Tác giả: Pierre Darcourt
Dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa
Bản đồ trận Xuân Lộc
Thứ Tư, Ngày 23 tháng 4
Cứ cách nhau 3 phút là các phóng pháo khu trục cơ cất cánh và đáp xuống phi trường.Trên băi đáp trực thăng số 42, đang có 4 chiếc gồm 2 chiếc vận tải loại lớn “Chinooks” CH-47C và 2 trực thăng Vơ Trang UH-1D đang sắp sửa cất cánh. Nhiệm vụ: tiếp tế đạn cho 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 48 bộ binh đang đụng địch ở chân núi Thị, một ngọn núi chế ngự hết cả vùng của đồn điền cao su An Lộc rộng lớn (S.I.P.H.), và đang chuẩn bị chống trả những trận tấn công dữ dội hơn của cộng sản .
Thiếu tá Luân, 36 tuổi (với 4000 giờ bay vá 12 huy chương), một trong những phi công ưu tú nhất thuộc Không Quân chiến thuật, đă chấp nhận cho tôi cùng bay với ông ta.
Chúng tôi sẽ nghỉ đêm tại mỏm núi và sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ bay lượn trên khắp vùng trận địa – 60 cây số dàn quân – của chiến trường Xuân Lộc trên quốc lộ 1 và tỉnh lộ 24 .
Có một số thợ máy mặc quần áo chống cháy đang gắn những tấm lưới thép dưới lườn thực thăng Chinooks CH-47C và chất đầy ắp các thùng đạn vào đó. Mặc vào một cái áo giáp chống đạn và đội một nón sắt có kính che mắt, tôi nịt giây nịt an toàn vào rất kỹ lưỡng.
Trên pḥng lái, là thiếu tá Luân và sĩ quan hoa tiêu. Bên trái của tôi là một sĩ quan pháo binh có cả ống nghe trên mủ và ống nói dưới cằm. Phía sau tôi ở hai bên trong hai ụ súng là hai anh xạ thủ với hai khẩu đại liên 50 chỉa ra ngoài, và dưới lườn trực thăng có hai ống phóng mỗi ống chứa 7 quả rốc kết. Chúng tôi cất cánh lúc 18 giờ 15 phút.
Trực thăng lấy cao độ nhanh, và trực chỉ hướng Đông. Xuyên qua các đám mây chúng tôi thấy một đường thẳng dài của quốc lộ 1 , lấm chấm có vài dấu nổ của đạn pháo: đó là tác xạ ngăn chặn của pháo binh sư đoàn 5 bộ binh đang pḥng thủ các ngơ vào Trăng Bom.
Trực thăng sau đó chui qua các đám mây xuống thấp , bay rà rà trên các ngọn cây cao su của hàng S.I.P.H. Trên một con đường ṃn thẳng vắt ngang đồn điền cao su, trên 12 xe vận tải Molotova chở đầy bộ đội đang chạy rất gần. Thiếu tá Bẻ cần quẹo gấp Luân đưa trực thăng nằm đúng ngay trên trục của đường ṃn. Th́nh h, hai, rồi bốn sự rung chuyển ngắn làm chấn động chiếc trực thăng. Bốn quả rốc kết đă được Luân phóng đi từ hai ống phóng và nổ đúng vào đoàn xe vận tải của Bắc Việt .
Nhiều tiếng nổ dữ dội cho thấy là các quả rốc kết đều trúng mục tiêu. Lửa , khói và miểng đạn bắn ra tung tóe gần như bao trùm chiếc trực thăng, v́ nó bay rất thấp. Tôi nghĩ là chúng tôi cũng có thể gập nguy cơ lắm. Chiếc trực thăng Vơ Trang UH-1D rung lên từng chập. Các đại liên thôi th́ thi nhau nhả đạn. Xuyên qua cửa ngang hông được mở toang ra, trong chớp nhoáng tôi thấy một chiếc xe đang cháy và những tên bộ đội bé nhỏ mặc quân phục xanh bị cháy đang nhảy tứ tung như những tia lửa bắn lên tứ hướng từ một cục than hồng. Thế rồi không c̣n nghe thấy ǵ nữa cả.
Chiếc Chinooks CH-47C lại bay rà lên trên tấm thảm xanh của rừng cao
su trở lại, chỉ c̣n nghe tiếng phành phạch của hai cánh trực thăng.
Cuộc tấn công vừa rồi chỉ kéo dài có 20 giây. Sáu phút sau, chúng
tôi đă thấy Núi Thi., Một mỏm đá với một cḥm cây và một gian nhà
lớn chỉ c̣n nửa nóc .
Đó là biệt thự của viên thanh tra đồn điền cao su. Thiếu tá Luân đáp
xuống một băi đất rộng được đánh dấu bằng mấy trái khói mầu vàng,
nằm cao hơn mỏm đá. Một anh thiếu úy đưa chúng tôi đến Bộ chỉ huy
của Trung tá Phát, một pḥng lớn ở tầng trệt của biệt thự, có bao
cát chung quanh, và một số bàn đầy máy móc truyền tin và điện thoại.
Trung tá Phát hớt tóc ngắn, cầm to, tôi có cảm tưởng như người ông toát ra sức mạnh và nghị lực. Chung quanh ông thấy có một nhóm sĩ quan ăn mặc sạch sẽ và chỉnh tề, đang chờ nhận lệnh. Trung tá Phát bắt tay tôi, tay kia đấm Luân một phát, rồi đăi chúng tôi mỗi người một cốc cà phê nóng có chế vào một ly rượu mạnh, xong vùa cười vừa nói :
- ” Các anh đừng lo, căn nhà nầy chắc lắm, toàn là xi măng cốt sắt và trước khi có giặc nghen ! Năm 1947 biệt thự nầy đă bị cháy và người Pháp đă bỏ đi. Hai chục năm sau người Mỹ lại sửa lại, tăng cường tới nóc nhà bằng các tấm thép. Họ đặt mấy chiếc tủ lạnh và sơn phết lại hết, màu xanh lá cây.”
Rồi sau đó ông ta nghiêm sắc mặt lại, nói với thiếu tá Luân :
- “Tôi đă mang lên được trên ngọn đồi nầy 4 khẩu pháo binh 105 ly và
3 khẩu 155 ly. Nhưng tôi thiếu đạn, tôi chỉ có 30 quả cho mỗi khẩu.
Tôi cần gấp ba lần như thế, và một số đạn bách kích pháo. Anh cố t́m
mọi cách mang lên đây cho tôi. Đi làm 6 hay 8 chuyến. Và làm sao để
tôi có một Vận Tải Cơ vơ trang AC-119K trước 12 giờ đêm và cho nó
trực thôi, sẳn sàng chờ lệnh, v́ bọn Bắc Việt chắc chắn sẽ chơi tôi
vào lúc 2, 3 giờ sáng ǵ đó thôi.
Vận Tải Cơ vơ trang AC-119K
- Hai chiếc Chinooks đang mang đến cho Anh 3 tấn đạn , thiếu tá Luân
đáp ngay. Họ sẽ đến đặt trước nhà cho anh trong một vài phút nữa
thôi. Về phần c̣n lại tôi sẽ làm cho anh tối đa”.
Thiếu tá Luân tiến tới một máy truyền tin và gọi Biên Ḥa , Trung tá
Phát đốt một điếu thuốc , lật bản đồ ra và giải thích cho tôi nghe
về t́nh h́nh :
- ” Sư đoàn 18 và Liên đoàn biệt động quân của đại tá Phước đă đánh
nhau với bọn nó như những con sư tử trong suốt 14 ngày ở thành phố
Xuân Lộc đổ nát nầy. Họ đă b́nh tĩnh lănh đủ hơn 20.000 quả pháo và
rốc kết. Họ đă bắn sụm 37 chiến xa T.54 và cho đo ván hơn 5000 tên
cộng sản .
Thứ hai vừa rồi, Bắc Việt đă bọc ṿng phía sau thành phố chiếm lại
giao lộ Suzannah và sơi luôn một đoàn xe tiếp tế của ḿnh. Sau đó họ
bố trí cẩn thận hai bên ngă tư, điều chỉnh sẳn tác xạ và để 2 sư
đoàn gần đó trong tư thế chờ đợi, hy vọng đánh tan xác chúng ta khi
ta rút quân. Nhưng tướng Đảo đă “chộp” được chúng nó.
Trưa thứ hai Tướng Đảo đă phản công và giải tỏa phần đất chung quanh phi trường trên hơn 2 cây số..đồng thời xin tiếp tế đạn thật nhiều cả bằng trực thăng và thả dù. Sau đó ngày thứ ba, nghĩa là mới hôm qua đây, thay v́ lui về ông đă cho cả sư đoàn đi thẳng về phía trước theo trục các đồn điền Courtenay- Xa Bang- B́nh Ba- Bà Rịa.
Ông đă bất thần phá vỡ ṿng vây Bắc Việt , mang theo tất cả thương binh, tất cả xe cộ (50 xe vận tải và trên 30 chiến xa. Không quân đă yểm trợ ông bằng cách dội bom CBU để dọn đường cho sư đoàn , loại bom mà cộng sản Bắc Việt rất khiếp sợ. Để giúp cho tướng Đảo thành công trong sự điều quân của ông ta, chúng tôi đă cho 2 tiểu đoàn đánh ngược hướng tiến quân của sư đoàn (1 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn của tôi), để cho cộng sản Bắc Việt tưởng rằng chúng ta sẽ rút lui về hướng Sài G̣n theo quốc lộ 1.
Tiểu đoàn Dù t́nh nguyện đâm thẳng vào Gia Kiệm để cầm chân một trung đoàn địch. Tiểu đoàn của tôi đă băng ngang đồn điền S.I.P.H. đánh ngay sau lưng địch, hạ sát trên 300 tên bộ đội, cắt hết đướng dây điện thoại của chúng, và bất ngờ đă bắn hạ 2 chiến xa T.54… Và chúng ta đă lên thẳng trên ngọn đồi nầy vốn chỉ được có một đại đội địa phương quân pḥng thủ, và chúng tôi đă mất hết hai ngày hai đêm dùng cuốc , vá để tổ chức vị trí pḥng ngự. Muốn đuổi chúng tôi ra khỏi đây hả?, chúng cũng phải trả một giá hết sức đắt.”
Đại úy Nhân đưa tôi đi xem vị trí pḥng ngự. Thiếu tá Luân đă cất
cánh với chiếc trực thăng của ông ta.
Ngọn đồi nầy chiếm một vị trí rất đặc biệt, nó là một khối đá cao
trên 100 thước , mặt phía Tây thẳng đứng và rất nguy hiểm, mặt phía
Bắc và phía Đông toàn là rừng, duy mặt Nam th́ có một lô cao su khá
lớn bao quanh.. Là một cao điểm duy nhất giữa một khu đất bằng phẳng
rộng lớn, vị trí nầy chế ngự cả vùng, địch khó có đường tiến sát đến
đây được mà không bị lộ, và không thể leo lên hay tràn ngập vị trí
pḥng thủ được bằng một cuộc tấn công trực diện. Dưới chân đồi và ở
cách xa khoảng 1500 thước là trung tâm đồn điền An Lộc, với một hệ
thống dường sá như bàn cờ ở dưới làn sóng xanh um của dồn điền cao
su An Lộc. Một bên là sân bay và bệnh xá, bên kia là một dăy nhà
kho, câu lạc bộ, biệt thự của giám đốc đồn điền, nhà của các nhân
viên phụ tá, hồ tắm, sân tơ nít, và trung tâm truyền tin. Chỉ là một
thành phố rất nhỏ nhưng hiện đại như thế thôi, do một nhúm người
Pháp điều hành mà nó nuôi sống được hằng ngàn công nhân và kỹ thuật
gia Việt Nam cư ngụ trong các làng khéo tổ chức với những căn nhà
tuy nhỏ nhưng đầy đủ tiện nghi (điện nước v.v..)
Các nhà trồng tỉa Pháp ở Việt Nam thật là đáng phục. Siêng năng, thẳng tánh nhưng kín miệng, họ sống với nhau rất là đoàn kết.. Đă quen với những sự nguy hiểm, thường đối đầu với những bài toán rất tế nhị, hay bị bọn Việt Cộng ở địa phương quấy nhiễu, thường hay bị bắt để đ̣i tiền chuộc, đôi khi c̣n bị không quân của ta bắn nữa, c̣n di chuyển th́ bắt buộc phải đi trên những con đường hay bị phục kích, những người Pháp nầy làm việc trong những điều kiện hết sức khó khăn.
Họ phải đi khắp các lô cao su, kiểm soát công việc cạo mủ hằng ngày, lo tu bổ dụng cụ, kiểm soát số lượng mủ., theo dỏi cây ương và c̣n phải chú ư đến sức khỏe của nhân công mà họ vừa là chủ vừa là những người đỡ đầu. Họ phải giải quyết tất cả các bài toán về nhân sinh , như dàn xếp các cuộc gây gỗ trong gia đ́nh , giữ luôn cả sổ sách về hộ tịch và c̣n phải giúp đở về dịch vụ săn sóc y tế cấp thời miễn phí nữa. Họ không bao giờ phàn nàn điều ǵ cả và chỉ có một lo âu : làm sao cho công việc mà họ có trách nhiệm được chạy đều. Lúc nảy, cũng gần như mỗi buỗi chiều, họ có nghe tiếng đại bác. Nhưng đêm nay, có thể họ có nguy cơ bị kẹt giữa hai lằn đạn của chiến trận.. Có phải v́ thế mà mặc dầu đêm đă xuống rồi mà sở An Lộc vẫn chưa lên đèn ?
Tôi chia xẻ nhận xét đó với đại úy Nhân.
-” Không phải đâu, người sĩ quan trẻ nầy đáp lời, những người Pháp
của đồn điền nầy không có ở đây nữa. Họ đă gặp rất nhiều khó khăn.
trước hết là đối với những người dân chạy giặc từ Miền Trung vào,
rồi sau đó là dân Xuân Lộc nữa .
Hằng ngàn người bất thần bị bom đạn, nên đă ùa vào đồn điền cao su
lánh nạn. Chủ đồn điền là ông Parnès, không lo xuể. Ông ta đă thiếu
gạo, nên đă phải băng ngang qua vùng lửa đạn để t́m xe lấy gạo. Ông
đă săn sóc cho đàn bà và trẻ con , đích thân chích thuốc cho họ,
nhưng không có cách nào để điều trị cho những người bị thương và
những bệnh nhân nặng. Vă lại có quá nhiều người .
Ông ta đă cố xuống Xuân Lộc để t́m một trong năm bác sĩ của bệnh
viện dân chính, nhưng không c̣n ông nào, họ đă chạy hết cả rồi. Ông
ta lại phải trở về đồn điền, và tiếp tục đi t́m họ trong những người
dân tỵ nạn đang ở trong các lô cao su.. Cuối cùng ông ta cũng gặp
được một người đang giả dạng thường dân, mặc bộ đồ bà ba đen, choàng
khăn và đội nón lá sùm sụp để che mặt lại. Ông ta đă nắm lấy bác sĩ
nầy và lôi về xe Jeep của ông. Bác sĩ nầy khẩn khoản xin cho ông một
thời gian :
” Tôi đang t́m bà vợ của tôi, bà ta sắp sửa tới ngày giờ sinh cháu
rồi mà lạc mất 3 ngày nay. Khi nào tôi gặp được bà ta th́ tôi theo
ông ngay” Ông Parnès đă giúp bác sĩ nầy đi t́m bà vợ, và cuối cùng
họ đă gặp người đàn bà bất hạnh nầy nằm trên một vũng bùn gần một
con rạch nhỏ. Bà đă sanh con trên miếng đất trống, giống như một con
thú vậy !
- Và ông bác sĩ đă làm ǵ ?
- “Vợ ông bụng căng lên đầy mủ. Bà ta qua đời vài giờ sau đó, nhưng ông bác sĩ đă giữ lời hứa, mang đứa con của ông về bệnh viện của đồn điền và sau đó đă làm việc thật bận bịu với những người dân chạy loạn.
Đại úy Nhân đưa tôi một điếu thuốc , dẫn tôi tới xem một ụ pḥng thủ
và nói tiếp :
- ” Các ông chủ sở cao su nầy có những mối ưu phiền khác. Các đơn vị
Bắc Việt đă đi ngang qua đồn điền. Một trung đoàn “bộ đội” (nguyên
tác :Bo- Dois”) quá khát nước đă tràn vào nhà máy và đă nốc sạch cả
bồn nước của nhà máy, làm nhà máy phải ngưng hoạt động v́ bồn nước
nầy dùng để làm nguội máy móc của nhà máy. Rồi lại đến lượt một
trung đoàn khác sau đó không lâu.
Toán tiền sát của họ đă đến trung tâm đồn điền. Toàn là người Bắc và
toàn là nông dân là những người chưa từng thấy cái ǵ hết. Họ đă lục
lọi đủ mọi thứ, và đă dùng báng súng đập vỡ hết các thứ kể cả các
máy thu thanh. (nguyên tác :postes de radio). Sau đó họ đă bắt đi 3
vị phụ tá, trói họ lại và dẫn vào rừng, c̣n đe dọa giết họ nữa bởi
v́ họ là “gián điệp của Mỹ” .
Các anh công nhân chạy đi t́m gặp bọn Việt Cộng ở địa phương, một
chánh trị viên người Nam đă đến gặp bộ đội Miền Bắc và cuối cùng đă
lănh họ về được với một “giấy đi đường”. Các anh phụ tá nầy đă trở
về làm việc ở sở. Rồi một đơn vị Bắc Việt khác lại đi qua, lại bắt
họ trói dẫn đi vào rừng. Nhưng lần nầy th́ không c̣n một ai biết
được số phận của họ ra sao nữa .
- C̣n thợ thầy công nhân th́ sao ?
- Họ vẫn làm việc nhưng họ sợ bị trả thù. Cách đây 2 ngày, một tiểu đoàn chánh quy Miền Bắc đă bị thiệt mạng trên 100 người trong một băi ḿn. Họ đă tràn vào làng công nhân ở khu D và đă dùng loa kêu tất cả phải ra ngoài. Có một số ra ngoài, nhưng phần đông đều ở trong nhà không ra. Các binh sĩ Bắc Việt đă nổ súng và liệng lựu đạn vào các căn nhà một cách rất ung dung và đă tàn sát trên 100 người phần đông là đàn bà và trẻ con….”
Đêm đă xuống hoàn toàn. Binh sĩ đă nằm ở vị trí chiến đấu , Và rải rác ở phía bên đường dẫn xuống đồng bằng, giữa những ḥn đá, ở những vị trí pháo binh và bách kích pháo, các xạ thủ củng đă sẵn sàng. Dài theo b́a phía đồn điền, là một đại đội biệt động quân với các khẩu trung liên , súng phóng lựu và súng không dật 57 ly. Phải biết chờ đợi và biết giữ yên lặng.
Vào lúc 10 giờ đêm, có tiếng phành phạch của trực thăng Chinooks nghe được mỗi lúc một gần… Binh sĩ cho đốt những ngọn đèn mà ánh sáng chỉ có trên không mới nh́n thấy, đánh dấu băi đáp để nhận hàng tiếp liệu.
Những chiếc trực thăng đảo tṛn trên Bộ Chỉ Huy, với những kiện hàng nặng trong các lưới thép ḷng tḥng dưới lườn. Chỉ trong ṿng vài phút, họ đă đặt các kiện hàng tiếp liệu xuống đất, hệ thống dây bịt thả ra hết và trực thăng lại bay đi. Và họ trở lại hai lần nữa. Từ xa, các tiếng nổ của đại bác gầm thét như những tiếng sấm trong cơn mưa. Nhưng cơn băo mà chúng tôi đang chờ đợi lại không thấy tới. Nằm gọn trong một hốc đá, tôi không tài nào ngủ được . Chỉ nghe tiếng dế gáy liên hồi…..
Nhưng đến 3 giờ sáng th́ mọi sự đều biến chuyển. Nhiều chùm lửa đỏ
rực của pháo binh Bắc Việt bay vào ngọn đồi. Có môt số cây bị trốc
cả gốc lên. Rồi có một đợt tiếng la vang dội dưới chân các mỏm đá,
phía dưới chân đồi.. Đó là lệnh xung phong của cán binh cộng sản .
Bộ đội Bắc Việt tấn công trực diện dọc theo hai bên con đường . Binh
sĩ Miền Nam không bắn phát súng nào. Họ chờ cho “bộ đội” đến gần hơn
dưới 100 thước. Và lúc đó tất cả các loại súng đều nổ một lượt..
Mấy ống bách kích pháo nhắm vào hai bên đường, nă đạn, ṇng súng gần
như thẳng đứng cho tầm tác xạ ngắn lại. Pháo binh 105 ly tác xạ ở cự
ly 0 độ. Thấp hơn phía dưới, về phía bên trái th́ các khẩu trung
liên của biệt động quân nổ như bắp rang. Có vài trái sáng được bắn
lên xé tan màn đêm tối, cho thấy các bóng người tan tác, ngă lăn oằn
oại dưới đất với những tiếng kêu la thảm thiết. Rồi hai Chiếc Vận
Tải Cơ vơ trang AC-119K lại xuất hiện, đang xé gió bay tới,,, sau
tiếng gầm, lao xuống như hai con chim ưng gặp mồi và dùng các khẩu
đại liên điện bắn như mưa xuống đám cán binh Bắc Việt c̣n sống sót
đang tháo chạy tán loạn dưới cánh đồng.
Có nhiều tràng pháo 130 ly bắn quá ngắn nên rơi hết xuống đám rừng làm trốc gốc thêm một số cây . Pháo binh 155 ly của Miền Nam phản pháo lại cũng dữ dội như sấm sét.. Đến 5 giờ sáng th́ mọi tiếng súng đều ngưng.. Lúc trời sáng tỏ th́ binh sĩ mới cẩn thận bước ra khỏi pḥng tuyến và đi lần xuống đồi, súng lăm lăm cầm tay sẳn sàng nhả đạn. Trên mặt đất có rất nhiều thây của cán binh Bắc Việt mặc quân phục xanh lá cây. Đại úy Nhân trao cho tôi một ly cà phê nóng và nói :
- ” Đêm rồi mọi việc đều rất tốt. Nhưng mà họ sẽ trở lại. Một tiếng đồng hồ nữa là thiếu Tá Luân sẽ có mặt ở đây, và anh sẽ đi về với ông ta.”
Vào 7 giờ sáng tôi lên trực thăng của thiếu tá Luân, và chúng tôi cất cánh, lên cao độ 1200 bộ và bay về hướng Bắc. .. Nh́n từ trên cao, Xuân Lộc chỉ là một đống gạch vụn đầy bụi, duy nhất chỉ c̣n mỗi lầu chuông của nhà thờ sừng sững như một ngọn hải đăng.
Trực thăng đổi hướng về hướng Đông và xuống thấp là là trên ngọn cao su. Qua khỏi đồn điền Hàng G̣n, chúng tôi thấy một đoàn xe dài của Bắc Việt , các chiến xa , các xe pháo binh, và xe vận tải chở đầy cán binh đang di chuyển dài trên mấy cây số ngang nhiên như chỗ không người và không thấy có nghi trang.Thiếu tá Luân tạt thật nhanh đi chỗ khác, dùng vô tuyến báo động ngay cho Biên Ḥa và vọt thẳng lên cao độ 1500 bộ.
Mười phút sau, chúng tôi chứng kiến một cảnh tượng quá kinh hồn. Hai, rồi bốn, rồi sáu chiến đấu cơ A.37 đâm bổ xuống tác xạ từ phía sau của đoàn xe gây nhiều đám cháy, lửa khói mịt mù..
Vài giây sau đó lại có hai chiếc vận tải cơ C.130 thả xuống từ trên cao hai thùng tṛn đen, có dù , và khi gần chạm đất gây ra hai tiếng nổ thật kinh khủng và phi thường, tiếp theo sau đó là hai lằn ánh sáng ngắn màu xanh kỳ dị.
Hai ngọn khói h́nh nấm tṛn bốc lên cao với một luồng gió mạnh phi
thường đến đỗi trực thăng của chúng tôi ở cao độ 1500 thước bị ảnh
hưởng, phải bị lắc lư rung chuyển thật mạnh, rồi rơi tuột xuống một
khoảng không như một ḥn đá, đến cao độ 800 bộ mới lấy lại được cự
thăng bằng.
Khi khói tan biến hết, th́ mới thấy được con đường ngổn ngang đầy xe
cộ bị lật ngă, nghiêng ngữa, tan nát, các khẩu pháo bị tung xuống hố
và thây người chết nằm răi rác trên 200 thước bề ngang, cây cối bị
trốc gốc ngă lộn nhào đưa cả rễ lên trời . Thật là một cái nh́n
khiếp đảm, cả một sự hủy diệt chỉ trong nháy mắt . Thiếu tá Luân cho
trực thăng bay sà xuống đường và bắn hết tất cả rốc kết dọc theo hai
bên đường . Không có một tiếng súng bắn trả: Th́ ra thiếu tá Luân đă
bắn vào một đoàn người chết…..
Sau khi đáp xuống sân bay Biên Ḥa , Thiếu tá Luân vừa cởi nón bay
ra vừa nói với tôi:
- ” Anh có thấy rơ mức độ thiệt hại không ? Hai thùng tṛn đen được
thả xuống ban nảy là hai trái bom C.B.U. 55. Một đầu đạn được gắn
vào phía trước hai thùng đen đó là bộ phận kích hỏa phát nổ gần mặt
đất. Như vậy là không có góc độ “tử giác” .
Trong ṿng 150 thước đường bán kính, không c̣n một chút không khí
nào hết, dĩ nhiên là không c̣n dưỡng khí ở đâu cả. Cộng thêm với làn
sóng cực mạnh của sức nổ. Cho nên đây là một loại vũ khí kinh hoàng,
chỉ có thể dùng nó khi nào địch quân tập trung đông đảo th́ mới có
hiệu quả cao.
- Như vậy họ dùng thuốc nổ loại nào ?
- Tôi cũng không biết chính xác cho lắm. Công thức nấy c̣n là “Tối Mật” và chỉ có người Mỹ là có thể biết thôi. Tôi nghĩ đây là một sự pha trộn giữa chất nổ T.N.T và một chất hóa học nào đó. Loại bom nầy đă có từ lâu rồi, nhưng v́ sợ dư luận của dân chúng Hoa Kỳ , nên người Mỹ chưa bao giờ xử dụng .
Khi rời khỏi Việt Nam , họ để lại cho chúng tôi trên 20 trái bom nầy và có dặn chúng tôi là chỉ nên xử dụng khi nào tối cần thiết, coi như đó là biện pháp sau cùng., Gần như đây là loại vũ khí của “cơ may cuối cùng”…. chúng tôi đă xử dụng 7 trái trong ṿng 3 ngày nay.
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại