi dưới một tấm liếp tranh, trên chiếc bàn tre xiêu vẹo có một
cái lọ thủy tinh trong đựng vài chục chiếc kẹo vừng, một tủ kính nhỏ
có vài gói thuốc lá xé dở, mỗi người khách dừng lại trả vài xu, bà
lại lấy gáo khoáy vào lon nước rửa, rồi múc lấy gáo nước rót vào bát
đoạn đưa cho khách.
Đầu óc tôi xoay vần, tôi đă được nh́n thấy cảnh này ở đâu đó, nhà
văn Thạch Lam trong Tự Lực Văn Đoàn diễn tả cách đây 40 năm rồi mà
sao vẫn không thay đổi, vẫn cái bàn xiêu vẹo, nồi nước vối, tấm liếp
tranh, lọ kẹo vừng, tủ thuốc lá, chẳng lẽ bà bán nước vối ngồi ở đây
từ bấy đến giờ?
Rảo mắt ngó qua phía bên kia đường, tai nghe tiếng chuông nhà thờ
gần đó, tôi thấy có hai mẹ con trên đường đến nhà thờ. Bà mẹ khoảng
hơn năm mươi tuổi, chị con gái xấp xỉ ba mươi, dắt nhau vào phía sau
một thân cây to gần đó, mỗi người mang bên nách một gói giấy, đi
chân đất. Mười phút sau họ bước ra từ sau thân cây, trên thân mỗi
người bây giờ là một chiếc áo dài đen luộm thuộm c̣n hằn rơ nếp gấp;
hai mẹ con đi guốc, gói giấy kẹp dưới nách, lầm lũi đi về phía nhà
thờ. Tôi quay qua hỏi bà hàng nước:
- Ngoài này mỗi năm bác được mua bao nhiêu mét vải?
Bà trả lời:
- Mười năm nay có được mét nào đâu anh!
Sao lại có những cảnh đọa đày dân tôi thế? Chẳng lẽ cả cuộc đời họ
cứ chờ đợi đến ngày Chủ Nhật đi lễ mới được mặc áo dài và mang guốc
hay sao? Chiếc áo dài cũ kỹ, xấu xí, đôi guốc vông mộc mạc là cả một
gia tài trong suốt cuộc đời họ à?
Trên đường về anh em chúng tôi im lặng, cái háo hức ra chợ xem thử
dân t́nh không c̣n nữa. Quê tôi nghèo nàn quá! Dân tôi bất hạnh quá!
Đất nước tôi bị đày đọa quá!
Nhớ lại bức thư một người chú của anh bạn, một "thương binh tự túc",
từ miền Bắc gửi cho anh để động viên anh cố gắng học tập lúc ở Cồn
Tiên. Tôi hỏi anh "tự túc" nghĩa là ǵ. Anh ấy trả lời, ông chú bị
thương thời kháng Pháp, bị cụt cả hai tay nhưng không được hưởng trợ
cấp, chỉ được ưu tiên không phải làm việc đồng áng, hàng ngày dùng
đôi chân đạp guồng máy dệt để lấy công điểm, vừa đạp vừa ước mơ có
được một chiếc xe đạp Phượng Hoàng cho cả gia đ́nh có phương tiện đi
lại. Đă gần hết thế kỷ 20 mà dân tôi vẫn c̣n những ước mơ tội nghiệp
như thế đấy, cứ như những ước mơ trong tác phẩm “Con trâu cái” của
tác giả Trần Tiêu ở nửa đầu thế kỷ 20.
Ngày tháng tiếp tục trôi, chúng tôi lại lên đường ngược ḍng về
phương Bắc. Sau cả một buổi sáng dằn xóc v́ ổ gà, chúng tôi đến sông
Gianh. Bờ sông thoai thoải, ḷng sông rộng. V́ không có cầu, chúng
tôi phải chờ qua phà. Không ai được xuống xe. Phà ra đến giữa sông;
sông sâu nước chảy mạnh, gió thổi rát cả mặt. Lẫn trong gió tôi nghe
như có tiếng kêu gào rên xiết của dân tôi trong cuộc Nam Bắc phân
tranh gần 300 năm giữa hai ḍng họ Trịnh - Nguyễn.
“Ôi sông Gianh tiếng oán hờn trong gió!”. Chưa có một dân tộc nào bị
chia cắt nhiều lần và dài đăng đẳng như dân tôi. Phải chăng đó là
một lời nguyền?
Tôi hồi tưởng lại câu chuyện ngắn của một chiến binh Thủy Quân Lục
Chiến đăng trên nguyệt san Sóng Thần vào năm 1973, lời mở đầu: “Nếu
huyền thoại về một người dân Hời nào đó đứng trên đỉnh Ba Ḷng nh́n
xuống cuộc Nam chinh của người dân Việt mà thốt lên lời nguyền vong
quốc...”, có lẽ dân miền Trung nói riêng và cả dân tộc tôi nói chung
phải hứng chịu tai ương của lời nguyền đó.
Tôi đă đi ngược thời gian suốt một chặng đường để trở về nh́n lại
quê hương mà tôi ước mơ từ thuở bé, nhưng sao chỉ nh́n thấy toàn
những đau thương đến với mọi người.
Đoàn xe trực chỉ Thanh Hóa, khoảng một tiếng sau chúng tôi rời quốc
lộ 1 để đi về hướng Tây, xe đánh một ṿng cung gần 180 độ. Tôi nh́n
thấy mái phía sau của một ngôi nhà tương đối rộng, một nửa lợp
tranh, một nửa mái ngói đỏ. Gần năm phút sau th́ xe chạy qua trước
mặt ngôi nhà đó, th́ ra là trụ sở của một cơ quan huyện Nông Cống,
nửa mái ngói phía trước đă phai màu, nửa c̣n lại đă bám rêu. Ṭ ṃ
tôi hỏi anh bộ đội trên xe của chúng tôi sao lại có cái mái nhà lạ
lùng như vậy.
Anh trả lời, "Thế đấy anh ơi, năm nào hợp tác xă Ngói phân phối bao
nhiêu th́ lợp bấy nhiêu". Tôi buột miệng nói thầm "Cơm độn khoai,
độn sắn, độn bo bo. Nói độn Hán chẳng ra Hán, Nôm chẳng ra Nôm. Bây
giờ mái nhà cũng độn nửa tranh, nửa ngói!".
Con đường vùng núi đất đỏ śnh lầy hơn sau một cơn mưa không lớn
lắm, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải lấy những tấm ny lông được phát
trước khi đi, trùm vội vàng cho khỏi ướt. Phía trước mặt vắng tanh,
đồng không mông quạnh, phía sau những ngôi nhà đă nhỏ bé hẳn lại.
Đoàn xe cứ tiếp tục lăn những ṿng bánh ră rời mệt mỏi và chịu đựng,
cũng như dân tộc tôi đă từng ră rời mệt mỏi và chịu đừng hàng bao
nhiêu năm qua. Nhớ ngày ở Cồn Tiên, lần đầu chúng tôi đi công tác về
phía đường cái, có anh bạn đi ngoài trại về kể lại cho anh em chúng
tôi hay anh thấy một cái bảng “dấu hiệu đi đường” rất lạ vẽ h́nh một
người đi xe đạp, chở theo một con heo kêu eng éc và c̣n có những nốt
nhạc trong bảng dấu hiệu đó. Một anh khác nói:
- Mẹ, mầy nói phét, làm ǵ có cái bảng đi đường kỳ lạ đó?
Anh nọ cười trả lời:
- Th́ nó có nghĩa là “đèo heo hút gió đấy”, mày không biết à!
Bây giờ chúng tôi lại rời xa miền đeo heo hút gió ấy để đi sâu hơn
vào một miền núi cao, vực thẳm.
Cụ Nguyễn Công Trứ thời làm quan đă khẩn hoang, lập nên hai huyện
Kim Sơn, Tiền Hải. Thời bị đi đày làm lính thú ở Nông Cống, Thanh
Hóa có làm những bài hát nói đầy hùng khí mà tôi c̣n thuộc ḷng như
bài “Kẻ Sĩ” và “Chí Làm Trai”.
" Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
Có giang sơn th́ sĩ đă có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí..."
Hoặc:
"Ṿng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể..."
Giờ đây hơn 400 kẻ sĩ chúng tôi được cấp phát dao rựa, cày cuốc, búa
ŕu. Nhớ ngày xưa “Xếp bút nghiên lo việc kiếm cung”, nay chẳng lẽ
lại phải vùi thây nơi đáy hồ sông Mực?
Nghe anh bộ đội chân thành kể chuyện về Bác và Đảng cho khai quang
ḷng hồ sông Mực để đem cá lên núi, nuôi và gây giống, tôi chỉ tội
cho anh bị lường gạt và thương cho sự hiểu biết nông cạn của dân
tôi.
Kỷ niệm lúc ở Cồn Tiên lại hiện về. Tôi nhớ anh vệ binh tên Thuật,
dẫn chúng tôi đi lao động cuốc đất. Khi đo anh nói: “Anh này cuốc bề
ngang 2 mét, dài 20 mét, thế là 40 mét vuông”. Một hôm tôi cuốc b́a
ngoài, đụng phải đường cái. Anh Thuật lại đo và nói: “Anh này cuốc
h́nh tam giác, cạnh đáy 3 mét, chiều cao 15 mét, thế là 45 mét
vuông”.
Từ đó anh em chúng tôi ai cũng tranh nhau cuốc h́nh tam giác. Các lô
đất chúng tôi cuốc trông chẳng ra h́nh dáng ǵ cả. Kẻ cuốc ngang,
người cuốc dọc, đâm tán loạn vào nhau để cố tạo ra cho được những
h́nh tam giác. Anh Thuật bị đậu mùa từ thuở bé, thế là chúng tôi đặt
cho anh một cái tên rất thích hợp là “Con Ḅ Lục”. Từ xa nh́n thấy
anh chúng tôi nói ngay “Con Ḅ Lục đến tụi bay ơi!”. Sau biết được
nhưng anh không giận, chỉ tủi thân nói “Các anh cứ trêu tôi hoài”.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy có lỗi đối với sự thật thà chất phác của
anh.
Đoàn xe bắt đầu chạy đâm vào một khu rừng, sau một hồi lên đồi xuống
dốc, đổ chúng tôi xuống một nơi núi rừng thâm u, chằng chịt cây cối
xung quanh, đâu đây nghe tiếng nước chảy xiết, sau này biết ra th́
chúng tôi ở thượng nguồn sông Mực. Mệt nhoài nhưng chúng tôi phải
phát quang, dọn dẹp ngay để có chỗ ngủ và dựng nhà. Cực nhất là
những anh em nhà bếp, phải đắp vội vàng những cái bếp để nấu ăn cho
cả đội.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu làm nhà. Tôi bắt đầu biết được loại
tranh nứa. Đó là những ống nứa đập giập xẻ dọc, chặt ra thành những
đoạn dài 70 đến 80 phân, kết vào nhau bằng những sợi nứa, cột thành
từng tấm tranh, xếp chồng lên nhau, gối nhau khoảng 1/4 tấm tranh;
nh́n lên mái nhà thấy ánh sáng xuyên qua, nhưng mưa th́ không dột.
Một hôm tổ chúng tôi được phân công chặt nứa bên kia sông, mỗi người
một bó 15 cây . Nước sông Mực cuối năm lạnh cóng, sáng sớm chúng tôi
phải thức dậy ra bờ sông. Hai bờ sông chỉ cách nhau khoảng 20 mét.
Nước chảy khá nhanh và mạnh, chúng tôi phải sexy 100% để bơi qua
sông. Ôi chao những thân h́nh tù tội gầy guộc!!!
Chúng tôi cởi bỏ tất cả quần áo, cho vào trong tấm ny-lông, buộc
chặt vào trong cánh tay. Muốn bơi qua bờ bên kia, chúng tôi phải đi
ngược lên trên khoảng 30 mét, rồi thả trôi theo ḍng nước, chỉ bơi
một tay, c̣n tay kia giữ bọc ny-lông, giơ cao qua khỏi đầu cho đừng
ướt.
Nhớ năm học lớp Đệ Tứ ở trường Nguyễn Trăi, Bách nhắn tôi vào trường
sớm trước 1 giờ trưa. Hai chúng tôi lẻn vào lớp học. Bách lấy ra một
ổ khóa, khóa trái cửa lại. Chúng tôi kéo bàn ghế chận cửa ra vào,
rồi leo cửa sổ ra, canh cho chốt cửa sổ rớt đúng vào khe, sau đó xếp
hàng vào lớp b́nh thường với các bạn như không biết ǵ cả. Cửa khóa
không vào lớp được và không c̣n pḥng trống, chúng tôi được cho nghỉ
học. Thế là lũ chúng tôi khoảng hơn 10 học sinh kéo nhau về sông cầu
Tân Thuận, đến một băi rác Mỹ gần đấy, nhặt lấy những ống giấy đạn
đại bác làm phao bơi ra giữa sông. Tôi biết bơi từ những ngày ấy.
Ḍng nước đưa chúng tôi đến bờ bên kia. Chỉ mới hơn 5 phút ngâm nước
mà người tôi đă đỏ rần, lạnh cóng, răng đánh ḅ cạp, vội vàng mặt
tất cả quần áo mang theo vào, choàng lấy tấm ny-lông lên vai, lao
vào rừng chặt lấy, chặt để, miệng lầm bầm chửi “Tiên sư cha mầy...!
Tiên sư bố mày...! Tiên sư cha mầy thằng chết băm! Tiên sư cha mầy
thằng chết vằm!".
Vừa làm vừa chửi để trấn áp bớt cơn lạnh và đói cũng như trút bớt đi
những bực tức trong ḷng, chưa được ăn sáng mà cảm thấy như đă mất
tiêu buổi sáng rồi.
Chuyến về c̣n khổ hơn, phải kéo bó nứa xa hơn đến 50 mét, thế mà vẫn
bị nước đẩy, trôi xa khỏi bờ về một khoảng dài, vội vàng tṛng hết
cả quần áo vào người, vác bó nứa mà chạy như bay hầu cảm thấy được
chút hơi ấm.
Rừng càng ngày càng được khai quang bởi sức bọn tù chúng tôi. Khoảng
một tháng sau, chúng tôi chạm đến con đường đất đỏ đưa chúng tôi vào
đây lúc trước. Thế là cứ một tuần 6 ngày, một ngày 8 tiếng, cộng
thêm tranh thủ lao động trước và sau giờ làm, cộng thêm cách tuần
lao động xă hội chủ nghĩa sáng chủ nhật, anh em chúng tôi hao ṃn
dần theo thời gian.
Một buổi chiều về trại với bó nứa tranh thủ trên vai. Tôi tưởng ḿnh
nhấc chân sẽ cao hơn sợi dây leo dưới đất, nhưng không..., thế là
vấp ngă, nứa một nơi, rựa một nẻo, c̣n người th́ nằm một đống chán
chường. Ngửa mặt nh́n trời cho hết cơn mệt, tôi ngồi dậy gom nứa,
gom dao, thất thểu từng bước nặng nhọc trở về trại.
Một hôm trên đường chúng tôi gặp một chú bé trai khoảng mười hai,
mười ba tuổi, người c̣m cơi, đi nhặt những cành cây làm củi. Động
ḷng thương, một vài anh trong đội chặt cho chú bé một gánh củi, c̣n
làm thêm một cái đ̣n xóc thật gọn cho chú bé. Thằng bé từ chối với
lư do là không được mang cây tươi về làng, chỉ được nhặt cây khô và
mục mà thôi. Đâm nản, một anh nổi cáu "Thế th́ mày đi t́m củi mục
đi, làm cho mà lại chê!". Chúng tôi thực sự không biết là mang cây
tươi về làng sẽ bị phạt vạ. Anh khác thấy thằng bé ngơ ngác tội
nghiệp, múc cho thằng bé một chén chè đậu xanh, đường và đậu anh em
chúng tôi cắc củm để dành khá lâu mới có được nồi chè. Thằng bé ăn
lấy ăn để, hít hà v́ nóng, miệng hỏi:
- Cái ǵ ngon thế các chú?
- Chè đậu xanh đấy, mầy chưa ăn bao giờ à! Một anh trả lời.
- Từ bé đến giờ cháu mới được ăn lần đầu tiên đấy!
Anh bạn tôi bật cười về sự ngây thơ thật thà của thằng bé nhưng đôi
mắt anh rướm lệ, có lẽ anh đang nghĩ về những đứa con của ḿnh ở
miền Nam vắng cha, chắc cũng đang thèm thuồng một chén chè đậu như
thằng bé đáng thương này. Thế hệ tương lai của dân tộc tôi đấy à!!!,
thiếu cả niềm vui thật nhỏ nhoi từ khi c̣n bé.
Tết ở miền Bắc chúng tôi được nghỉ sớm ngày 30 và 3 ngày Tết. Đội
chúng tôi được phân phối một con trâu thịt và con trâu này được tiêu
thụ một cách tận t́nh. Chỉ có phân, lông, hai hàm răng và bốn cái
móng là được vất đi thôi. Hai cái sừng được các anh nhà bếp lấy làm
đồ trang sức như lược, nhẫn, c̣n tất cả được tiêu thụ gọn gàng.
Chúng tôi được phát những bát canh da trâu hầm nhừ như thạch cao,
hoặc canh xương trâu lổn nhổn, thịt th́ được chặt to kho mặn. Một
anh bạn nhái giọng các anh cán bộ miền Bắc lúc lên lớp.
- “Nàm th́ nười, không lói th́ nơ nà, lói th́ bảo người ta nấy ne,
nễ nớn th́ đ̣i ăn thịt trâu, thịt nợn”. *(một số người Bắc phát âm
chữ “N” thành “L” hay ngược lại)*
Chúng tôi được phát kẹo và rượu chanh quốc doanh để hơi cay và chua
trấn áp bớt mùi mỡ trâu.
Cả năm trời không có chất béo, chất ngọt, v́ thế ba ngày Tết, lăng
cụ Hồ là nơi chúng tôi xếp hàng viếng thăm nhiều nhất; có anh ở lăng
cụ c̣n nhiều hơn ở trong lán. Đêm nằm nghe tiếng pháo nổ râm ran,
mùi thuốc pháo ngửi vào ngộp thở, bụng anh nào anh nấy sôi sùng sục,
thế là một màn thuốc Nam, thuốc lá cây dễ tiêu khắp nơi diễn ra suốt
mấy ngày Tết. Nằm ngay gần cửa tôi c̣n thở được, chỉ tội các anh nằm
ở giữa nhà chỉ biết rủa tên cúng cơm của Bác.
Ngày vui qua nhanh, mùng 4 tết chúng tôi uể oải bắt tay trở lại lao
động một cách biếng nhác, ră rời.
Ḷng hồ sông Mực bắt đầu hiện ra lởm chởm, nham nhở như một cái ḷng
chảo không đẹp mắt v́ những chỗ cao, chỗ thấp không đều. Những chỗ
cao th́ cây trụi lủi, những chỗ thấp th́ cây cối vẫn c̣n rậm rạp.
Th́ ra bản đồ không chính xác. Song song với công tác khai quang,
mỗi khối phải cử 3, 4 người đi sửa chữa những nơi c̣n sót lại.
Suốt thời gian ở miền Bắc chúng tôi chẳng bao giờ được bữa ăn no,
bữa sáng được 200 gr bột ḿ, bữa trưa 250 gr, bữa chiều 250 gr. Bột
ḿ được ṿ thành những miếng tṛn như ḷng bàn tay, anh em chúng tôi
gọi đùa "một ngày tiêu chuẩn ba bánh xe". Thời gian đầu không có rau
xanh, chúng tôi hái những đọt tàu bay, đôi khi không luộc được, phải
ăn sống, mùi rau tươi cay nồng, phải ráng nhai và nuốt cho có chút
rau cỏ.
Có một ngày Chủ Nhật không phải lao động xă hội chủ nghĩa và không
được ăn sáng, đói quá tôi rủ Thành, người Mỹ Tho, hai chúng tôi lần
theo tiếng gà gáy, leo qua hai ngọn đồi nhỏ, quên cả những nguy hiểm
có thể xảy ra, chúng tôi thấy một ngôi làng nhỏ, lần theo dốc ngọn
đồi để xuống làng. Bước vào căn nhà đầu tiên, tôi hỏi người đàn bà
vừa bước ra cửa:
- Bác có gạo bán cho tôi vài cân.
Bà xua tay bảo:
- Ở đây không có gạo bán đâu, các anh đi nơi khác cho.
Có lẽ bà ta sợ liên hệ với chúng tôi. Đi lần vào trong, ngôi nhà thứ
hai và thứ ba cũng như thế, không ai dám tiếp xúc và buôn bán ǵ với
chúng tôi. Vào gần tới giữa làng tôi nghe tiếng vọng cổ phát ra từ
một ngôi nhà bên phải, tôi kéo Thành bước nhanh về phía đó.
Bước vào sân tôi trông thấy một thanh niên trẻ khoảng hơn 20 tuổi,
tôi hỏi vội:
- Anh có gạo bán cho tôi vài cân.
Anh thanh niên trả lời:
- Không có đâu anh, chỉ có khoai sắn, các anh có ăn em để lại cho, 5
hào một cân.
Tôi xin được nấu nhờ bếp, anh vui vẻ chỉ cho tôi bếp, nồi và nước
rửa khoai. Vừa châm bếp lửa tôi vừa hỏi:
- Anh nghe vọng cổ mà anh có biết ai hát không?
- Biết chứ anh, Thanh Kim Huệ và Minh Vương.
- Sao anh biết đó là Thanh Kim Huệ và Minh Vương?
- Năm 75 em theo đoàn quân vào tới Sài G̣n, đóng quân bên cầu chữ Y,
ở nhà một bà mẹ chiến sĩ, cuối tuần bà thường dắt chúng em đi xem
cải lương ở rạp Nguyễn Văn Hảo.
Kư ức tràn về trong tôi như cuốn phim quay chậm. Ngồi nh́n anh nói,
tôi như muốn nuốt những lời đó vào ḷng.
Từ Đại học Khoa Học Sài G̣n, theo đường Cộng Ḥa, chạy xuống ngă tư
Nancy, quẹo phải ở đường Trần Hưng Đạo, quẹo trái Nguyễn Biểu, góc
đường là rạp hát Văn Cầm, chạy thẳng xuống cây cầu chữ Y, một phía
qua ḷ heo Chánh Hưng, một phía về nhà đèn Chợ Quán, hay dọc theo
đường bến Chương Dương đi về phía Cầu Kho, leo đ̣ ngang qua rạch Bến
Nghé để đi về phía cầu Dừa, hoặc quẹo trái trên đường Trần Hưng Đạo
để đi về phía rạp Nguyễn Văn Hảo... Ôi! Những địa điểm mà tôi đă đi
qua, từ tuổi thơ cho đến ngày trưởng thành, tôi thuộc ḷng nhiều ngơ
ngách, những tên đường của cái thành phố mà tôi đă được sinh ra và
lớn lên, từ ngôi nhà mà Bố tôi đă gầy dựng trên đường Hồng Thập Tự
khi ông vào Nam hơn 30 năm trước.
Nhớ những buổi trưa chị em tôi đi học sớm, ráng leo lên gần mười bậc
cấp của rạp Nguyễn Văn Hào để cố xin cho bằng được tờ chương tŕnh
của tuồng cải lương mới "Gánh Hàng Hoa", "Đời Cô Lựu", "Con Gái Chị
Hằng", "Sơn Nữ Phà Ca"..., hoặc để được nh́n ngắm các tấm posters,
chân dung màu sặc sỡ của Thanh Nga, Ngọc Giàu, Hữu Phước, Hoàng
Giang... Tôi nhớ như in h́nh ảnh một chú bé đừng trên những bậc thềm
của rạp Nguyễn Văn Hảo gần 20 năm trước, nh́n về phía trường Trương
Minh Kư nơi tôi theo học thuở ấu thơ, cách đó chỉ một góc đường,
h́nh ảnh đó sao thật gần mà như xa xôi quá...
Tối hôm ấy tôi không ngủ được, phần v́ quá no, phần v́ nhớ nhà, cũng
có thể v́ tủi thân tù tội.
Một hôm đội tôi công tác gần với các toán thanh niên xung phong, họ
thăm hỏi và chúc chúng tôi ra về mạnh giỏi. Những tin đồn sắp đến
ngày về cũng làm cho anh em chúng tôi cảm thấy ấm ḷng, rồi th́ ngày
đó cũng đến thật. Chúng tôi được nghỉ, thu xếp gọn gàng chờ xe đến
đón.
Ngày rời ḷng hồ sông Mực, những toán nhân công và thanh niên xung
phong làm việc hai bên đường vẫy tay chào và chúc chúng tôi ra về
được b́nh an. Tôi cảm thấy bản chát những người dân đen cùng khổ từ
Bắc chí Nam, lúc nào cũng rộng lượng thương người.
Lúc ra miền Bắc, mỗi lần nghĩ đến bài hát "Em Tôi" của tác giả Lê
Trạch Lựu là mỗi lần ngậm ngùi, "Ngày về xa quá người ơi!...". Hôm
nay ngày về đến rồi th́ lại cảm thấy đường về xa quá, dài đăng đẳng.
Tôi cứ thấp thỏm mong ngóng, sao lâu quá không thấy sông Gianh, cả
ngày rồi mà chưa gặp Đèo Ngang, sao mà Vinh xa xôi thế, Đồng Hới đâu
mất rồi. Những nơi chúng tôi về qua, tôi nh́n thấy gương mặt vui
tươi của những người dân hai bên đường, có phải tại ḷng chúng tôi
đang vui chăng...?
Rồi th́ xe cũng đến sông Bến Hải, chúng tôi thấy ḷng rộn ră, những
giọng cười, những tiếng thở phào nhẹ nhơm, vui mừng. Chúng tôi náo
động hẳn lên và bắt đầu bàn tán, cá cược nơi đến sẽ là chỗ nào; ai
cũng đếm thầm từng giây, từng phút.
Xe chạm bờ Bắc sông Bến Hải và vượt lên cầu, cảnh vật vẫn chẳng có
ǵ thay đổi so với năm trước. Nh́n xuống ḍng nước trong xanh lặng
lờ trôi, tôi rướn người đứng dậy, gió thoang thoảng thổi mát rượi
vào mặt, tôi rùng ḿnh và chợt cảm thấy cầu đă đổi tên lại là cầu
Hiền Lương để nối lại hai bờ Nam Bắc, để cho chúng tôi có đường về,
để cho dân tộc tôi lại được thông thương, và để cho ḍng máu Việt
Nam lại chảy xuôi từ Bắc vào Nam theo nhịp đi của dân tộc.
Dọc đường quốc lộ 1 dẫn về căn cứ Ái Tử, những người dân miền Nam
ngẩng lên nh́n chúng tôi với những gương mặt rạng rỡ, cảm thông như
nh́n thấy người thân sau một thời gian dài xa cách. Vài "O" đă thảy
lên trên đoàn xe chúng tôi những gói lá thức ăn, một gói may mắn đă
rơi vào trong xe chúng tôi. Có lẽ đó là bữa ăn của họ “những người
dân nghèo khổ”. Họ sẵn ḷng nhịn đói để cho chúng tôi bớt đói ḷng.
Bâng khuâng với niềm vui khó tả, tôi chợt thấm thía câu ca dao đầy
t́nh tự quê hương.
"Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng".
Năm mươi năm sau ngày cha tôi rời quê nghèo, tôi cũng vượt biên để
được tạm cư tại một nước thứ ba, rồi cũng như những người dân Việt
đă cần cù lam lũ hơn 4 ngàn năm, tôi lại tiếp tục cần cù lam lũ để
xây dựng hơn nửa đời c̣n lại nơi xứ người. Trong thâm tâm vẫn mang
một ước nguyện, một ngày nào đó được đưa các con tôi về lại quê cha
đất tổ, để được đi tiếp chặng đường c̣n sót lại về ḷng đất quê
hương.
Từ Thanh Hóa đến Tam Điệp, theo chân đoàn quân của Quang Trung Hoàng
Đế về Thăng Long đập tan Tôn Sĩ Nghị, để được ngâm lại bài thơ
"Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan.
"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước c̣n cau mặt với tang thương
Ngàn năm sử sách soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường"
Hoặc được trốn học để cùng đi với chàng thư sinh Nguyễn Nhược Pháp
trẩy hội chùa Hương, để hẹn ḥ cùng cô bé mười lăm bới tóc đuôi gà.
Được nghe lời thề quyết thắng của Hưng Đạo Vương “Nếu không thắng
giặc, thề không trở về lại trên ḍng sông này”. Được xem Đinh Bộ
Lĩnh tập trận cờ lau. Về Bạch Đằng Giang xem Ngô Quyền cỡi sóng phá
tan giặc Nam Hán, chấm dứt một ngàn năm nô lệ Bắc phương. Về Cổ Loa
theo dấu lông ngỗng để được xem chuyện t́nh Trọng Thủy Mỵ Châu. Đến
Mê Linh nghe trống trận của Hai Bà, xem Triệu Ẩu cỡi voi đuổi giặc,
hoặc ngă người trên chiếc thuyền nan nghe tiếng sáo Trương Chi mà
tương tư nàng Mỵ Nương xinh đẹp, theo chân hoàng tử An Tiêm vào cung
dâng dưa hấu cho Phụ Hoàng. Mộng thấy thần tiên mách bảo cho chàng
hoàng tử út hiếu thảo làm bánh chưng, bánh dày nhân dịp Xuân về Tết
đến. Ước mong nhất là được nh́n thấy tổ tiên chúng tôi, Lạc Long
Quân và Âu Cơ bịn rịn chia tay, 50 người con theo cha lên núi, 50
người con theo mẹ xuống biển tạo nên ḍng Bách Việt ngày nay.
Quê hương tôi đó lịch sử rạng ngời. Tôi mong có ngày được đưa các
con tôi về để nh́n thấy dân tôi ấm no, hạnh phúc, đất nước tôi thống
nhất, thanh b́nh, chứ đừng như anh em chúng tôi 25 năm trước, ngược
ḍng thời gian để chỉ phải nh́n thấy quê hương tôi và dân tộc tôi
trong tang thương, đói nghèo và lạc hậu.
Anh Cao Xuân Huy, một niên trưởng Nguyễn Trăi, cũng là niên trưởng
Thủy Quân Lục Chiến có lần nhắc lời cụ tổ chúng tôi trong bài hịch
"B́nh Ngô Đại Cáo" vang rền lịch sử "Lấy đại nghĩa để thắng hung
tàn".
Hung tàn c̣n đó trên quê hương tôi, muốn được làm một nghĩa quân Lam
Sơn nhưng đại nghĩa đâu không thấy, chỉ thấy rặt một phường xôi
thịt, đỉnh chung, chưa cầm quyền đă buôn quan bán tước. Chắc là phải
noi gương một cụ già xưa, đêm đêm thắp nhang cầu cho bạo chúa sống
lâu, cho dân tôi bớt khổ.
"Cây có cội, nước có nguồn", "Chim có tổ,
người có tông".
Thật đáng thương cho những kẻ tự xưng ḿnh mang ḍng máu Lạc Hồng,
lại v́ chút hiềm thù, tư lợi nhỏ nhen hoặc bè phái, đă và đang làm
những điều xúc phạm đến dân tộc, đến quê hương.
Nguyện cầu hồn thiêng sông núi và anh linh tiền nhân rộng ḷng tha
thứ...
Viết để kính tặng và tưởng nhớ anh Lực, một kẻ sĩ đă ở lại sông Mực
và kính tặng 400 anh em chúng tôi trong chuyến Bắc du năm 1977-1978.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại