Lời mở đầu : Trên mảnh
đất b́nh yên này, nơi xa cách Việt Nam ngàn dặm đường, cứ mỗi lần
nh́n lên khoảng trời xanh mênh mông, rồi bỗng bắt gặp một chiếc phi
cơ nào đó lướt qua, ḷng tôi lại chùng xuống khi hồi tưởng lại những
người bạn đă một thời cùng với ḿnh bay bổng ngày xưa. Mới buổi sáng
hai đứa c̣n ngồi trong pḥng hành quân để cùng tṛ chuyện, th́ buổi
chiều, trong một phi vụ kế tiếp, đă ra đi vĩnh viễn theo cánh bay.
Nhớ những phi công đàn anh, gan ĺ, đầy dũng cảm, mới ngày nào c̣n
dạy cho tôi những kinh nghiệm bay đầy quư giá, đáng lẽ phải sống để
nêu danh người phi công Việt hào hùng, th́ đă găy cánh bay trong
những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.
Nhớ những người bạn phi hành trẻ trung, đầy vô tư, đầy nhiệt t́nh
trong nghiệp bay bổng, hôm nào c̣n cùng nhau đùa giỡn và kể cho nhau
nghe những phi vụ ác liệt, th́ nay chẳng c̣n nữa.
Những chàng phi công vô danh, họ chẳng cầu mong tên tuổi được nêu
danh, nhưng đă sống và chết trong da sắt bọc thây.
Và rồi trong những ngày kỷ niệm về Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa trên
mảnh đất xa quê hương ngàn dặm này, lúc mọi người Việt đốt nén hương
lên để tưởng niệm những chiến sĩ đă hy sinh trong cuộc chiến vừa
qua, tôi lại xúc động khi nhớ về những người anh, những người bạn
"bay" năm xưa mà giờ đây không c̣n nữa.
Nhiều lúc tôi muốn quên đi, muốn thu ḿnh lại cho ḷng được thanh
thản, muốn nhồi nhét vào trong cùng kịt tủ áo chiếc áo bay ngày nào
đă cùng tôi một thời tung bay trên bầu trời Việt, nhưng kỷ niệm cũ
vẫn luôn trở về .......
Tôi về tŕnh diện Phi đoàn 520, một phi đoàn mang danh hiệu Thần
Báo, trực thuộc Sư đoàn 4 Không quân, tại căn cứ Trà nóc, tỉnh Cần
thơ, sau bốn năm dồi mài kinh sử trong trường Vơ bị Quốc gia Việt
Nam, và ngót hai năm huấn luyện tại Mỹ để trở thành phi công cho
chiếc khu trục A-37. Một khu trục cơ xinh xắn, gọn nhỏ như thân h́nh
người Việt, tuy nhiên cũng gầm thét đến đinh tai, nhức óc vào mỗi
lần được những chàng phi công mở máỵ
Lúc mới về, tôi rất phân vân. Toàn thể Phi Đoàn tôi, từ vị Phi Đoàn
trưởng cho đến tất cả sĩ quan phi hành đoàn, đều là dân Không Quân
"gốc", c̣n tôi, "lọt chọt" là một anh lính tàu bay từ quân trường
khác đến, không hiểu có bị "đít cờ ri mi nết" không !
Ṿng tŕnh diện vị Phi Đoàn Trưởng của tôi đă qua, không có ǵ trở
ngại Ông ta chỉ hỏi tôi qua loa về việc học, rồi chỉ định cho tôi về
phi đội A của Phi đoàn, và không quên chúc tôi cố gắng trong bước
đường bay bổng. Chiều nay, tôi phải đi tŕnh diện Đại Úy Sơn, vị Phi
Đội trưởng mà tôi được chỉ định về phục vụ trong phi đội của ông ta.
Theo đúng tác phong của quân trường, khi bước vào pḥng tôi đứng
thẳng người, chào kính theo lối "Đà Lạt" để tŕnh diện vị chỉ huy
mới của tôi. Điều khiến tôi ngạc nhiên pha lẫn thích thú là Đại úy
Sơn đă vỗ vai tôi thân mật:
- Đại úy..."Đại wéo" ǵ! Gọi tao là anh Sơn như mấy tụi em trong phi
đoàn là được rồi !
Một đặc điểm của anh Sơn, mà sau này tôi mới biết là anh không bao
giờ đeo cấp bậc trên áo, ngoại trừ mỗi sáng thứ hai, khi cả Không
Đoàn làm lễ chào cờ. Ngoài ra, anh không bao giờ có những lời lẽ
"dao to, búa lớn" với những người đối thoại với anh. Anh luôn đối xử
với chúng tôi như anh em trong một nhà. Anh bao giờ cũng kiên nhẫn
trong việc chỉ bảo, nâng đỡ những phi công trẻ mới về Phi Đoàn. Theo
tôi hiểu, khi nói chuyện với những người bạn mới trong Phi Đoàn, có
lẽ v́ tính khí "trên không đội, dưới không đạp" của anh, nên cho dù
đă mang cấp bậc Đại Úy đă lâu, nhưng anh vẫn "dậm chân tại chỗ" trên
bước đường... "bay" nghiệp.
Trong suốt tuần lễ đầu tiên, anh Sơn đă chỉ dạy cho tôi từng đường
đi, nước bước trong Phi Đoàn, từng chi tiết những điểm "hot" hành
quân trên bản đồ trong những vùng mà chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ.
Tôi c̣n nhớ, trước ngày bay "check out" hành quân, tôi cùng ngồi
chung với anh trong một phi vụ do thám cơ sở địch quân trên vùng
biên giới Kampuchia. Khi cất cánh bay, anh đă nói đùa với tôi:
- Mày ở Đà Lạt ra hả? Để tao coi gị cẳng mày cứng tới cỡ nào.
Quả nhiên lần bay này tôi thật hú vía. Anh đă hướng dẫn tôi bay sát
ngọn cây trong những vùng mật khu địch. Như phản ứng tự nhiên, chân
tôi chỉ muốn... co lại v́ sợ...ï "chạm" những ngọn cây cao. Sau lần
bay ấy về, anh vui vẻ bảo tôi :
- Mày... được! Ngày mai, tao xếp mày đi check out với Trung tá Phi
Đoàn trưởng.
Tôi là người được anh cho bay hành quân sớm nhất trong toán bảy lính
bay "ṭ te" về Không Đoàn cùng một lượt với tôi.
Một vài nét về anh Sơn tôi xin được kể lại. Anh là một phi công đă
lớn tuổi so với tôi lúc bấy giờ, tuy thế, anh chưa từng lập gia
đ́nh. Anh sống một ḿnh trong cư xá độc thân với bọn "lục tổn" như
chúng tôi. Hằng ngày, cứ mỗi buổi chiều, sau khi bay về, anh lại rủ
bọn sĩ quan độc thân chúng tôi ra sân đánh cá trong những buổi chơi
volley. Anh là tay chơi bóng chuyền rất giỏi. Ít đứa nào dám cá với
anh về môn chơi này. Chỉ "từ chết tới bị thương". Tuy nhiên, dù
thắng hay bại, anh là người đứng ra trả tiền ăn uống cho bọn "cù lũ
nhí" chúng tôi. Bọn "wing men" chúng tôi, đứa nào cũng thích bay
chung phi tuần với anh, vừa... vững tâm, lại vừa học được những
"trick" hiếm có của anh trong những lần hành quân. Anh bay gan dạ ít
ai sánh bằng. Ngay cả Phi Đoàn trưởng của chúng tôi cũng phải "phán"
: "Đi bay hành quân với thằng Sơn Gáo - biệt hiệu của anh - lạnh
cẳng... bỏ mẹ"
Kể từ khi được check out hành quân, anh xếp cho tôi đi hành quân với
anh "liền tù t́". Nhiều hôm, cứ xong phi vụ này, là tiếp theo sau
một tiếng, xách dù ra cho phi vụ kế tiếp. Bọn "wing men" có than
phiền với anh th́ anh giải thích : "Đạo nó ở Đà Lạt ra, đă là Trung
úy rồi. Tao phải xếp nó bay nhiều để có đủ giờ bay rồi c̣n lên phi
tuần trưởng chứ.". Biết được hảo tâm của anh dành cho tôi trong
nghiệp bay bổng, nên dù có bị "đ́" bay hành quân liên miên, tôi vẫn
thầm cám ơn anh. Một người anh trong đời quân ngũ mà tôi hằng ngưỡng
mộ.
Thế rồi t́nh h́nh chiến sự ở miền Nam càng ngày càng bùng nổ mănh
liệt. Chúng tôi phải "bao" một vùng hành quân rộng hơn. Từ vùng IV
chiến thuật, giờ đây, phi đoàn chúng tôi c̣n có trách nhiệm yểm trợ
cho cả vùng III. Tất cả những sĩ quan phi hành tất bật cho các
chuyến bay hành quân dồn dập nên những cuộc tṛ chuyện vui đùa của
chúng tôi trong khi chờ bay giảm hẳn đi. Ai nấy đều đăm chiêu, chăm
chăm vào tấm bản đồ hành quân chiến sự. Không một ai có th́ giờ rỗi
rảnh, nhiều khi những bữa ăn trưa của tôi chỉ là một khúc bánh ḿ,
được nhét trong túi chân áo bay, để rồi sau khi cất cánh lên trời,
bay ra vùng hành quân, là lôi ra "gặm". Ai bảo đời phi công chúng
tôi là ăn sung, mặc sướng, là không gian lao.
Vào thời điểm này, anh Sơn cũng ít nói cười như trước. Có lần cùng
anh, vừa đeo dù lên vai, vừa bước ra phi cơ để đi hành quân chung
với anh trong một phi tuần, anh nhắn nhủ tôi:
- Cẩn thận nghen Đạo. Trong vùng hành quân của ḿnh, bọn nó có nhiều
hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 lắm. Nhớ sau mỗi lần chúi xuống thả bom, khi
kéo lên, bay h́nh chữ chi và thả faire nghen Đạo!
Tôi rưng rưng nước mắt, khẽ gật đầu, khi cảm nhận được sự lo lắng
của anh dành cho tôi, trước khi hai anh em cùng bay vào vùng địch.
Thế rồi tin Ban Mê Thuột mất, tin miền Trung thất thủ làm cho anh em
trong phi hành đoàn ủ rũ như trong những ngày tang chế. Ngày lại
ngày, vùng hành quân càng lui về phía Nam. Nào Phước Long, rồi Tây
Ninh, Long Khánh. Cho dù bao tin xấu đem lại, nhưng đa số anh em phi
hành trẻ vẫn cùng nhau thi hành nhiệm vụ được giao phó mà chẳng màng
hiểm nguy.
Bầu trời đen tối cứ đổ ập đến chúng tôi ngày một nhiều. Hôm qua, một
người bạn đă gẫy cánh ở vùng trời Mộc Hóa th́ ngày hôm nay, một sĩ
quan phi hành trong phi đoàn bạn đă hy sinh trên tỉnh Tây Ninh,
khiến tôi muốn khóc. Có những ai trong t́nh huống này, t́nh huống
của những chàng phi công, hàng ngày phải bay ra trận địa, khi trở
về, được tin đồng bạn của ḿnh không c̣n nữa, mới hiểu được tâm t́nh
của người phi công trong thời chiến. Những con người rất kiêu hùng,
cứng cơi lúc cưỡi ḿnh trên con "ngựa sắt", nhưng cũng rất yếu mềm
khi hay tin đồng bạn ḿnh đă găy cánh bay.
Vào một buổi chiều đầu tháng Tư, sau khi bay về trong một phi vụ
hành quân trên núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh, tôi đưa mắt nh́n lên bảng
hành quân th́ biết anh Sơn vừa cất cánh trong một phi tuần kế tiếp
để yểm trợ quân bạn tại Long An. Như thường lệ, tôi vào pḥng nghỉ
dành riêng cho sĩ quan phi hành nghỉ ngơi sau mỗi chuyến hành quân.
Mắt c̣n đang lim dim trong giấc ngủ để lấy sức cho phi tuần tiếp
theo trong ngày, th́ tôi nghe loáng thoáng bên ngoài :
- Sơn "Gáo" bị bắn rồi !
Tôi chợt bừng tỉnh dậy như thể có luồng điện giật chạm vào người,
rồi phóng vội ra ngoài :
- Sao ! Sao ! Anh Sơn bị bắn hả ! Có nhảy dù ra không ? Có nhảy dù
ra được không ?
Vừa hớt hơ, hớt hải hỏi trống không, tôi vừa cầu mong anh đă nhẩy dù
ra khỏi chiếc phi cơ đă bị bắn. Mọi người vây quanh chiếc điện thoại
liên lạc với pḥng hành quân chiến thuật để nghe thêm tin tức về phi
tuần này. Người tôi rũ ra. Sao anh lại có thể bị bắn được. Nguời phi
công vừa tài giỏi, vừa gan ĺ như anh th́ không thể bị bắn được, tôi
thầm cầu mong. Ước vọng duy nhất của tôi lúc bấy giờ là anh nhảy dù
ra khỏi chiếc A-37 xấu số để trở về với các anh em của phi đoàn, để
kể cho chúng tôi nghe những kinh nghiệm vượt thoát trong cơn nguy
nạn của người phi công.
Người tôi muốn chao đi, khi nghe loáng thoáng bên tai:
- Không thấy dù mở từ chiếc A-37 lâm nạn... v́ bay quá thấp.
Đúng rồi, đó là anh. Người phi công gan ĺ của chúng ta lúc nào cũng
thích bay thật thấp trong những phi vụ hành quân. Ngày xưa, anh đă
từng nói "Bay thấp, thả bom mới chính xác. Nếu bị pḥng không bắn
th́ chỉ một ḿnh phi công là..."ra đi", nhưng đỡ nguy hiểm cho nhiều
quân bạn lúc cận chiến với địch". Lời nói gỡ đó của anh chẳng may
nay đă trở thành hiện thực. Có phải v́ anh lo cho người khác hơn bản
thân anh nên mới có ngày đau buồn hôm nay cho cả phi đoàn. Thế là
anh đă ra đi thật sự rồi sao. Ước vọng rồi anh sẽ trở về của tôi tan
như mây khói.
Tôi bước ra ngoài pḥng hành quân phi đoàn để ngước nh́n lên khoảng
trời cao ngày hôm ấy mà ngóng trông anh như đứa trẻ ngóng trông mẹ
trở về. Bầu trời thật ảm đạm như thể đang cùng tôi đưa tiễn người
anh hùng ra đi. Chiếc A-37 của anh đă hun hút tận phương trời nào.
Anh đă ra đi như các chiến tướng ngày xưa. Chiến tướng ngày xưa mỗi
lần ra trận chỉ ước mong được da ngựa bọc thây. Anh đă ra đi với da
sắt quấn thân người.
Rồi đây c̣n có ai để chỉ dậy cho đàn em của anh trong nghiệp bay
bổng này, c̣n có ai luôn nhắn nhủ đàn em "Hăy cẩn thận nghen em" mỗi
lần cất cánh bay. Anh ra đi để đàn em như rắn mất đầu.
Thế rồi anh được vinh thăng Thiếu tá. Tại sao lại không thăng cấp
cho anh khi anh c̣n sống. Anh đă xứng đáng gấp ngàn lần để mang lên
chiếc áo bay cấp bậc ấy. Xin anh cho tôi được đứng thẳng người để
đứng chào kính anh như tư thế của trường Vơ bị đă dạy như ngày đầu
tiên tôi đă gặp anh. Trước mắt tôi, lung linh h́nh ảnh của anh ngày
nào mà anh đă từng mở một nụ cười hiền lành, bảo tôi : "Thiếu tá,
thiếu "téo" ǵ mày ! Gọi tao là anh Sơn là được rồi."
Nhưng không, thưa Thiếu Tá. Lần này, xin Thiếu Tá cho tôi được "căi
lệnh" Thiếu Tá. Tôi biết Thiếu Tá không muốn đàn em gọi Thiếu Tá
bằng cấp bậc, nhưng cấp bậc của Thiếu Tá không phải do luồn cúi mà
có. Cấp bậc ấy đối với tôi là do tài năng và đức độ của người anh
hùng Không Quân rất xứng đáng được hưởng. Người Không Quân luôn sáng
ngời trong tâm tưởng những đàn em phi hành đă theo đôi cánh bay của
Thiếu Tá trong cuộc đời bay bổng.
Sau khi anh mất đi tôi không c̣n hăng hái như xưa trước mỗi lần cất
cánh. Nhiều lúc trong bầu trời tĩnh mịch, chỉ có tôi và con chim
sắt, tôi như "nh́n" được h́nh ảnh của anh trách móc : "Không được
nản chí Đạo! Gắng lên! Cuộc đời em c̣n trẻ. Nghiệp bay bổng em c̣n
dài. Đời phi công tuy hiểm nguy nhưng rất hào hùng. Gắng lên "cù lũ
nhí" !!!!" Lời khuyên của anh văng vẳng đâu đây như tiếp sức, như
thổi vào tôi một luồng sinh lực, cho tôi cất cánh bay cao cho dến
ngày tôi dă thực hiện phi vụ cuối cùng trong cùng ngày cuối cùng mất
nước.
Ngày 25 tháng Tư, tất cả phi hành đoàn chăm chú vào tấm màn ảnh nhỏ
trên chiếc máy truyền h́nh được đặt trong pḥng nghỉ phi đoàn. Mọi
người lắng nghe lời tuyên bố từ chức của vị nguyên thủ quốc gia,
Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Ông hứa sẽ đứng trong hàng ngũ những
chiến sĩ của quân lực VNCH để bảo vệ miền Nam này. Sự từ chức của
ông kéo theo một loạt những rối ren trên thượng tầng cơ sở quốc gia.
Sáng ngày 30 tháng Tư, tôi có trong danh sách trong phi tuần đầu
tiên. Phi tuần tôi được lệnh cất cánh bay về Sài g̣n để yểm trợ cho
quân bạn đang giao tranh với địch quân vùng ngoại ô của thủ đô. Và
lần cất cánh của tôi sáng hôm ấy cũng là phi vụ cuối cùng của tôi
trong nghiệp bay bổng. Khi chiếc A-37 vừa vào ṿng đai của Sài G̣n,
tôi chuyển tần số để liên lạc với Paris, danh hiệu của trung tâm
liên lạc hành quân chiến cuộc xin chi tiết để yểm trợ, th́ chỉ nghe
những âm thanh rè rè mà không một ai trả lời. Không một chiếc máy
bay quan sát nào hướng dẫn chúng tôi. Lắc cánh trên không nh́n xuống
dưới là cảnh hỗn độn trên đường phố ngoại ô thành phố. Xe tăng địch
lẫn lộn với người dân chạy giặc.
Làm sao bây giờ ? Phải chi c̣n anh Sơn. Tôi tiếc rằng anh đă ra đi
quá sớm. Có anh ở đây, anh sẽ chẳng để cho xe tang địch quân ngờ ngờ
trên đường phố. Tôi không có bản lĩnh như anh. Làm sao để đánh địch
mà không chết dân đây. Người lính miền Nam khi ra trận là đánh trận
cho dân chứ không phải cho chủ nghĩa. Người lính quốc gia khi ra tay
không phải chỉ là một cái máy vô hồn. Họ luôn trong người gịng máu
mang t́nh tự dân tộc.
Chúng tôi được lệnh quay trở về phi trường Trà Nóc. Trên đường bay
về, tôi nghe lời tuyên bố của Tổng thống đương nhiệm Dương văn Minh
kêu gọi quân đội miền Nam hăy buông súng để trao quyền lại cho Mặt
trận Giải phóng Miền Nam. Sau đó, một vài phi tuần trên không, không
cam chịu sống chung với người "chủ mới" nên đă rủ chúng tôi cùng bay
sang Thái Lan. Đầu óc tôi như muốn vỡ. Tay cầm cần lái mà như mơ.
Đất nước tôi, nơi tôi đă sinh ra và lớn lên c̣n kia. Dân tộc tôi,
người đă cưu mang tôi từ khi tôi c̣n bé vẫn c̣n đó. Người vợ hiền
thơ dại dưới mảnh đất xanh ngát ruộng lúa đang c̣n ngóng trông tôi
trở về như sau những lần cất cánh bay. Trời ơi! T́nh nghĩa trong tôi
quá nặng, tôi phải quay trở về...
Tôi đă rời con ngựa sắt ở phi vụ cuối cùng trong nỗi tủi nhục của
người lính đă không làm tṛn nhiệm vụ. Phi vụ cuối cùng của anh Sơn
hào hùng bao nhiêu th́ phi vụ cuối cùng của tôi đă chấm dứt trong
nỗi đau ê chề của một người đă thua trận trong cuộc chiến.
Xin anh cho tôi được viết những lời này để tạ lỗi cùng anh, một đứa
"cù lũ nhí" đă không làm tṛn trách vụ mà anh đă đặt hết niềm tin
tưởng.
KQ Đinh Tiến Đạo
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại